Chương IV
Đặc điểm ca nhạc cải lương
1. Đặc điểm âm nhạc:
Nghệ thuật thuộc phạm trù là một hình thái đặc thù phản ánh hiện thực, có những đặc điểm riêng của nhận thức thẩm mỹ. Âm nhạc là một loại hình biểu hiện hình thái đặc thù ấy, bằng nghệ thuật âm thanh, qua chủ đề (Thema) tác phẩm. Nội dung đề tài là những ấn tượng về hiện thực sáng tạo của nhạc sĩ, phản ánh những hiện tượng khác nhau về thế giới xung quanh từ nền văn hoá vật chất, tinh thần, đời sống xã hội. Hình tượng nghệ thuật là những thành tố quan trọng biểu hiện nội dung đề tài, qua âm thanh, nhịp điệu âm nhạc. Âm nhạc hình thành các mô tip chủ đề, cấu tạo hình tượng giai điệu âm thanh, thể hiện tầm vóc tác phẩm qua những đặc điểm, tính chất cảm xúc. Đặc điểm là khái niệm chung về một hiện tượng, sự vật có những nét riêng, phản ánh bản chất đối tượng. Nhờ có những đặc điểm riêng để nhận biết các hiện tượng, sự vật và những hình thức nghệ thuật.
Đặc điểm nghệ thuật âm nhạc có ngôn ngữ âm thanh, là sự khác biệt với mỹ thuật, kiến trúc, sân khấu … Nhưng những âm thanh âm nhạc khác với âm thanh tự nhiên. Âm thanh âm nhạc xây dựng trên cơ sở đề tài tác phẩm, thể hiện qua cấu trúc giai điệu bằng sự liên kết, liên hệ giữa các quãng diễn tả nội dung hiện thực. Khi nói tới đặc điểm ngôn ngữ âm thanh hết sức phong phú, âm thanh tự nhiên xảy ra từ các hiện tượng vật lý, cơ học, tiếng động, tiếng nói, tiếng mưa… âm thanh nào là âm thanh âm nhạc? Âm thanh nào cũng là âm thanh âm nhạc, âm thanh nào cũng không phải là âm nhạc. Nguyên nhân nằm ở những nguyên tắc cấu trúc giai điệu âm nhạc không tuân thủ những nguyên tắc giai điệu sẽ không có âm nhạc kể cả tiếng đàn, tiếng hát. Những nguyên tắc cấu trúc giai điệu âm nhạc dựa trên nguyên lý mỹ học là khoa học thẩm mỹ, sáng tạo theo quy luật cái đẹp. Những nhà sáng tạo nghệ thuật là một hành trình cảm xúc tới cái đẹp, theo nguyên tắc ấy, mọi âm thanh: tiếng mưa, tiếng sấm, tiếng chó hoang … đều trở thành âm nhạc, bởi được sắp xếp theo giai điệu âm nhạc nằm trong chủ đề tác phẩm, phản ánh hiện thực cuộc sống. Âm nhạc có những quy luật cấu trúc, phản ánh, thẩm mỹ riêng của nghệ thuật âm thanh. Quy luật ấy, thể hiện qua đặc điểm nội dung hình thức, thể loại âm nhạc. Một thể loại có những đặc điểm riêng, đặc điểm chung của ngôn ngữ thể loại, ngôn ngữ loại hình. Thể loại âm nhạc có vô vàn trong cuộc sống do con người sáng tạo ra theo nhu cầu thẩm mỹ có các hình thức, giao hưởng, hợp xướng, Sonata, Conserto, nhạc cheo, tuồng, cải lương… Mỗi thể loại cấu trúc hình thức, hình tượng âm nhạc riêng là đặc điểm nội dung, phản ánh hiện thực cảm xúc. Nghệ thuật âm nhạc có đặc điểm chung:
- Ngôn ngữ âm thanh
- Hình tượng giai điệu thể hiện nội dung tác phẩm
- Phản ánh cái đẹp cảm thụ trực tiếp.
Đặc điểm âm nhạc là tiếng nói trái tim, cảm thụ trực tiếp tác động mạnh nhất đến công chúng, ngay lập tức âm nhạc ru ngủ cả đám đông, ngay lập tức biến họ thành kẻ cuồng loạn. Đây là đặc điểm nổi bật của âm nhạc, trong thế chiến thứ II, có một nghệ sĩ kéo đàn violon đã ngăn chặn một sư đoàn Đức tiến quân vào Ba Lan, nhờ sự sai lệch về thời gian bọn chúng đã bị tiêu diệt. Vào thập kỷ 70 thế kỷ XX, nhiều cuộc hoà nhạc Puk, Rock, sau đó là những cái chết bi thảm. Các cuộc hoà nhạc thường xảy ra, nhưng cái đẹp là bản chất thẩm mỹ đặc điểm, đặc sắc của âm nhạc, cần đi sâu vào những đặc điểm riêng. Nghiên cứu những đặc điểm làn, điệu, bài bản cải lương là những đặc tính âm nhạc hình thành sân khấu cải lương.
1.1. Đặc điểm làn điệu, bài bản
Ca nhạc sân khấu cải lương cấu thành từ ba loại hình thức âm nhạc là làn điệu và bài bản, đây là cách gọi ghép từ của nghệ nhân khi phân tích thì không phải hai mà có ba hình thức âm nhạc. Ba hình thức âm nhạc ấy, làm phong phú sự diễn tả sân khấu cải lương, đó là: Làn - điệu - bài bản. Mỗi loại tên gọi là một hình thức âm nhạc độc lập, diễn tả một nội dung âm nhạc, lời ca chuyển tải tình cảm, tình huống sân khấu cải lương.
Đó là đặc điểm tên gọi các hình thức âm nhạc, cấu thành vốn ca nhạc sân khấu cải lương. Làn là vốn những bài ca của sân khấu cải lương. Làn có giá trị diễn tả chất giai điệu âm nhạc tự do, ngâm ngợi, kể chuyển, giãi bầy tâm sự…Làn là chỗ diễn tả tình cảm, tình huống sân khấu. Làn giúp các nhân vật có điều kiện giãi bầy tâm trạng, giao lưu giữa các nhân vật, hoặc với công chúng. Làn là chỗ chùng xuống nhịp điệu sân khấu, là dấu nối, giữa các bài bản, điệu hát…góp phần đáp ứng mọi tình huống sân khấu. Nhờ có làn, sự phát triển sân khấu tiếp cận với các hình thức ca hát, nối những tình đoạn khác nhau làm phong phú sự diễn tả tính kịch, sân khấu cải lương. Làn là dấu nối với điệu - bài bản - tân nhạc. Ngoài ra, làn còn nối các hình thức ca với đối thoại và các tình huống tình cảm tâm trạng sân khấu cải lương. Nhờ có làn, sân khấu cải lương đã dung nạp nhiều hình thức nghệ thuật đương đại, phát triển nghệ thuật cải lương.
Vị trí của điệu, là các điệu dân ca. Nếu làn là một hình thức âm nhạc không có khuôn nhịp rõ ràng, thì điệu là hình thức âm nhạc chính xác về nhịp phách cả về cấu trúc hình thức. Mỗi điệu, dân ca vào cải lương có cấu trúc giai điệu như những ca khúc ngắn gọn, có khuôn nhịp, câu đoạn, nội dung cụ thể. Đây là sự tương phản, khác biệt giữa làn và điệu. Sự tương phản về hình thức cấu trúc tác phẩm, tương phản về giai điệu, nhịp điệu và tính chất âm nhạc.
Làn kéo dài tiết tấu, kéo dãn các tính chất xung đột, mâu thuẫn tình cảm…thì điệu diễn tả mau lẹ, hoặc trữ tình khoan thai; nhưng có giới hạn ở tính chất cấu trúc câu đoạn. Điệu là những điệu dân ca vào cải lương, đầu tiên có các điệu lý: Lý con sáo, Lý giao duyên, Lý qua cầu, Lý ngựa ô, Lý trăng treo, Lý chiều chiều, Lý đương đệm, Lý cải mơn… Sau những điệu lý là các loại bài dân ca Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ. Hệ thống những điệu lý, những bài dân ca được xếp vào hàng đầu tiên của vốn bài bản cải lương. Trong vốn bài bản cải lương được ghi thành nốt nhạc, bài bản để xuất bản, phổ biến hiện nay chỉ có hai loại là : điệu và bài bản. Theo tập chữ nhạc Bản đàn cải lương của Thanh Nha sưu tầm, do Hội nghệ sĩ sân khấu xuất bản năm 1959, có 68 bài bản, gồm cả năm điệu lý. Còn tập giáo trình Hát cải lương do Triệu Quang Vinh và Hoàng Kim Loan chuyển từ bản chữ nhạc Hò Xự xang xê cống, song nốt nhạc đồ rê mi có 43 bài bản ( trong đó gồm cả chín điệu Lý). Những tác giả công bố hai tập nhạc cải lương kể trên đều không có những bản nhạc làn, có lẽ vì kỹ thuật ghi âm phức tạp từ cao độ đến nhịp phách, nên chưa được ghi nhạc và công bố. Như vậy đến nay, làn trong vốn ca nhạc cải lương vẫn nằm ngoài vốn ca nhạc sân khấu cải lương. Vốn làn - điệu - bài bản cải lương, là một bộ ba cấu trúc hình thức âm nhạc, ví như một cơ thể hoàn thiện của con người. Làn - điệu, bài bản, là một bộ ba ca nhạc không thể thiếu, nếu thiếu một trong ba bộ phận ấy không thể có sân khấu cải lương. Làn quan hệ khăng khít với điệu, với bài bản. Điệu có vị trí quan trọng sau những gì giãi bầy của làn mang tính tự do alimitum, thì điệu bùng nổ chất khuôn mẫu nhịp điệu dân ca chỉ là một đoản khúc bộc lộ một nét tình cảm đột phá, công chúng sẽ không chấp nhận nếu cứ nghe mãi một thứ dân ca, một điệu lý. Nghe ca diễn bài lẻ như thế sẽ nhàm chán, bởi sự hụt hẫng của một điệu lý, chẳng đâu vào đâu. Nếu có làn ngâm ngợi kể về nguyên nhân của tình yêu hò hẹn lứa đôi mới gặp, đến yêu nhau bén rễ, xanh cây để cha mẹ làng xóm thuận lòng rồi ca Lý ngựa ô “ đưa nàng về dinh” chắc là vô cùng hấp dẫn. Nếu tự nhiên bất chợt “ đưa nàng về dinh” chắc chẳng ai chấp nhận, đây là đơn thuần ca nhạc, nếu vào các tình huống tâm trạng, tính kịch thì làn kết hợp với điệu mới đáp ứng tình cảm sân khấu. Những điệu lý, những điệu dân ca, góp phần thay đổi tình cảm, tình huống sân khấu. Điệu còn thay đổi cảm xúc, mầu sắc âm nhạc. Điệu góp phần thay đổi những trạng thái tình cảm nhân vật có tính mau lẹ, diễn biến ngắn, những tâm tư nhỏ, hoặc diễn tả niềm vui, nỗi buồn ở cảm xúc ban đầu câu chuyện kịch, những xung đột tình cảm nhân vật. Điệu diễn tả niềm vui, những băn khoăn, âu lo chớm nở của nhân vật. Những điệu lý, những điệu dân ca không chỉ đem đến những mầu sắc âm nhạc khác nhau của các vùng miền, điệu còn có vị trí quan trọng mở đầu các trạng thái tình cảm, tình huống sân khấu. Điệu đi vào khuôn nhịp, khẳng định một đặc tính các sự kiện diễn biến của tình cảm nhân vật cải lương.
Sau làn, điệu, là bài bản. Bài bản là những bản nhạc có nhịp phách, cấu trúc hình thức âm nhạc lớn. Nội dung âm nhạc bài bản diễn tả tâm trạng lớn, nếu điệu diễn tả những tâm trạng, tâm trạng nhỏ, vừa hoặc những xung đột bùng phát, thì bài bản là tâm trạng triền miên. Bài bản diễn tả những mâu thuẫn, xung đột nội tâm, cõi lòng phiền muộn, tan nát, âm ỷ, dàn trải biết ngỏ cùng ai. Bài bản là vấn tâm, khắc khoải, tâm trạng khổ đau, đơn côi, cõi lòng trống vắng, mông lung … bài bản một loại tương phản tình cảm lâm ly kéo dài, so với làn điệu là những bùng phát nhất thời. Bài bản ẩn chứa những tiềm năng, mâu thuẫn xung đột lớn của các trạng thái tình cảm nhân vật cải lương. Bài bản biểu đạt nội tâm, tâm trạng, tính cách nhân vật, diễn tả tình huống sân khấu, tính kịch. Bài bản bày tỏ mọi sắc thái tình cảm nhân vật, cùng một lúc kết hợp ba đặc tính: làn - điệu - bài bản, có những tương phản cấu trúc hình thức, nội dung, nhưng lại có sự kết hợp hài hoà trong một tổng thể cấu trúc ca nhạc cải lương. Làn - điệu - bài bản, đứng tách rời là những hình thức cấu trúc âm nhạc khác biệt nhau. Nhưng kết hợp trong một vở cải lương, làn - điệu - bài bản là chất liệu âm nhạc kết dính chặt chẽ một kịch bản cải lương. Làn - điệu không có một lúc ba thành tố âm nhạc, nhưng bài bản lại có cả ba thành tố âm nhạc kết hợp xoắn chặt vào nhau trong một bài bản. Đó là sự phong phú của bài Vọng cổ, bản Vọng cổ, hoặc điệu Vọng cổ. Vì sự phong phú tính chất âm nhạc ấy, bản Vọng cổ là tiêu điểm đặc trưng ca nhạc cải lương, phong cách sân khấu cải lương.
Làn - điệu - bài bản ca nhạc cải lương là ngôn ngữ đặc trưng âm nhạc sân khấu cải lương, nhờ có bài bản biến hoá đặc sắc đã phát triển sân khấu cải lương, tiếp cận mọi hình thức nghệ thuật đương đại. Đặc điểm cơ bản của làn - điệu, bài bản cải lương là sự tương phản tính chất nhịp điệu âm nhạc, dự hoà nhập trong một tổng thể ca nhạc cải lương là một hình thức âm nhạc làn, điệu, bài bản, đồng diễn tả tác phẩm sân khấu cải lương.
1.2. Đặc điểm, tính chất làn, điệu, bài bản.
Mỗi hình thức âm nhạc nhằm đáp ứng thoả mãn nhu cầu công chúng, còn vì những tình huống sân khấu. Kịch hát sân khấu không có làn không thành sân khấu, hoặc không thể có sân khấu tuồng, chèo, cải lương. Làn sinh ra vì sự phát triển các tình huống sân khấu, vì thế, một số hình thức dân ca hay như Quan họ, Hát xoan… không đưa lên sân khấu được bởi còn thiếu làn. Làn do đâu mà có ? Làn đôi khi có sẵn trong dân gian, hoặc trong các điệu hát dân ca. Làn còn do các nghệ sĩ là diễn viên, nhạc công sáng tác ra, hoặc có thể lấy làn từ các điệu hát dân gian có sẵn cải cách đưa vào sân khấu. Làn của sân khấu cải lương có một số do nghệ nhân sáng tác, còn đa phần lấy từ dân ca, nhưng có cải biên cho phù hợp với đặc tính ca nhạc sân khấu. Qua thực tiễn phát triển kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh, Bài Chòi… Những làn của kịch hát dân ca phần lớn lấy ngay từ dân ca, sau đó đã sáng tác thêm một vài làn mới. Qua sự ra đời các hình thức sân khấu kịch hát dân ca, tuồng, chèo, cải lương, có thể khẳng định những hình thức dân ca hay, phong phú đã nổi tiếng, nếu muốn đưa lên sân khấu vẫn thành công:
Những điều kiện thành công cần có:
- Kiện toàn hệ thống làn, điệu, bài bản ca nhạc.
- Phải có lực lượng diễn viên hát dân ca và diễn
- Cần có người tâm huyết sáng tác kịch, bài ca, dàn dựng và có người đầu tư kinh phí.
Dân ca Quan họ, Hát xoan … chưa đưa lên sân khấu thành công vì chưa có hệ thống làn. Hệ thống làn lấy từ dân ca Quan họ, còn phải sáng tác thêm theo cấu trúc làn có hơi dân ca quan họ, nếu sáng tác theo phương thức ca khúc gọi là làn sẽ thất bại. Điệu đã có trong các điệu dân ca Quan họ, nhưng chỉ là điệu ngắn, có tính hoạt cảnh dân ca, còn thiếu bài bản là những bản nhạc nghi lễ, những bản nhạc tâm trạng. Những bài bản là cái dân ca Quan họ, Hát xoan còn thiếu. Thiếu bài bản cần sáng tác những bài ca tâm trạng. Những bài ca ấy, sáng tác theo phương thức dân gian như các nghệ sĩ đàn ca tài tử, cải lương từng sáng tác các bài Oán, Văn Thiên Tường, Vọng cổ… Nếu sáng tác theo tư duy ca khúc sẽ không có bài bản. Bài bản sáng tác mới cần có những bài ca tâm trạng vừa, tâm trạng lớn, dựa theo hơi nhạc quan họ mà viết ra. Với những yêu cầu, ấy khó có thể thực hiện được, bởi thiếu các nghệ nhân sáng tạo làn và bài bản. Vì thế, trong điều kiện hiện nay, các loại dân ca Quan họ, Hát xoan .. không thể đưa lên sân khấu thành công. Trở lại làn, điệu, bài bản ca nhạc cải lương những đặc tính đáp ứng sân khấu cải lương, không phải ngẫu nhiên mà có. Vốn ca nhạc cải lương : làn, điệu, bài bản, do các nghệ nhân, nhạc công sáng tác bổ xung cho vốn ca nhạc sân khấu cải lương từ sơ khai đến hoàn chỉnh. Mỗi làn, điệu, bài bản có những đặc tính âm nhạc, đáp ứng các tình huống kịch khi xử lý sân khấu.
Tính chất âm nhạc của làn hết sức phong phú. Sự phong phú nằm ngay trong cấu trúc âm nhạc, âm nhạc không ổn định, luôn biến động trên hai trạng thái âm nhạc. Một là biến động về cấu trúc âm thanh, đó là hệ thống thang âm của làn. Những loại làn như nói thơ Lục Vân Tiên chỉ có ba âm, hoặc năm âm. Nói thơ, Ngâm Kiều, Ngâm kệ, Hát nói, Nói dặm… còn biến đổi về vị trí các thang âm. Khi nói thơ Lục Vân Tiên, có thể dừng ở âm hò, âm xang hoặc âm líu … Tuỳ theo tâm trạng của lời ca, người nói dừng ở âm khu trần là hò để ca Vọng cổ, hoặc dừng ở âm khu trung để ca vào một điệu lý, hay dừng ở âm khu cao là líu để nói lối rồi vào câu Vọng cổ… Làn luôn biến hoá về giai điệu, âm thanh để thích nghi với tình huống bài ca. Sự biến hoá giai điệu âm thanh ở chỗ ngừng nghỉ tạm thời trên các bậc âm, làn còn biến hoá ở nhịp điệu, tiết tấu. Làn là một hình thức âm nhạc không thể gạch thành khuôn nhịp trên khuông nhạc đã là một thứ tự do, nhưng làn còn tự do hơn ngay trên nét giai điệu hình sóng ấy co giãn, dài ngắn, thất thường về độ dài. Đặc tính của làn diễn tả tình cảm phóng khoáng, ngâm ngợi trữ tình trong những lời ca đầy chất thơ lãng mạn. Chức năng của làn, là diễn tả chất âm nhạc tình cảm trữ tình, gợi cảnh, gợi tình, giầu chất âm nhạc đồng quê. Những làn trong dân ca Nam Bộ diễn tả cảnh bình yên, trời nước phương Nam, những điệu hò Đồng Tháp, những hình thức nói thơ Nam Bộ vẽ ra những bức tranh sơn thuỷ, hữu tình. Đây là một đặc tính âm nhạc của làn trong ca nhạc cải lương, đậm nét dân ca, dân tộc, bản địa.
Làn có nhiều đặc tính âm nhạc, nhưng chất trữ tình là đặc điểm, đặc tính của làn. Tính trữ tình là một đặc điểm của ca nhạc sân khấu cải lương, làn như một khúc dạo đầu của âm nhạc trữ tình trong vốn bài bản cải lương.
Sau làn là điệu, điệu có đặc tính âm nhạc phong phú về sự diễn tả nội dung. Điệu nghiêng về sự diễn tả tình cảm, mang nhiều tính chất khác nhau. Điệu có điệu buồn, điệu vui, điệu bâng khuâng, man mác trữ tình… Sự diễn tả của điệu phong phú về sắc thái tình cảm, nhưng điệu lại khuôn vào khung cấu trúc âm nhạc, có nhịp điệu, tiết tấu, câu đoạn không thể tự do như làn. Điệu có nhịp điệu, nhưng diễn tả nhiều đặc tính âm nhạc, trong cải lương thì điệu là sự diễn tả những tâm trạng tình cảm của nhân vật có tính mở đầu cho một tình huống, một nhân vật trong vở diễn, sau những va chạm tình yêu rạn nứt nhân vật bắt đầu suy tư, mộng tưởng, nhớ mong, cũng có khi là vọng lầu thưởng nguyệt… Những tâm trạng ấy, có thể vào đầu bằng điệu. Đó là các loại điệu trong dân ca, có khi là điệu Lý chiều chiều, một đoản khúc chỉ có bốn câu nhạc ngắn phổ vào mấy câu thơ lục bát biến thể:
Chiều chiều ra đứng lầu tây
Thấy cô gánh nước tưới cây ngô đồng
Ai xui trong lòng tôi thương
Thương cô tưới cây ngô đồng.
Hay một nhân vật trẻ trung mới bước vào đời, trong sáng, hồn nhiên, gặp một điều mới lạ, một người mới quen, gặp người buồn, bạn muốn động viên người khác chia sẻ niềm vui… Những tình huống ấy, lại sử dụng điệu. Điệu có vị trí gợi mở những tình cảm bùng phát, mở đầu một sự việc, một tâm trạng, trong cải lương có nhiều loại điệu diễn tả nhiều tâm trạng khác nhau từ vui đến buồn, bâng khuâng, lạnh lùng, khôi hài và an ủi. Trong những hoàn cảnh cụ thể vận dụng điệu, điệu Lý trăng treo là điệu vui, nhưng có tác dụng an ủi khi cần thiết vào kịch là một điệu ngắn, có ba câu nhạc phổ vào thể thơ năm chữ:
Em thấy vui vui quá
Vui tình thực là vui
Anh ơi có vui không nào
Cho chị em hết buồn
Thương quá chừng chị ơi
Thương quá chừng anh ơi
Mới trích dẫn hai điệu đã thấy sự phong phú của điệu trong ca nhạc cải lương. Điệu đây là những bài dân ca do các nghệ nhân tuyển chọn vào vốn ca nhạc cải lương, có điệu do sáng tác, nhưng do nhiều người hát đã thành vốn bài bản cải lương như các điệu lý Mỹ Hưng, lý Phúc Kiến, Đoản Khúc Lam Giang…Ngoài sự diễn tả phong phú nội dung, tình cảm, tình huống nhân vật, sân khấu. Điệu còn có sự diễn tả phong phú khác là dựa vào kỹ thuật ca, đây là nét đặc biệt độc đáo của kỹ thuật ca cải lương. Bằng kỹ thuật ca cải lương, người ca thay đổi âm tựa, thay đổi vị trí thang âm, thay đổi nhịp phách cấu trúc giai điệu bài ca. Những hình thức ca thay đổi kỹ thuật ấy, người ca đã làm thay đổi tính chất của điệu từ buồn thành vui, từ vui thành buồn, thành trữ tình thương nhớ…Kỹ thuật ca cải lương này coi như một thứ ngoại lệ, hình thức ca này tác động tới làn, điệu, bài bản cải lương. Tất cả làn, điệu, bài bản đều bị biến đổi nội dung theo yêu cầu của tình cảm nhân vật, hoặc tình huống sân khấu. Kỹ thuật ca: thay đổi âm tựa, thay đổi nhịp điệu, thay đổi vị trí thang âm. Ba hình thức thay đổi này duy nhất trong kỹ thuật ca cải lương mới có, mới cho phép lối ca biến ảo như vậy. Còn các hình thức ca nhạc sân khấu, và âm nhạc trình diễn không cho phép ca như vậy. Vì ca như thế làm sai lạc nội dung bản nhạc, nhưng ca nhạc cải lương lại là ngoại lệ. Ví dụ bài Xẩm xoan, hay bài sắp mưa ngâu của chèo lại hát chậm lại, thì không còn tính chất của bài, chưa kể lại thay đổi một hai vị trí âm thanh trên giai điệu bài ca. Người hát sẽ diễn ra hai tính chất: một là hát phô, hai là hát sai thành ra một thứ “nhạc chế” thời nay, đâu còn là những điệu chèo thanh nhã vui nhộn chất dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng những điệu ca cải lương có lối hát thay đổi như thế khá phổ biến, ví dụ bài Khổng Minh toạ lầu. Một bản nhạc ngắn có năm câu, nét nhạc có nhiều cờ giật, khi ca có tính nhấm nhẳng hơi hài, nhưng lại có phần đường bệ lên lầu, bước thấp, bước cao. Bài này trên sâu khấu cải lương xử dụng rất nhiều tình huống, có thể cho một kẻ bịt mặt đen đi rình vào trong đêm để toan tính âm mưu làm phản, hoặc hại người. Nói chung hay sử dụng cho những cuộc toan tính âm mưu, nhưng cũng có khi cho một nhân vật chững chạc lên lầu qua lối hát thay cờ giật bằng nốt đen để bước đi đường bệ, vững vàng. Còn hát cờ giật, thì là những bước đi khấp khểnh, lại có khi dùng để đối thoại xung đột nổ ra tranh luận tay đôi, hoặc cá nhân với bọn côn đồ…Xuất phát từ kỹ thuật ca xử lý những tình huống nhân vật tính kịch khác nhau, đây là sự khác biệt duy nhất của kỹ thuật hát cải lương, là sự phong phú của bài bản, làn điệu cải lương.
Điệu có giai điệu, nhịp điệu, cấu trúc âm nhạc như một bài hát ngắn, điệu có từ dân ca, có điệu là sáng tác mới. Điệu là những bài hát ngắn, diễn ta phong phú chất tính kịch, tâm trạng, tình huống sân khấu cải lương. Điệu là một trong những nhân tố âm nhạc tạo nên chất hùng tráng của ca nhạc cải lương. Điệu khác làn về tính khuôn mẫu của giai điệu âm nhạc, cấu trúc âm nhạc. Điệu diễn tả tính chất, nội dung âm nhạc, ngắn gọn có nội dung trữ tình, tính hùng tráng. Điệu có nhiều tính chất âm nhạc, đáp ứng đặc trưng sân khấu cải lương. Điệu là sự phong phú của âm nhạc ca khúc, có tính nhịp điệu nội dung trong sáng, là những đoản khúc diễn tả tình cảm sân khấu.
Điệu là sự khởi đầu diễn tả âm nhạc có nhịp điệu của sân khấu cải lương, thì bài bản là sự diễn tả nội tâm cao tâm trạng lớn. Bài bản có tính tổng hợp của làn, điệu và bài bản. Dù là tính tổng hợp nhưng không phải tất cả bài bản là như thế, mỗi bài bản có một nội dung đặc trưng riêng. Bài bản là sự diễn tả tâm trạng lớn, tình huống, tính kịch lớn sân khấu cải lương. Nhưng bài bản vẫn là những ca khúc, có giai điệu, nhịp điệu nội dung âm nhạc. Có những bài bản xuất phát từ các nhân vật cải lương, có bài bản lấy từ những bản nhạc Huế vào…Bài bản là sự phong phú, thoả mãn sự diễn tả nội dung sân khấu cải lương.
Bài bản có những hình thức cấu trúc âm nhạc khác với làn, điệu. Bài bản có câu đoạn, dung lượng, nội dung diễn tả lớn. Những bài bản lơn như Lưu Thuỷ, Phú lục, Xuân tình, Tây thi, Cổ bản, Văn Thiên Tường, Tứ đại Oán, Vọng cổ…nội dung diễn tả phong phú các loại tâm trạng nhân vật, buồn, vui, day dứt, khắc khoải, vấn tâm, bi thương, đau khổ…Nếu làn ngâm ngợi, mô tả cảnh đẹp quê hương đất nước, hoặc gợi tả tâm trạng là những cảm hứng ngoại cảnh, thì điệu diễn tả những đoạn khúc bên trong nhân vật, đến bài bản là nội tâm bên trong những suy tư, khổ đau tâm trạng lớn. Làn - điệu - bài bản, là một tập hợp diễn tả cảm xúc tâm trạng nhân vật, hoặc tình huống sân khấu từ mở đầu đến kết thúc câu chuyện kịch.
Bài bản có nhiều trường đoạn âm nhạc để diễn tả tình huống, hoặc tâm tư, tình cảm nhân vật, tuỳ theo diễn biến tâm lý nhân vật mà diễn tả những trường đoạn khác nhau của bài bản. Cấu trúc bài bản, có bài bản vừa, bài bản lớn, có khi một trường đoạn…Ví dụ: bản Oán nằm trong bốn bản thuộc hơi Oán lớn, diễn tả nỗi khổ đau Oán hận, hoặc trách móc man mác khổ tâm…Lời cổ:
Xưa kia thiên địa phong trần
Hồng nhan ai nỡ trách phần nợ phong trần trả rồi lại vay
Thanh xuân vừa hai tám kia là thiếp Thuý Kiều vốn dòng họ Vương
Bởi thình lình thọ ương - xin lệnh trên ỷ y nghiệm tường
Kẻo oan cũng vì tên bán tơ trú một đêm mà ra đến nỗi
Bị tịch ký hết gia tài cha với em thiếp phải bị giam
Biết tính làm sao cam…
Trích đoạn lời ca cổ, nói về Thuý Kiều, phân trần gia cảnh của mình với Từ Hải. Kiều tiếp tục kể hết cuộc đời mình từ sự tan nát cửa nhà bởi gã bán tơ, đến nỗi trăm đắng ngàn cay nghĩ bán mình chuộc cha, nào ngờ gặp tên họ Mã, gặp Sở Khanh, gặp Tú Bà, Hoạn Thư, nàng bị đoạ đầy cả tinh thần thể xác, luẩn quẩn trong vòng oan khuất không sao thoát khỏi kiếp đoạn trường, bán thân chốn lầu xanh, gia đình tan nát. Bài Oán để Kiều kể hết tâm trạng, khóc than cho cuộc đời đen bạc, số phận hẩm hiu, một bài ca tâm trạng lớn, Kiều đã trình bày cả thân phận mình trong nước mắt bi thương. Bài bản hầu hết là diễn tả cái bi thương của các loại tâm trạng nhân vật, cấu trúc âm nhạc bài bản lớn diễn tả nội dung cuộc đời nhân vật. Đặc điểm tính chất âm nhạc bài bản là:
- Tâm trạng lớn
- Diễn tả cái bi thương
Vì đặc tính ấy, nhiều nhà nghiên cứu cải lương Nam cho là ca nhạc cải lương chủ đạo là hơi Oán, âm nhạc Oán. Vì những nhận định ấy, có những giai đoạn cải lương bị cấm diễn cho là sản phẩm văn hoá tàn dư của phong kiến, tư sản. Nỗi oan của cải lương có phần không oan, bởi nghệ thuật ca diễn đều biến tất cả những bài vui tươi trong sáng sang hơi Oán để biến toàn bộ làn, điệu, bài bản thành loại ca nhạc bi ai, sầu thảm, thê lương, thương thuê, khóc mướn cho những thân phận tôi đòi lầm lạc. Nếu các nhà chỉ đạo nghệ thuật ở vào giai đoạn văn học lãng mạn, tất cả ca diễn như vậy thì cấm là phải. Ngay sau năm 1975, đất nước thống nhất, niềm vui ngất trời, mà cải lương cứ ỉ eo than thân trách phận, nhai lại thứ nhạc vàng rác thải của Sài Gòn cũ. Cái mạnh của cải lương nằm ở vốn bài bản là chất âm nhạc bi ai, đánh mạnh vào sự rung cảm sâu sắc trong tâm khảm con tim người nghe, nhưng lại là chỗ yếu nhất nếu sử dụng quá liều. Kỹ thuật ca cải lương là một con dao hai lưỡi, có thể ca vui, ca buồn trên cùng một bản nhạc, đó là xử lý âm tựa, thay đổi vị trí thang âm, nhịp điệu tiết tấu bài ca. Kỹ thuật ca dựa vào ba nhân tố: âm tựa - thang âm - nhịp điệu, làm thay đổi bản nhạc, hơi nhạc, có thể biến đổi tính chất âm nhạc vui tươi, tích cực thành bi quan, tuyệt vọng, đen tối, tiêu cực. Kỹ thuật ca, còn thuận lợi dựa vào ba nhân tố kỹ thuật ấy đã kết nối các loại trào lưu ca nhạc cổ đại, hiện đại, dân gian với bài bản thành ca nhạc cải lương. Đây là những thuận lợi đặc biệt chỉ kỹ thuật ca cải lương mới có, tất cả kỹ thuật ca trên thế giới không thể có được một hình thức phát âm nhả chữ để chung hoà điệu nọ qua điệu kia, bài nọ qua bài kia. Kỹ thuật ca bao giờ cũng đòi hỏi chính xác đến từng nốt và pơ ti nốt, nếu hát sai từ một đến một phần mười côma, người nghe đã nhăn mặt khó lọt tai. Nhưng cải lương có kỹ thuật ca đặc biệt, không phải phát âm sai, phát âm rất chuẩn, chuẩn đến mức tròn vành, rõ chữ, ngọt ngào như rót mật. Nhưng bí quyết của kỹ thuật ca cải lương, biến vui thành buồn, biến buồn thành vui, gắn bài tân nhạc với cổ nhạc, mượt mà ở kỹ thuật nắn chữ. Kỹ thuật nắn chữ là kỹ thuật tinh xảo như mối hàn ghép các câu đoạn nhạc xa lạ trở nên quen thuộc. Kỹ thuật nắn chữ đã giới thiệu ở phần kỹ thuật ca cải lương, vì nắn chữ mà lạm dụng đã làm hỏng những phẩm chất tốt đẹp của ca nhạc cải lương. Đặc biệt là vốn bài bản, một đặc tính ca nhạc tâm trạng, ca nhạc bài bản có đặc tính bi ai. Nếu nắn chữ thành bi hùng, hoặc hùng tráng là diễn tả tính kịch anh hùng ca, hùng tráng, nếu nắn chữ là bi ai, tan nát thì chất âm nhạc là tuyệt vọng, mất niềm tin, phương hướng ở tương lai. Nên không ít người cho rằng cải lương là hồi Oán, dù vốn bài bản là Oán, là buồn thương, nhưng vốn làn, điệu là những đoạn khúc âm nhạc trữ tình trong sáng xen vào một bản ai Oán đâu phải tất cả là Oán - hơi Oán là chủ đạo của cải lương. Trong bốn hơi Xuân, Nam, Bắc, Oán thì hai hơi vui, còn hai hơi buồn, làm sao át được cái vui của cải lương. Nhưng hơi nào? Không còn là hơi chủ đạo của ca nhạc cải lương nữa. Hơi nhạc chủ đạo của ca nhạc cải lương nằm ở hai phía:
- Người chỉ đạo nghệ thuật
- Người ca diễn.
Đây là sự phong phú, sự ưu việt đặc biệt của ca nhạc cải lương, tạo ra những tình huống sân khấu, tâm trạng nhân vật mà âm nhạc, có vị trí diễn tả đắc lực trong vở diễn. Vì sự phong phú ấy, ca nhạc cải lương đã hấp dẫn công chúng, phát triển trên cả nước. Ca nhạc cải lương có hai hình thức trình diễn:
- Trình diễn một chương trình ca cải lương
- Trình diễn ca nhạc cùng sân khấu cải lương
Hình thức trình diễn một chương trình ca cải lương, người ta đều thực hiện như các chương trình ca nhạc chèo, ca nhạc tuồng, nhưng ca nhạc cải lương khác với các chương trình ca nhạc chèo, tuồng. Bởi ca nhạc chèo, tuồng chỉ hát tách rời các làn, điệu, bài bản, không liên kết thành một ý tưởng, hoặc các làn, điệu kết lại như một bản nhạc. Còn ca nhạc cải lương có nhiều hình thức cấu trúc chương trình ca nhạc: ca bài lẻ, ca tân cổ giao duyên, ca hoạt cảnh cải lương, ca các bài ca cổ với tân nhạc, ca riêng bài Vọng cổ với tân nhạc, bài Vọng cổ diễn tả một câu chuyện tâm trạng…Các chương trình ca nhạc cải lương phong phú về cấu trúc nội dung, mầu sắc âm nhạc dưới nhiều hình thức đáp ứng mọi sở thích các đối tượng công chúng. Trình diễn ca nhạc cùng sân khấu, là sự hoàn chỉnh một kịch bản cải lương vận dụng nhuần nhuyễn sâu sắc giữa làn, điệu với bài bản và lời thoại văn học. Ngay trong một vở diễn người ta vẫn có thể thực hiện một lớp diễn là ca nhạc cải lương, hoặc ca tân cổ giao duyên, đáp ứng công chúng. Những hình thức trình diễn ca nhạc cải lương đầy chất âm nhạc trữ tình, trong đó bài bản mang nội dung âm nhạc chủ đạo của vốn ca nhạc cải lương.
Làn, điệu, bài bản ca nhạc cải lương là vốn ca nhạc cải lương có nhiều đặc điểm, đặc tính âm nhạc từ làn đến điệu và bài bản mang bản sắc âm nhạc bản địa Nam Bộ và nhạc truyền thống Việt Nam. Vì những đặc tính chung, đặc tính riêng ca nhạc cải lương được công chúng cả nước yêu thích, vì sự diễn tả sâu sắc, phong phú các tình huống sân khấu, hình thành đặc điểm ca nhạc sân khấu cải lương.
1.3. Đặc điểm ca nhạc cải lương
Mỗi loại hình nghệ thuật có đặc trưng ngôn ngữ riêng: văn học là từ ngữ, mỹ thuật mầu sắc, âm nhạc là âm thanh…đó là phượng tiện biểu hiện ý tưởng thẩm mỹ, xác lập hệ thống ngôn ngữ dựa trên những thiết chế hiện tại và quá khứ. Ngôn ngữ âm nhạc xếp theo quy luật âm thanh, chỉ rõ đặc điểm tính chất từng thể loại ca nhạc, mỗi thể loại mang phong cách âm nhạc vùng miền, cổ nhạc, tân nhạc…Ca nhạc cải lương cấu thành từ vốn ca nhạc tài tử, cải lương, nên thường gọi lồng ghép ca nhạc tài tử, cải lương. Nội dung âm nhạc ngoài làn, điệu, bài bản, tạo thành bốn loại điệu thức:
- Điệu Bắc, đàn những bản Bắc
- Điệu Nam, diễn tấu những bản nhạc Nam
- Điệu Xuân, hoà tấu những bản nhạc Xuân
- Điệu Oán, những bản nhạc Oán
Chữ điệu ở đây là điệu thức nằm trong những bản nhạc có hơi Bắc, hơi Xuân…của ca nhạc cải lương. Bốn hệ thống bài bản, làn, điệu ấy là hơi nhạc đặc trưng của ngôn ngữ ca nhạc cải lương, có hình dáng từ các thang âm, điệu thức biểu hiện qua bậc âm: hò xự xang xê cống. Tuy nhiên, nói như thế còn khá trừu tượng bởi cách ghi nhạc xưa để chép tất cả các loại bài bản từ chèo, tuồng, cải lương thành chữ nhạc hò xự xang…Những chữ nhạc ấy, nằm cụ thể ở mỗi bài mới chỉ rõ đặc điểm phong cách âm nhạc giống như các nốt tương đương: đồ rê mi…những bản nhạc từ Tây sang Đông đều ghi đồ rê mi… nhưng do quy luật cấu trúc các quãng giai điệu đã hình thành những bản nhạc khác nhau. Mỗi bản nhạc có nội dung, đặc điểm riêng, khi liên hệ vào làn, điệu, bài bản cải lương dựa trên năm âm: hò xự xang xê cống, theo quy luật cấu trúc thang âm, điệu thức có giai điệu riêng. Nếu đàn ca các điệu lý trong vốn ca nhạc cải lương, những điệu lý thường kết thúc ở hò và xang, còn đàn ca những bài bản kết ở âm hò và lứu (có 15 bản kết ở hò và lứu), có năm bản kết ở xang. Riêng 10 bản Tầu, hơi nhạc Quảng kết tự do. Đó là đặc trưng ca nhạc cải lương, nếu diễn tấu sai những bậc âm ca nhạc cải lương sẽ không được chấp nhận. Từ những đặc tính ngôn ngữ, bậc âm, ca nhạc cải lương có những tính chất vui, buồn, bi ai, hùng tráng, trang trọng…Ca nhạc cải lương tồn tại, phát triển cùng sức sống sân khấu cải lương, là một quá trình hình thành, phát sinh, phát triển tạo thành bốn đặc điểm ca nhạc sân khấu cải lương:
- Tính tự sự trữ tình
- Cái bi
- Cái hài
- Chất anh hùng ca
Ba đặc điểm ca nhạc cải lương hình thành từ vốn làn, điệu, bài bản ca nhạc tài tử, cải lương. Nhưng khi tách khỏi ca nhạc tài tử, lên sân khấu cải lương, ca nhạc cải lương đã hình thành bốn đặc điểm ca nhạc cải lương. Bốn đặc điểm ấy nằm rải rác trong ca nhạc tài tử chưa rõ tính chất, chưa được quan tâm. Riêng cái hài người ta hay nhận ra ở kịch bản thông qua các nhân vật hài như hài mặt trắng, hài đeo râu, còn âm nhạc hài ít thấy. Bằng cảm nhận sân khấu trực tiếp, công chúng thường nhận thấy những đặc điểm ở kịch bản là cảm giác qua các số phận nhân vật, còn âm nhạc cảm nhận rõ nhất là hai đặc điểm: tính trữ tình và bi thương. Cái bi thương dễ tác động nhất tới những bài ca, người ca hay làm nao lòng người rơi nước mắt. Bốn đặc điểm ca nhạc cải lương, làm phong phú tính chất ca nhạc cải lương, góp phần điều chỉnh lại từng tính chất ca nhạc. Nhưng trên sân khấu cải lương thường diễn ra một đặc điểm nổi bật hơn cả là cái bi ai, bi thương, sướt mướt, não nề, ảm đạm, vì thế cải lương thường bị coi là thứ âm nhạc mùi. Chất mùi xử dụng đúng liều lượng có tác dụng tích cực ca ngọt mùi, bằng không sẽ có tác dụng tiêu cực tới thẩm mỹ công chúng.
Đặc điểm (Particular Treit), một nét làm nên diện mạo sự vật, một hiện tượng. Đặc điểm là những nét tiêu biểu chỉ rõ bản chất một hiện tượng, một sự vật, đó là đặc điểm, không có đặc điểm không thể nhận biết được điều gì. Đặc tính (particularity) là những nét, hoặc một nét riêng, mang tích chất riêng, nên gọi là đặc điểm chỉ những đặc tính bao trù của ca nhạc cải lương. Tính bao trùm ấy là: trữ tình, bi, hùng, hài. Mỗi đặc điểm khi mới hình thành như một yếu tố trong bản nhạc, lúc hoàn chỉnh sân khấu cải lương tuỳ từng giai đoạn, mỗi đặc điểm âm nhạc nhấn mạnh tính chất này, coi nhẹ tính chất đặc điểm kia.
Đặc điểm tự sự trữ tình, là loại âm nhạc kể chuyện nằm ở hầu hết các làn, điệu, bài bản cải lương, còn là đặc điểm ca nhạc Á Đông, nhạc Việt Nam. Ca nhạc cải lương là một nét phản ánh đặc điểm chung, chất nhạc tự sự trữ tình có trong các bản nhạc cải lương. Dưới đây là điệu Lý ngựa ô Nam, nói lên nỗi buồn, tự sự âu lo, lời ca cổ:
Thân thiếp cút côi từ thủa mười hai
Nhờ ơn cô mẫu nuôi dưỡng bấy nay
Nghề canh cửi sinh nhai, cô mẫu lâm bệnh nguy vong mạng
Còn một thiếp ở dương trần, đang khốn khổ vô ngần.
Còn chàng, trộm nghe dòng tâm sự thở than, lòng thiếp xốn xang
Sống bơ vơ trơ trọi một mình, đồng cảnh, đồng tình
Khiến lòng đây ái mộ, muốn bày can tâm tư.
Đây là một điệu lý ngắn có tính tự sự tâm trạng, nếu đi vào bài bản chất tự sự càng cao, qua bản Văn Thiên Tường có đoạn:
Vì tình kia cái thân xanh xao đắng cay
Thương thay dương khí gian truân
Bâng khuâng trong lúc chia tay, thiếp yểm luỵ nhỏ cùng chàng
Cùng vì cảnh tình nhà hàn vi
Nên mới sinh ly, khi xa nhau nắm tay dặn dò
Đến lúc đắc lộ chàng có nghĩ tới chút tình tào khang
Tay dâng chén vàng hôm nay
Khuyên lương nhân vững vàng ruổi rong lần bước sang Tần…
Nếu lời tự sự ở điệu lý kể về nỗi lòng mình côi cút sẻ chia cùng người, thì đến bài bản không còn là sự đơn côi mà lời ca tâm trạng ngậm ngùi, đắng cay rơi lệ, càng đi sâu bộc bạch nội tâm tình cảm nhân vật một tâm trạng lớn. Một nỗi đau không sao kể hết. Tính tự sự trong bài bản cải lương có nhiều cung bậc khác nhau, mỗi bản nhạc một sắc mầu tự sự ngắn, dài, trữ tình nhẹ nhàng, vấn tâm, man mác buồn thương, oan khuất, đắng cay bi thương, hoài niệm… Dù là tự sự tâm trạng, có bài nhỏ, bài lớn, có bài khoan thai nhàn tản, bài lại gấp gáp, nao lòng, bi ai, quằn quại, quyết liệt, gay gắt. Tính tự sự trong vốn bài bản nhiều cung bậc, có bài chỉ để bộc lộ tâm tư, có cả những bài trữ tình duyên dáng. Bài Lý cây bông, lời ca trong sáng như một bức tranh đẹp muôn hoa khoe sắc.
Bông xanh bông trắng bông vàng
Bông lê bông lựu đố nàng mấy bông
Một bản dân ca Nam Bộ vào cải lương đằm thắm, ngọt ngào đầy chất tự sự trữ tình tươi tắn, lạc quan như những tâm hồn tuổi trẻ, như tình yêu chớm nở của những bông hoa tươi thắm đầu cành.
Ca nhạc cải lương đẹp lắm sao, đâu chỉ có khổ đau sướt mướt, có cả chất tình ca bay bổng tinh khôi như hoa mua ngát trời, tím ngập đồi quê vương chút hương tình bâng khuâng kỳ thú. Bài bản, làn, điệu ca nhạc cải lương thế đó, ai chăm chút sắc màu sẽ nở bông hoa đẹp. Bên cạnh cái đẹp tình ca ấy, là bông hồng gai, cái gai sắc nhọn của cái bi trong ca nhạc cải lương, nghe nhiều sẽ làm tan nát cõi lòng, nhưng cuộc đời lại thích nhiều thứ như cuộc sống vốn có. Ca nhạc cải lương chỉ là tấm gương của hiện thực, phản chiếu tính khách quan trong tâm tưởng con người mà số phận như an bài đâu đó những cái bi.
Đặc điểm cái bi, ca nhạc cải lương giàu chất tự sự trữ tình, trong chất tự sự ấy có cái bi (tragic), là cái đau thương, làm cho người nghe qua lời tự sự các nhân vật kịch thấy thương cảm, một số phận, một quãng đời, cảnh ngộ. Cái bi ấy có lòng xót thương, bi luỵ (Sad), sự buồn thương, người nghe dễ mềm lòng rơi nước mắt vì nhân vật, đây là cái bi của cải lương. Cái bi khơi nguồn từ tính tự sự trữ tình. Tính tự sự là phương thức tái hiện đời sống của tác phẩm văn học , thi ca, kịch nói, kịch thơ, tiểu thuyết… Tính trữ tình là một tác phẩm nghệ thuật phản ánh hiện thực bằng cảm nhận chủ quan của tác giả về đời sống xã hội. Tác phẩm tự sự là sự tái hiện đời sống con người bằng tính khách quan. Tác phẩm mang tính tự sự, phản ánh đời sống con người bằng các sự kiện, biến cố, qua đó thể hiện thái độ, tình cảm của tác giả. Tư tưởng tình cảm tác giả ẩn sau vào các sự kiện, bộc lộ qua hành động của các nhân vật, tác giả kể lại sự việc thông qua nhân vật để nói về những diễn biến của các sự kiện, người đọc cảm nhận hiện thực như tự nó đang tồn tại, phát triển khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn chủ quan của tác giả. Phương thức tự sự là phương thức sáng tác phản ánh hiện thực thông qua các sự kiện, biến cố, các hành động nhân vật kể lại một câu chuyện, do đó tác phẩm có cốt truyện, hệ thống các nhân vật, khắc hoạ chân dung, tính cách từ các chi tiết nghệ thuật. Còn tính trữ tình, là một phương thức của nghệ thuật thể hiện đời sống con người trước thiên nhiên, xã hội. Tính tự sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng cách tái lại hiện thực khách quan các hiện tượng thiên nhiên, con người. Tính trữ tình trực tiếp phản ánh đời sống con người mà tác giả cảm thấy thông qua quan sát chủ quan của tác giả về môi trường thế giới xung quanh. Tự sự là tôi nói về mọi người, còn trữ tình là tôi nói về tôi. Do đó ca nhạc cải lương hầu hết là tính chất tự sự, trữ tình, bộc lộ cái tôi nhân vật, cái tôi tác giả trong một làn, điệu, bài bản cải lương.
Cái bi của làn, điệu, bài bản nằm ngay ở chất âm nhạc tự sự trữ tình. Cái trữ tình nằm ở đặc điểm ca nhạc cải lương khá phổ biến, còn cái bi chỉ xuất hiện ở rất ít điệu dân ca như điệu ru con Nam Bộ lời ca:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ mười năm
Hãy nín ! đi con
Hãy ngủ đi con …
Phần lời ca này nổi bật là chất tự sự trữ tình, cái bi chỉ pha một chút tâm tư kể về công lao người mẹ nuôi con khó nhọc, chỉ một chút thoảng qua. Cái bi chưa đủ độ, cái bi phải xuất hiện ở bài bản. Bài bản nổi bật là chất bi, có thể tìm thấy bài bản nào cũng có. Bản Oán có lời ca:
… Trăm cay ngàn đắng nghĩ đến thôi càng thấy ưu phiền
Muốn cho cốt nhục vẹn tuyền
Trong cơn gia biến phải nguyền cho trọn thảo ba
Có người quen chốn sai nha
Xin mách giúp phải lo cho cha được thảnh thơi
Mong đáp nghĩa đền ơn nuôi dưỡng.
Phần thiếp gian truân, nghĩ đến phần thái lai bĩ cực
Ai nào ngờ thiếp lại bán thân cho họ Mã
Quen thói lầu xanh, thật quả tay buôn người
Thiếp lại bặp gã Sở Khanh…
Hoặc bài Vọng cổ. Bài Vọng cổ là bài do kỹ thuật ca có thể là bi ai, bi thương ảo não, sướt mướt, nhưng lại có khi là hùng tráng chất anh hùng ca trữ tình. Còn nguồn gốc bài Vọng cổ là bài có chất bi, hoặc khi phát triển vẫn coi trọng chất bi, lời ca cổ:
Từ là từ phụ tướng
Bảo kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Đêm năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi gan vàng quặn đau…
Hay sau này phát triển từ nhịp hai lên nhịp tám trong vở Tô ánh Nguyệt lời ca viết năm 1940
Sau khi tôi có chết đi rồi, xin cậu chứng kiến cho tấm lòng tôi mà tỏ hết khúc nhời cho ai kia được rõ. Nỗi khổ tâm của tôi trước giờ tôi nhắm mắt.
Dưới nấm mồ xanh
Thân người bạc mệnh
Ngàn muôn năm linh hồn tôi
Hoạ chăng được tiêu tan
Khối hận chốn tuyền đài.
Tiếp theo bài Vọng cổ nhịp 16 vở Tôn Tẫn giả điên năm 1946, lời ca Uý trời đất ơi ! Nỗi đoạn trường, cũng vì tôi đây quá tin thằng Bàng Quyên là bạn thiết cho nên ngày hôm nay thân của tôi phải ra nông nỗi này.
Còn như công cuộc ngày hôm nay đây
Bởi tôi không cẩn thận
Cho nên bạn tôi nó mới đành nhẫn tâm
Chặt lấy một bàn chân tôi…
Những trích dẫn lời bài Vọng cổ từ bản Dạ cổ hoài lang có chất bi, là sự chia ly, mong nhớ đợi chờ, khắc khoải đau thương. Khi phát triển lên nhịp tám, nhịp mười sáu vẫn phát triển cái bi, cái đau thương trong tâm trạng con người trước những nỗi đời cay cực. Xuất phát từ tâm trạng con người thời đại nên cải lương chuyên khai thác cái bi trong những làn điệu, bài bản, đặc biệt bài Vọng cổ diễn tả tâm trạng lớn. Nhưng từ sau cách mạng Tháng Tám, sân khấu cải lương cách mạng phản ánh tinh thần con người thời đại mới, lời ca lại trong sáng phơi phới lạc quan, trích lời ca mới bản xàng xê:
Gió nổi lên rồi, sấm bủa chớp giăng trào sôi khắp đất nước
Miền Nam đứng lên chặn tay bầy xâm lược
Cứu nước cứu nhà giải phóng quê hương
Vì tổ quốc thân yêu…
Với lời ca đầy hào khí xung trận, chiến đấu vì tổ quốc thân yêu, bài ca không còn chất bi ai, người hát sẽ chuyển sang kỹ thuật hát chất nhạc anh hùng ca. Bài Vọng cổ lời mới cũng như vậy, lời ca:
Năm sau lửa chiến tranh lan vào xóm nhỏ
Mẹ chua xót bảo con nên tìm chốn bôn đào
Con cất bước ra đi mà lệ tuôn trào
Con đò xa bến mẹ vẫn còn…
Lời ca nói về cuộc chia ly nhưng còn niềm tin trở lại, cái tinh thần lạc quan ấy không thể hát bi luỵ tan vỡ, mà cái bi, cái đau thương mất mát còn ngời lên trong lòng mẹ, con trước lúc đi xa. Khi thời đại thay đổi, ý thức tư tưởng mới đã hướng ca nhạc cải lương từ bi luỵ, sướt mướt sang chất anh hùng ca chiến đấu, có niềm tin chiến thắng ở ngày mai. Ca nhạc cải lương trong vốn bài bản có bốn đặc điểm, tính tự sự trữ tình, cái bi, chất anh hùng ca. Mỗi tính chất khai thác theo một cung bậc giới hạn sẽ làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ cải lương, góp phần xây dựng, động viên tinh thần con người thời đại. Đặc điểm cái bi xử dụng đúng liều lượng có tác dụng thẩm mỹ, hướng công chúng tới cái đẹp cao cả, cái bi có thể biến đổi thành cái bi hùng trong cải lương là một đặc tính ca nhạc cải lương làm phong phú các trạng thái tình cảm, tình huống sân khấu.
Chất nhạc anh hùng ca tìm thấy ngay trong những bản nhạc lễ, từ ca nhạc tài tử và ca nhạc cải lương. Nhờ có tính chất anh hùng ca điều chỉnh lại chất bi luỵ, đầy hơi Oán trong các bài bản cải lương. Nếu ca các làn, điệu, bài bản theo hơi nhạc chủ đạo là hơi Oán, ca nhạc cải lương như bầu trời đêm đen tối không có lối thoát, vì thế vốn bài bản, làn, điệu mới có hơi Xuân, hơi Bắc…để pha mầu ca nhạc. Ca nhạc cải lương có đặc điểm trữ tình cái bi, chất anh hùng ca, người chỉ đạo nghệ thuật pha các màu âm nhạc ấy làm lành mạnh trong sáng đặc điểm thẩm mỹ ca nhạc cải lương là thẩm mỹ của vốn âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Đặc điểm ca nhạc chất anh hùng ca, tráng ca tìm thấy ngay trong tám bản ngự, ba bản rước như Kim tiền, Bình bán vắn, Lưu thuỷ đoản…là những bản nhạc trang nghiêm, tôn kính trong các đám rước của nhạc lễ. Những bản này có chất ca nhạc mầu hồng hùng tráng, là những bản có chất anh hùng ca trữ tình diễn tả tâm trạng, tình huống lớn có các bản: Nam Xuân, Cổ bản, Nam đảo…Đây là những bài giầu chất anh hùng ca. Trích lời cổ bài Nam Xuân từ vở Kiều thanh minh của Trương Duy Toản.
Lớp một:
Thương thân người cõi trần trăm năm
Khắp chốn chân mây ai chi âm
Như Kim lang cùng Vương Thuý Kiều duyên âm thầm
Gian nan rồi, nên bạn tình thân
Nhớ xưa tiết thanh minh cỏ hoa tươi rậm
Hiệp một đoàn Đạm Thanh hành ngâm
Xem thấy có phần chạnh cảm cố cầm
Câu thi đề hương nguyện lâm râm, than thân tủi thẩm.
Lời ca tự sự thương cho Đạm Thanh người con gái phận bạc, lời bi tráng, không phải bi ai bởi chất Nam Xuân, hơi nhạc có nét vui tươi trong sáng. Một bài Nam Xuân lời cổ có ý trách móc chồng, công thành danh toại phụ bạc vợ hiền. Lời ca tự sự, tâm tình:
Nhớ khi xưa những lời ước nguyện trăm năm
Chữ nghĩa nhân bởi tri còn
Son sắt nguyền vẹn nghĩa lời vàng
Dẫu nguy nan vẫn trọn niềm tào khang
Sao không nhớ thủa đôi ta bần hàn
Bởi quân tham tàn khiến dân mình lầm than…
Qua bài trích đoạn lời ca, có chung một đặc điểm giống nhau chất tự sự tâm tình, cảm thông, trách móc, thương thay cho một kiếp người. Dù ở đâu, cũng gặp cảnh tai ương, buồn thương, đó là tâm trạng người trong cuộc, nhưng lời ca có chất trang nghiêm, nén chịu. Chất nhạc hơi Xuân cùng lời ca tự sự, tâm tình, bản nhạc có chất xuân tươi sáng, kính cẩn hơn là cái bi, đó là những lời ca các tác giả viết cho những vở cải lương ở vào giai đoạn 30 - 40 năm trước của thế kỷ XX. Thời kỳ này ca nhạc cải lương ngập chìm trong đám mây mù của chủ nghĩa văn học lãng mạn, ở đâu cũng nghe những bài ca sâu thẳm, nước mắt nỉ non, nhưng đưa hơi Xuân vào là để bản nhạc trong sáng hơn.
Chất âm nhạc hùng tráng mạnh mẽ của các hơi Xuân, hơi Bắc, hơi Nam trong những bài ca mới hoàn toàn là chất anh hùng ca trữ tình, trong sáng mạnh mẽ cương quyết. Nếu những lời ca cổ như hai đoạn trích dẫn trên, dù là hơi Xuân, thì lời ca vẫn đượm buồn, người ca không thể ca mạnh mẽ, sang sảng chất anh hùng ca trữ tình trong sáng lành mạnh. Người ca có ca hơi Xuân vẫn có phần trong sáng, man mác đượm buồn mới đúng tâm trạng của những câu ca: nguyện lâm râm, than thân, tủi thầm, hoặc sao nhớ thuở đôi ta bần hàn?…Những lời ca mới đầy khí thế bản Nam xuân vở Bông sen trắng, kịch bản Phi Hùng:
Dật: - Sợ ai vừa trách hờn, vừa thương nhớ người ta
Liên: - Nhưng tôi đâu phải là kẻ bán hoa
Để ông tìm cách nói gần nói xa
Dật: - Tôi biết thân tôi như cánh chim trời phiêu bạt
Đang khát khao một tổ ấm một ngôi nhà…
Một ánh mắt đậm đà
Một tiếng nói dịu hiền như lời ai ca
Liên: - Ông là khách mua hoa, sao ban đêm lại vào quán rượu
Dật: - Vì tôi muốn tìm thêm vị đắng men nồng
Như Lưu Nguyễn thoát trần ngày xưa
Để sưởi ấm cuộc đời giá lạnh…
Trên đây là những lời ca đối thoại tay đôi, có tính đối ca, song ca nam nữ diễn ra trên sân khấu cải lương, điệu Nam xuân vẫn mang tính chất tự sự, trách móc, nhưng đầy chất đối thoại, chất âm nhạc nghiêm trang, dứt khoát, khẳng định những điều mong muốn, chất tự sự tâm trạng của nhân vật. Ca nhạc bản Nam xuân trong lời ca mới không đượm buồn, dù lời ca còn chút cô đơn, nhưng đã khẳng định, một nghị lực, một lối sống đã quen rồi mọi buồn thương tủi hận để vươn lên. Câu kết của lớp Nam xuân đã hé mở tình cảm mới:
Dật: - Để lòng này hết cô quạnh bơ vơ
Để tôi thả hồn thơ chìm trong điệu nhạc
Để không còn nghe ai hát trách người ta
Liên: - Anh ! ( thoại)
Dật: - Bạch Liên - Tay em hơi lạnh
Lời ca lớp này, mới hoàn chỉnh bài Nam xuân, cái hoàn chỉnh của hơi nhạc Xuân, là lời ca hoà vào giai điệu âm nhạc để “không còn nghe ai hát trách người ta”. Một câu kết bài ca tươi sáng như hơi nhạc Xuân và đoạn đối thoại sâu sắc, chứng minh cho lớp ca trách móc, lầm lẫn đến lúc nhận rõ người yêu là vui mừng, lạc quan tươi sáng. Đó là chất âm nhạc Nam xuân, mà những bài lời ca cổ trích dẫn ở phần trên, các tác giả để bài Nam xuân ở dạng kết lửng, nên trách móc có tính buồn thương, le lói một ánh sáng của chất nhạc hơi Xuân tươi sáng một phần, chưa sáng hẳn như bản Xuân của Phi Hùng. Đó là giá trị xử dụng những bản Xuân trong người sáng tác, có thể gia giảm chất hùng tráng, hoặc bi tráng, hay man mác Xuân đượm buồn. Về cơ bản, chất Xuân là trang nghiêm trong sáng, nhưng xử dụng của tác giả và người ca tuỳ thuộc vào tính chất của vở diễn. Chất nhạc hùng tráng có trong những bản nhạc lễ, bản ngự… là những bản ngắn, đến những bản dài như Nam xuân, Nam đảo… Những bài bản lớn đầy chất anh hùng ca, tráng ca, tự sự trữ tình đặc điểm của vốn ca nhạc tài tử, cải lương sẵn có: chất trữ tình, cái bi, chất anh hùng ca. Còn cái hài hầu như không có, chỉ có yếu tố hài ở một vài bản ngắn do cách diễn của người đàn ca. Người đàn ca làm méo mó giai điệu, tiết tấu, đặc biệt đặc tả trong lối ca cường điệu như đảo phách, giật cục, gây cười cùng với lời ca đầy chất hài hước. Nhìn chung chất ca nhạc hài không có trong vốn ca nhạc cải lương, nhưng xuất phát từ đặc điểm sân khấu cải lương mà âm nhạc có bốn đặc điểm: trữ tình, bi, hùng, hài. Cái hài tạo ra trong âm nhạc cải lương từ hai phía: một là nghệ thuật ca cường điệu, nhại lại tiết tấu, làm méo mó giai điệu âm nhạc, cùng với lối diễn ngoại hình, có lời ca hai hước, hai là các nhạc sĩ sáng tác nhạc hài, nhạc công diễn tấu cường điệu nét nhạc gây hài. Chất hài đã trở thành một đặc điểm của ca nhạc, sân khấu cải lương.
Hài là một nhu cầu đời sống tinh thần của con người, trong nghệ thuật cái hài luôn đi cùng cái chính thống, bên cạnh cái nghiêm túc như đích thực, lại cái khôi hài như trò đùa. Cái hài trong sân khấu bất kể thể loại nào cũng có, riêng kịch hát dân tộc chèo và cải lương, cái hài trở thành sự đối sánh có những nhân vật trung, nịnh, nữ chín, nữ lệch phải có các vai hài. Diễn viên cải lương Bắc chỉ có số ít vai hài nổi từ xưa như Phan Ninh… Ngày nay, cải lương Bắc không có diễn viên hài, hoặc các danh hài, dù trên sân khấu cải lương thường xuất hiện hai loại hài, hài mặt trắng, hài bôi râu. Hài mặt trắng pha trò là những bài học răn đời rút ra những bài học thực tiễn cuộc sống giúp mọi người sửa mình hướng tới điều tốt đẹp. Hài mặt trắng là hài chính, không chọc cười vô thức, luôn ứng xử vừa phải trong các tình huống. Hài bôi râu, hình thức xấu, dị thường từ trang phục đến nét mặt, nhìn đã buồn cười. Hài bôi râu, hơi quá khích, cường điệu trong mọi tình huống ứng xử, chọc cười vô thức, gặp đâu cũng pha trò làm xôn xao, náo động sân khấu. Hài mặt trắng, hoặc hài bôi râu đều là hài, nhưng mức độ pha trò mỗi loại hài có khác nhau. Nhìn chung hài là đả phá cái xấu của cá nhân, hoặc xã hội, nhưng hài cải lương ứng xử vừa phải là một tuyến nhân vật làm cân bằng lại chất bi luỵ, hoặc quá nghiêm nghị hùng tráng, có thêm tiếng cười làm vui lòng công chúng, để khẳng định thêm cái đẹp cao cả đáng khích lệ, phê phán cái xấu để răn đời, răn người. Hài cải lương có nhiều cách ứng diễn, nhưng không sâu sắc như hài chèo, không có những lớp diễn riêng cho hài. Hài cải lương có hai hình mẫu nhân vật, mặt trắng và bôi râu, nhưng chỉ xuất hiện một trên sân khấu.
Sân khấu cải lương Nam từ xưa có hàng chục diễn viên hài nổi tiếng như: Sáclốt Miều, Năm Nở, Sáu Thoàng, Ba Thiềng, Hai Nuôi, Chín Phót,…Sang những năm đầu thế kỷ XX, các nhóm hài miền Nam có cả gần 60 diễn viên hài lừng danh như Bảo Quốc, Bảo Chung, Thanh Dung… đến lớp trẻ: Hề Gần, Chiêu Tuấn, Văn Thành, hề Dừa, Thanh Hoàng, hề Lạc, Lý Thanh, Đức Tài…
Chất hài, các vai hài, diễn tả tiếng cười, có ba nguyên tắc gây cười:
- Tình huống gây cười
- Ngôn ngữ gây cười
- Hành động ngoại hình gây cười
Dựa trên ba nguyên tắc ấy, người viết truyện cười, diễn viên diễn các vai hài đã khai thác các tình huống gây cười làm rung chuyển cả sân khấu. Nguyên tắc tình huống gây cười nằm ở hình thức kết cấu câu chuyện cười, đó là nguyên tắc viết truyện cười, còn người diễn viên trong diễn xuất biết tạo tình huống bất ngờ trong diễn xuất. Tình huống gây cười trong kết cấu câu chuyện, là các tình huống bất ngờ trong kết thúc chuyện. Ngày nay, nhiều chuyện tiếu lâm gây cười ở các yếu tố tình huống. Có người kể rằng một nhà buôn hỏi chồng cho con gái cưng. Cha nói: ở nhà bên có ông thuế vụ nhiều tiền lắm ! con gái trả lời: Nó đi suốt ngày đêm làm được gì. Cha lại hỏi, có một anh tiến sĩ học rộng, tài cao? Thằng ấy, suốt ngày cạo giấy, bõ bèn gì. Thế con đã định ai ? Con lấy anh đạp xích lô! Vì sao? Vì anh ấy nhảy lên là đạp ngay. Cái yếu tố bất ngờ “ hạ đẳng” của con gái nằm ngoài sự mong đợi của người cha, là tiếng cười, tạo ra tiếng cười thật hài hước, chua cay. Còn ở diễn viên, họ tạo tiếng cười bằng tình huống bất ngờ ở nhiều trạng thái đang nói chậm bỗng nói như gió cuốn ào ào, đang nói nhỏ, quát to lên, nói nhầm, nói lắp…họ đang đi bỗng vấp ngã, đang lao đầu chạy, bỗng dừng lại đâm sầm vào bạn diễn…Các tình huống ứng diễn từ tình cảm đến ngôn ngữ âm thanh, và hành động ứng xử…đều tạo ra tình huống bất ngờ gây cười.
Cười dựa vào yếu tố ngôn ngữ, người viết truyện đưa ra một xê ri các loại tên như: người ở gần đi Hon đa, ở xa đi Ka rô sa, Tôyôta…, về ngồi ăn trông nhau mà gắp, phù hộ cho nhà ta còn hàng xóm thì kệ cha chúng nó, Hoặc vẫn lời hài của Trần Trí Trắc trong Tùng lò gạch có đoạn: tôi làm nghề tôi luỵên con người: hàng ngày đưa vào lò tôi cắt, tôi chặt, tôi nung, tôi đập…Người diễn viên khi diễn sử dụng ngôn ngữ nói thông qua vốn từ với sự biểu cảm gây cười, một cái cười vui, xua tan mọi nỗi ưu tư.
Hình thức cười hành động ngoại hình, là của các vai hài, từ hoá trang, phục trang, đến dáng đi, lời nói biểu hiện dị thường để gây cười. Cái cười của cải lương, các vai hài có một số diễn viên thường diễn ngoại hình sử dụng cơ mặt, ánh mắt, đôi tay, dáng đi bất thường. Mai Thanh Dung hay sử dụng ngoại hình ở đôi tay, diễn tả hành động như một thứ ngôn ngữ biết nói. Nghệ sĩ Ngọc Dầu diễn hài ngoại hình. Hài cải lương có loại diễn bằng ngôn ngữ ngoại hình, có người diễn bằng hành động nội tâm. Từ cái hài độc đáo chiếm vị trí quan trọng trên sân khấu, buộc phải có cái hài trong ca nhạc cải lương. Cái hài của ca nhạc cải lương là cái hài nằm ngoài vốn làn, điệu, bài bản diễn tấu nhạc, do diễn viên hài hát “nhạc chế”, thành cái hài. Chất âm nhạc hài là một tiếng cười không thể vắng mặt trên sâu khấu cải lương, góp phần làm phong phú đặc điểm ca nhạc cải lương. Chất âm nhạc hài đồng diễn cùng diễn viên, hay độc diễn là một sự phong phú mô tả tình huống sân khấu cải lương. Bốn đặc điểm âm nhạc: trữ tình, bi, hùng, hài là sự phát triển ca nhạc cải lương trong quá trình tồn tại sân khấu cải lương, góp phần diễn tả kịch bản, tính cách nhân vật. Bốn đặc điểm ca nhạc cải lương làm cho sự diễn tả sâu sắc các đặc điểm sân khấu, có giá trị tình cảm, xúc cảm công chúng. Sân khấu cải lương luôn đáp ứng sở thích người hâm mộ ở các góc độ tình cảm, nhiều hình thức sân khấu khác chưa thể có. Đây là sự độc đáo của cải lương, nhờ đó phát triển tới nhiều loại đối tượng công chúng, có thể thấy những giá trị độc đáo của ca nhạc và nghệ thuật cải lương:
- Hình thức ca nắn chữ để thay đổi tính chất thang âm điệu thức âm nhạc.
- Ca chắp điệu, tân cổ, tiếp nhận các hình thức nghệ thuật hiện đại nhất, model nhất vào ca nhạc, sân khấu cải lương.
- Đáp ứng mọi sắc thái tình cảm thẩm mỹ: tự sự trữ tình, bi, hùng, hài.
Những đặc điểm độc đáo của ca nhạc, nghệ thuật cải lương, là lý tưởng thẩm mỹ sân khấu cải lương, đáp ứng công chúng mọi thời đại. Tính độc đáo nằm ở đặc điểm những bản nhạc hát cải lương là tính độc đáo trong bốn đặc điểm khí nhạc cải lương, có mối quan hệ cùng diễn tả nội dung sân khấu.