Hôm nay 11 tháng 4, nhân ngày giỗ lần thứ mười ba của Thái Bá Vân, nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật đã từ trần tại Hà Nội năm 1999, chúng tôi phổ biến một bài thơ chưa được công bố.
Thái Bá Vân, tranh sơn dầu của Đinh Quang Tỉnh
Nhân tiện nhắc lại đôi điều về anh.
Thái Bá Vân sinh tại Đô Lương, Nghệ An ngày 2/1/1934. Học lịch sử nghệ thuật tại đại học Praha (Tiệp) từ 1955 đến 1961, rồi về công tác ở Viện Mỹ Thuật Hà Nội vừa mới thành lập năm 1962. Trở lại Tiệp làm thực tập viên ưu tú của viện hàn lâm khoa học Slovaki và đại học Mỹ thuật Bratislava trong năm 1985. Tiếp tục nghiên cứu tại viện Mỹ thuật cho đến lúc về hưu 1996. Sinh thời anh đã giảng dạy lịch sử mỹ thuật, dịch thuật, biên khảo về nhiều đề tài mỹ thuật kim cổ đông tây, anh viết bài giới thiệu, phê bình các cuộc triển lãm, từ các hoạ sĩ cao niên đến những tài hoa trẻ tuổi, đọc tham luận về các vấn đề then chốt của nghệ thuật và đưa ra những quan điểm nghiêm túc và dũng cảm. Ví dụ ở thịnh thời của hội hoạ theo hiện thực xã hội chủ nghĩa, anh đã dõng dạc tuyên bố “ hiện thực không phải là cái ta nhìn thấy bằng con mắt mà là cái ta quan niệm bằng tâm tưởng ... Có cái bàn kia, rồi ta mới vẽ cái bàn. Đúng vậy. Nhưng không phải cái bàn đẻ ra hội hoạ, mà con người đẻ ra hội hoạ (...) Từ tờ giấy trắng mà vẽ nên tranh, từ hòn đất mà làm nên tượng, đó là từ trong trắng mà đi tới hạnh phúc ” (1981). Ở thời kỳ mà người ta hô hào phải phục vụ song song hai tiêu chuẩn truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, thì Thái Bá Vân, rất đồ Nghệ, khẳng định rằng : “ đây là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (...) Khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống... ! ! ” (1986) . Nói khác đi, khẩu hiệu này, vô hình trung đã đuổi nhân loại ra khỏi dân tộc và đuổi dân tộc ra khỏi nhân loại. Lý sự như vậy là hợp tình, hợp lý, nhưng sai giáo điều và rất ư là đồ nghệ !
tác phẩm của NS. Trịnh Công Sơn
Khi anh về hưu, Viện Mỹ thuật đã có nhã ý, và cao kiến, tập hợp những bài viết, tham luận của Thái Bá Vân trong ba mươi năm để in thành tập “ Tiếp xúc với nghệ thuật ” (1998) được các giới đánh giá cao, trong cũng như ngoài nước (nhưng chỉ in 400 bản !). Qua các bài viết xuất sắc, người đọc nhận thấy mấy ưu điểm sau đây :
-
Thái Bá Vân là người uyên bác, có kiến thức vững vàng và sâu rộng về nghệ thuật về cả ba mặt lịch sử, lý thuyết và thể hiện, nghĩa là về lịch đại lẫn đồng đại.
-
Anh là người nhạy cảm với cái đẹp, giàu khả năng thẩm âm, thẩm sắc, cảm thụ và nhận định.
-
Anh lập luận vững chãi. Dù có khi viết để cà khịa, anh vẫn vận dụng biện chứng chặt chẽ, khiến người đọc dù có bực hay ghét, cũng không biết cãi vào đâu.
-
Anh sử dụng lối hành văn độc đáo, câu chữ có khi gập ghềnh một cách khúc triết, nhưng chính xác, tài hoa và thi vị. Anh vẫn thường nói : “ tôi yêu tiếng Việt, viết là để phục vụ tiếng Việt ”.
Cuối cùng, điều quan trọng hơn cả, Thái Bá Vân là một trí thức sáng suốt và dũng cảm, suốt đời tận tuỵ với tổ quốc, dân tộc, nghệ thuật và bè bạn. Dù biết rằng sẽ phải âm thầm trả giá khi ra khỏi giáo điều. Thái Bá Vân, sử gia, lý thuyết gia mỹ học, và ít ai biết anh còn là một nhà thơ xuất sắc. Một đoạn thơ của anh về Văn Miếu có thể phản ánh được cuộc đời Thái Bá Vân :
Tôi tận tuỵ ghi tên vào sự nghiệp
cái hư danh
gian dối tự bao giờ
đốt mãi họng con người
rượu cháy ngầm cay nghiệt
nắng mù loà từng dòng bia văn miếu cố nhân
-
Khi Bùi Xuân Phái qua đời, tháng 7/1988, Thái Bá Vân đã viết : “ Từng thế kỷ có định mệnh của nó. Tôi nghiệm một điều, đã nhiều lần thấy trong lịch sử nghệ thuật, là cứ vào cuối thế kỷ, lại xảy ra những cuộc chia tay lớn, đừng hiểu là buồn, cũng đừng hiểu là vui.
-
Với nhiều cuộc ra đi khác trong vài năm nay, tôi có cái linh cảm đang đứng trước sự kết thúc của một vòng quay tất yếu ”.
-
Thái Bá Vân chọn 1999, năm cuối cùng của thế kỷ và thiên kỷ để vĩnh biệt những nét đẹp phôi pha của trần thế. Cho rằng Vân đã khép lại cánh cửa của một thời đại trong lý luận mỹ thuật Việt Nam, không phải là quá lời.
Anh đã có lần viết : “ Nói theo nghĩa nào đó, thì Hà Nội bây giờ đã lên đến 2 triệu người. Mà nói theo nghĩa nào đó, thì Hà Nội bao giờ cũng chỉ có dăm ba người, chia nhau từng tình yêu và thế kỷ ”.
Dăm ba người ấy, nay thiếu người này, mai hụt người kia. Anh em còn lại, nhận phần chia của mình không những không nhiều hơn, mà ngược lại, đời mình, lòng mình cứ mỗi ngày một vơi đi, vơi dần đi. Rót, rót mãi, rót mãi, vẫn không có cách gì đầy.
Có những mất mát mười, mười lăm năm sau, mình mới ý thức chính xác.
Người nhìn ra dòng sông
Mọi ý ngiã
đều xếp lại sau lưng Người.
như loài gạch xây những giáo đường bất hủ
để lung lạc linh hồn con người
qua từng đêm không ngủ.
*
Người vẫn đứng
nhìn ra dòng sông.
không đếm mấy lần hai vai trắng tuyết.
không nge tiếng còi dục dã con tàu say.
*
rồi con nước đến lần vòng trở lại
sẽ trả về nguyên bóng cũ hình hài.
rồi ngọn cỏ non hôm nào ngơ ngác ban mai
sẽ thành cổ thụ.
rồi những câu thơ tình yêu màu xanh của em
sẽ mãi vuông tròn như ca dao tục ngữ.
*
nge thì thầm như hương xưa trong gió
ánh đèn khuya vẫn thức đăm chiêu.
giật mình, Người định đứng lên
đi về phía cuộc đời cửa mở,
nhưng đôi chân đã hoá đá bao giờ.
*
nhìn xuống dòng sông
Người thấy bóng mình vẫn càu nhàu
mặt nước
mà con chim nhỏ thơm tho ngang trời
mùa thu thuở trước
đã thành mây lang thang.
Sông Danube, tháng 1/85
Thái Bá Vân
Bản thảo do Đặng Tiến lưu trữ tại Pháp, ghi lại theo đúng chính tả và cách trình bày của tác giả.
Paris, 11.4.2010- cập nhật 2012