Dear Dr. Quynh Nguyen,
On behalf of the Organizing Committee for the 12th International Conference
on Knowledge, Culture and Change in Organisations, I am pleased to inform
you that your proposal has been accepted. Details of your proposal have now
been added to the public Conference website at:
http://M12.cgpublisher.com/proposals/274
Toward a Cultural World: Communicative Culture
By:
Dr. Quynh Nguyen
.ABSTRACT
The issue of culture and communication between peoples in the world concerns the understanding of intentional subjects or human beings and not a description of their images. Therefore, cultural knowledge should be communicable and comprehensible. To overcome misunderstanding is thematically to appreciate cultural values and structures, to avoid calamity and to make our world safer. We have already entered the preliminary stage of multi-cultural world that aspires to cultural accomplishments. Still we need an enduring orientation as a norm for a steady cultural and communicative development. To achieve this goal we see education universally and locally a paramount task. To live in this world and make this world real and humanistic, the concept of empathy is indispensable since without which concrete knowledge of one’s culture in relation to another’s would be in jeopardy. Since the turn of the century technology and social sciences have vastly improved our knowledge of the world culturally and brought the world close to each other. Still our greatest concerns today remain in the inequality and lacks of education; hence the lack of cultural and communicative background that endangers authentic knowledge. This causes the delay of globalizing dream and builds up hostility as we have witnessed in some places around the world.
Keywords: Communication, Understanding, Intentional Subjects, Cultural Values, Multi-cultural World, Enduring Orientation, Education, The Concept of Empathy, Humanistic, Authentic Knowledge, Globalizing Dream
Stream: Diversity, Globalisation, Development
Presentation Type: 30 minute Paper Presentation in English
A
THE CULTURAL MAN
CON-NGƯỜI VĂN-HÓA
TODAY’S major issues concerning the co-existence of all nations on earth include the understanding of culture; not simply as preservations of objects of significant values of the past, but promotion of the cultural man, which is italicized here to elicit a non-concept, the truth that man everywhere stands above all difficulties and up for the pride and value of human-being known as the significant monadic unity. Doubtlessly, cultural monuments with concrete values and meaningfulness such as the Acropolis, the Angkor-Wat, or the space shuttle Discovery testify brilliant thoughts of culture. However, our jurisprudential consciousness shows such marvelous works could be distorted as they might become cultural prejudices due to one-sided validation and jurisdiction. The criteria given to such cultural monuments erroneously establish the standards of judgment and brush aside other cultural values grossly mistaken as “uncanny” or even “taboo”. This misconception, lament Pederson and others, reveals “the narrow definition of culture … perceived as political, favoring the special interests on one group or another.” (Pederson et al. Inclusive Cultural Empathy, 2008, p.41; American Psychological Association.).
Những đề-tài quan-trọng ngày hôm nay liên-quan đến sự sống chung của mọi quốc-ja trên trái đất trong đó có vấn-đề hiểu-biết văn-hóa; không chỉ là bảo-trì những zi-sản xa-xưa, mà còn là trưng ra con-người văn-hóa. Nói tới con-người văn-hóa không fải là nói tới í-niệm, mà là nói đến sự-thật. Sự-thật ấy là: con-người ở khắp mọi nơi vượt lên trên mọi thử-thách vì niềm hãnh-ziện và já-trị của nhân-lọai. Tại sao? Tại vì con người là một đơn-vị có linh-hồn ra ngoài mọi định-ngĩa. Hiển-nhiên có những công-trình văn-hóa có já-trị và í-ngĩa rõ ràng như đền-đài ở Acropolis, Cung-điện Angkor-Wat, và fi- thuyền không-jan Discovery. Đây là những chứng-tích tư-zuy lẫy-lừng của con-người văn-hóa. Tuy nhiên, những chứng-tích này có thể bị bóp méo và hiểu lầm theo hệ văn-hóa một chiều, nếu chúng được coi là já-trị zuy-nhất. Khi đó con-người đem chúng ra làm khuôn-mẫu, và gán cho chúng uy-quyền xét-sử. Khuôn-mẫu đánh já-trị luôn luôn là sản-fẩm của con người, tuy có fần nào zựa trên thực-tế, nhưng í-đồ thiên-vị để gắn vào những công-trình văn-hóa. Làm như thế, con-người sẽ rất sai-lầm vì xuyên qua những khuôn-mẫu ấy con-người có thể coi những já-trị văn-hóa khác như những sự-kiện “kì-lạ” hoặc “thô-lậu”. Pederson và những tác-jả khác than rằng lối suy-ngĩ sai lầm ấy là những định-ngĩa hẹp-hòi mang mầu sắc chính-trị vì lợi cho nhóm này hay cho nhóm khác.
If a man is best described by his own work, then the cultural man by his cultural thing that reveals his mental property from which he might truly gain the knowledge of universal culture. Since “universal culture” in this essay does not connote a set of values, rather the most comprehensive meanings, it differs from the concept globalization that reduces cultural diversity, in favor of multicultural horizons holistically. As the result the cultural-man-ness gained by the cultural man presumes that it constitutes the center of mutual understanding. This center of understanding affirms and reaffirms responsibility against all acts of individualism alien to the man of high moral and ethical consciousness. In this contention the cultural thing postulates a moral act such that its transgressions as said earlier concerns the rights and welfare of others as well as to distinguish moral values from conventional ones (Blair, “Empathy, Morality and Social Convention” in The Social Neuroscience of Empathy, 2009, p. 141, MIT .)
Nếu việc-làm là tiêu biểu cho con người, thì tính văn-hóa là việc-làm của con-người-văn-hóa. Nó chính là sự-kiện júp chúng-ta nhìn ra tâm-thức của con-người-văn-hóa đó. Từ tâm-thức ấy chúng ta mới thực-sự thấy một nền văn-hóa trong ngĩa rộng. Nền văn-hóa rộng là nền văn-hóa lí-tưởng vì nó mở ra vô-số chân-trời, trong khi vận-chuyển quanh tính-người-văn-hóa, tức là con-người fải là trọng-tâm của hiểu-biết và có trách-nhiệm làm văn-hóa. Trọng-tâm í-thức này luôn luôn xác-định trách-nhiệm ngịch với chủ-ngĩa cá-nhân mà con-người văn-hóa không chấp-nhận. Trong í-ngĩa này, việc làm văn-hóa chấp-nhận vai trò luân-lí là đúng cho quyền-lợi và sự sống của người khác cũng như làm sáng-tỏ já-trị của luân-lí và já-trị của xã-ước.
Moreover, the cultural man-ness promotes no solitary intersubjectivity but the cultural being attainable by all egos NOT by cultural concepts, through enlightenment for instance. One of the ways to enlightenment known as MEDITATION maintains that we should sample other’s cultural experiences, and then elevate them to transcendental level that truly illustrates the communicative culture. As such, MEDITATION suggests the dynamic, creative, and pragmatic performance in the lived world, rather a passive and non-interactive technology for those who wish to see the Garden of Eden or a non-human abode.
Tính-người văn-hóa không zựa trên í-niệm hội-thông jữa con-người trong suy-tư đơn-độc nhưng tin rằng nó fải là nguồn-sống của văn-hóa zành cho tất cả cái tôi, đạt tới được không qua những í-niệm văn-hóa, mà bằng thức tỉnh trước những vấn-đề văn-hóa, ví-zụ bằng càch SUY-NIỆM, zĩ-nhiên SUY-NIỆM không fải là fương-tiện zuy-nhất, để thấy được những kinh-ngiệm văn-hóa của người khác, SUY-NIỆM cần nâng những hiểu-biết lên lãnh-vực cao hơn gọi là văn-hóa hội-thông. Thế thì, SUIY-NIỆM là con đường thực-tiễn, có tính sáng-tạo, và linh-họat ngay trong thế-jan kinh-ngiệm này, chứ không fải là fương-fáp tu-hành thụ-động và xa-lánh trần-jan chỉ hợp với những người mơ tới Địa-Đàng, là nơi chắc-chắn không có con-người.
Certainly, MEDITATION as a technology or strategy needs further clarification for itself to establish successive and positive steps towards enlightenment and to anticipate fruitful communicative culture. One theory of MEDITATION is Vasubandhu’s logic, around 200 B.C. Its aim is to cultivate and investigate sensory awareness in meditation. Interestingly this branch of Buddhist Philosophy called Mahàyàna much studied and practiced by Indian and Japanese scholars exclusively, recommends three levels of consciousness: “analyses of sensory experience, confrontation of self, and relaxation, as sophisticated as those in Western phenomenological schools.” (Goldstein, Empathy: Development, Training, and Consequence. 1985, p. 101.). In other words, Vasubandhu’s logic of MEDITATION focuses on holistic and reduction method, which works on the single substantial aspect to its possible purest knowledge. One instance of Vasubandhu’s technology; traditionally known as Buddhist Logic contends what can be the guidepost for understanding other’s culture, when concomitance and absence challenge our knowledge, as follows:
107 – 108. Whether the Soul exists or whether it does not exist,
we cannot in any case deny at once both the presence and the absence of animal functions (in soulless beings), because the denial of the one implies the affirmation of the other.
(Th. Stcherbatsky, Buddist Logic, volume II, 1962, Dover Publication, NY., p. 215)
Chắc chắn rằng fương-fáp SUY-NIỆM còn cần fải được làm sáng-tỏ hơn bằng những bước đi liên-tục và rõ ràng tiến về thức-tỉnh và về một nền văn-hóa hội-thông. Một fương-fáp thực-hành SUY-NIỆM zựa trên luận-lí là fượng-fáp của Vasubandhu, khoảng 200 năm trước Cổng-Nguyên. Luận-lí này là Tông-fái của Đại-thừa fát-triển mạnh-nhất với các học-jả Ấn-độ và Nhật-bản, nhấn-mạnh vào ba điểm: cái thức của quan-năng, chất-vấn bản-ngã, và trẩm-tĩnh, trong lúc SUY-NIỆM. Hơn nữa, luận-lí này còn fân-tích kinh-ngiệm quan-năng ở trình-độ cao như fương-fáp Hiện-tượng Luận trong Triết-học Tây-fương. Như thế, chủ-iếu của luận-lí Vasubandhu hay luận-lí Fật-jáo nhắm tới iếu-tố quan-trọng nhất (Holism) và “cùng-kì-lí” (Reduction). Ví-zụ sau đây trích từ luận-lí Vasubandhu có thề được coi là kim-chỉ-nam cho vấn-đề hiểu một nền văn-hóa khác, khi cái CÓ và CÁI-KHÔNG vượt ra ngoài í-thức của chúng ta:
107 – 108. Linh-hồn có hay Linh-hồn không có
Chúng ta không thể fủ-nhận ngay sự có mặt hay không có mặt của Linh-hồn,
Bời vì fủ-nhận cái CÓ, tức là chấp nhận cái KHÔNG, và ngược lại.
As such, both alternatives are not true, simply because no substance confirms them, and the logical form does not pretend to successfully argue dispute for the possibility of “being” or “not-being”. Some religious practices favor psychic perceptions to rational experiences – such as “chanting” for salvation. As is true, psychic as a sort of the state of the mind alien to knowledge and experience might in reality have strong impacts on physical and mental life to which one have recourse without reasoning. It is not recommended to prove psychic claims, as well as it is not wise to bring them up into discourses of “communicative culture”. But they are part of culture. How would this case be learned to deal with discourses of cultural validations? It is clearly that all validation must acknowledge facticity or “watching of cultural practices,” since culture is substantially existing, regardless different backgrounds and prejudices.
Thế thì, trong vị-zụ trên, CÓ hay KHÔNG đều không đúng. Hay là chúng ta fải đặt chúng ra ngoài thảo-luận, bởi vì nội-zung của vấn-đề không có cơ-sở xác-đáng. Cái khung của luận-lí không thể bàn tới lẽ có thể có hay không có. Liệu trường-hợp này có thể júp chúng ta jải-quyết những vấn-đề đánh já-trị văn-hóa được không? Hiển-nhiên, để đánh já-tri, chúng ta fải zựa trên minh-chứng có thật, tức nhìn vào hoạt-động của văn-hóa, vì lẽ văn-hóa có nội-zung và có mặt trong thế-jan này, cho zù chúng ta thích hay không thích.
Cultural validations cannot perform without going deeply into vigorous understanding that results in communication that sometimes commits unavoidable intrusion; namely “watching” and “entering” other’s psychic and rational life, so-called “Forbidden City” metaphorically coined by Goldstein (p.17). As the result it might be recommended that the “communicative culture” as the consciousness should rest on sharing experiences without imposing for the safe-conduct and avoiding misunderstandings. In fact, the “Forbidden City” functions as both individual security and existence, rationally and emotionally. Part of which can be shared and the rest must not be trespassed. Respect for privacy is not just an ethical subject but a cultural exigency as well. Therefore, all cultural inquiries should stop at the door of the “Forbidden City”, even without assumptive motifs, say for education endowments generally gained upon sympathy.
Đánh já-trị văn-hóa fải cần hiểu-biết sâu-xa và công-fu. Như vậy, không sao tránh khỏi đối-thoại và bước vào văn-hóa, như thể “chăm-chú theo-zõi” và “bước-vào cấm-địa,” theo lối nói ẩn-zụ của Golstein. Zo lẽ ấy, “văn-hóa jao-lưu” ở vai trò í-thức nên là những kinh-ngiệm chung chứ đừng có tính-cách ngênh-ngang, trịch-thượng. Đây là một kế-sách vẹn-toàn và tránh khỏi hiểu-lầm. Trên thực-tế, cái gọi là “Cấm-địa” chính là lẽ sinh-tồn và an-ninh của mỗi người, về mặt lí-trí cũng như tình-cảm. Một khía-canh nào đó của “Cấm-địa” có thể chia xẻ với người bên-ngoài, nhưng khía-cạnh khác cấm không ai được vãng-lai. Tôn-trọng riêng-tư không chỉ là vấn-đề liên-quan tới Đạo-đức mà lại còn là những lí-zo cấp-thiết của văn-hóa. Cho nên, tất cả những câu-hỏi về văn-hóa fải zừng trước “Cấm-địa”, ngay cả những câu hỏi không có tính-cách ngông-ngênh, ví zụ những chương-trình fụng-sự jáo-zục mà nhiều người rất thích.
The theme, “communicative culture” suggests communicable values of culture in reciprocal manner, for instance culture A and culture B participate in “communicative debate” that requires both sides effective communication skill to transmit cultural knowledge designed to different levels comprising linguistic ability, learning other culture’s language (Strueber, “Charity and Rational Contextualism” in Rediscovering Empathy, 2006, p. 67), comprehensive and substantial material, social and anthropological insights.
Đề tài, “văn-hóa hội-thông” có ngĩa là bàn về những já-trị của văn-hóa có thể được truyền-thông trong hành-động hỗ-tương. Chẳng hạn nếu xã-hội A và xã-hội B muốn tham-zự vào jao-lưu văn-hoá, thì cả hai xã-hội ấy fải có khả-năng thảo-luận hữu-hiệu để ziễn-tả kiến-thức văn-hóa soạn theo từng trình-độ khác nhau. Điều này đòi-hỏi vai trò của ngôn-ngữ, học ngôn-ngữ của một nền văn-hóa khác, tài-liệu sáng-sủa có nội-zung rõ-ràng, và sự hiểu biết ngọn-nguồn về xã-hội và con người.
Empathy does not require an act of sympathy. However, a feeling for may invoke the meaning and understanding transacted in cultural tradition. In some culture, to pour a cup of water for a missing or passing person would mean an act of empathy, which means precisely the acknowledgement of such a person’s indispensable values, such as piety or bravery. Wailing if it applied here shows no degree of sympathy of the beholder, but a deeper understanding of human nature, culturally transacted. In Communication and Empathy, Condon brings forward a number of sensitive topics, among which we find: the complexity of communication, forms of sharing, human beings in a common world, participation and sharing, entrainment, organizations of change. As is well put, Condon concludes and I follow that such sensitive topics are “profound interpenetrating and structural reciprocities without which human life could not exist.” (Lichtenberg et al. Ed. Empathy, volume 2, 1984, pp. 36 -37).
Hiểu-biết văn-hóa “tận xương-tủy” không đòi hỏi lòng “thông-cảm”. Tuy-nhiên, cảm-xúc vì lí-zo nào đó cũng có thể đưa tới í-ngĩa và hiểu-biết đã ziễn ra đều đều trong truyền-thống văn-hóa. Ví-zụ trong một nền văn-hóa, người ta tin rằng:
Zạ-đài cách mặt khuất lời,
Zảy xin chén nước cho người thác-oan.
(Nguyển Zu, Truyện Thúy-Kiều)
Khóc-than và “chén nước” ở trường-hợp này không thể júp cho người ngoài-cuộc hiểu được nỗi-lòng, nhưng nó cho người ngoài-cuộc thấy tính người qua văn-hóa. Trong bài Communication and Empathy, Condon trưng ra một số vấn-đề hội-thông văn-hóa rất “xương-tủy”, gồm có những điểm không hoàn-toàn lí-tính, ví-zụ: sự fức-tạp của truyền-thông, những thể-loại chia-xẻ hiểu-biết, con-người trong thế-jới cộng-đồng, tham-zự và chia xẻ hiểu-biết, chia-xẻ cùng nhau, và những tổ-hợp về đổi-thay. Tôi đồng-í với Condon là những điểm trên là những zữ-kiện hỗ-tương rất căn-bản và sâu-sắc, mà thiếu chúng đời sống của nhân-loại không còn.
Man projects himself into the world his mental and psychic activities. In so doing he re-claims his identity, and thus becomes his new being as he recognizes his the-being-there to create the lived world for him. The exigency of being with others’ the-being-there makes life possible, and sometimes impossible. Therefore, the cultural world should be aware of pretentions, and probably it has presupposed man’s civilized image. In order to evaporate pretentious behavior, and to turn presupposition into reality that the “civilized man” truly exists, “communicative culture” as a strategy would ask for man the wise acquisition of other’s positive knowledge. To rewrite history for accuracy does not involve the act of denial of history. Therefore, “communicative culture” simply means an inter-cultural communication, neither negotiation nor dialogue as a method of politic of assimilation, superficially and even absurdly as we have learned enough from the conflicts of ideologies.
Con người zọi fóng chính mình vào thế-jan qua những hoạt-động của trí-tuệ và tình-cảm. Có thế con người mới trở nên nguồn-sống mới cho chính mình và định-ngĩa lại cái tôi của con người đang ở ngay kia. Con người sáng-tạo ra thế-jan sống và có kinh-ngiệm cho chính mình và cho những người khác. Thế-jan con người đang sống tạo nên cuộc đời “lên bổng, xuống trầm”. Cho nên, thế-jới văn-hóa chính là một jả-thiết về hình-ảnh con người văn-minh. Zo lẽ ấy, để xem có đúng là “tiến-bộ văn-minh” chúng ta cần fải xét-lại hình ảnh ấy, và con người fải chịu trách-nhiệm trước những thử-thách hoà-bình và xung đột qua fương-fáp gọi là “Văn-hóa Jao-lưu”. “Jao-lưu Văn-hóa” không fải là những “thương-lượng” hay “đối-thoại” bởi những thứ này chỉ là zàn-xếp chính-trị, jả-trá và fi-lí như chúng ta đã chứng-kiến trong nhiều mâu-thuẫn vì í-thức hệ.
B
CULTURAL MAN AND THE UNDERSTANDING OF CULTURE
CON NGƯỜI VĂN-HÓA VÀ VẤN-ĐỀ HIỂU VĂN-HÓA
To develop the cultural man-ness, we need first and foremost a profound understanding of culture to spur our task as such by revealing cultural values of human societies. The logic of understanding culture must, theoretically and practically, determine the scopes and limits of validation exclusively by real performance that it is tentatively called “communicative culture”.
Để fát-triển tính-người văn-hóa, điều-kiện tiên-quyết là chúng ta fải có sự hiểu-biết sâu-sắc về văn-hóa júp chúng ta khám-fá ra já-trị văn-hóa trong nhiều xã-hội con-người. Xét về mặt lí-thuyết cũng như thực-hành, fương-fáp hiểu văn-hóa fải cho chúng ta thấy rõ mục-tiêu và jới-hạn của cách đánh já-trị hoàn-toàn bằng việc làm cụ-thề mà chúng ta tạm gọi là “văn-hóa hội-thông”.
Husserlian Phenomenological Reductionism suggests the understanding of the “egos” – the “I”, my own, and the foreign “I” (Stein, On the Problem of Empathy, 1964, p. 12-13) by way of pairing technique that goes ad infinitum, with frequent check of the validation of knowledge by deeper penetration into the subjectivity, which in reality may show some validation shortcomings. Such a reductionism, deep and vigorous, tells tales of complacency, yet possibly still falls short of transcendental truth. As the result the call for empathic technology has entered cultural discourses. However, in reality much works still await and test our consciousness of facticity in our way to “communicative culture” not quite apparent on horizon. And this calls the cultural man to duty.
Fương-fáp cùng-kì lí trong Hiện-tượng Luận của Husserl đòi hỏi hội-thông jữa “những cái tôi”. Cái “tôi” là tôi đây, và cái “tôi” của người-khác - bằng cách “cho những cái tôi đi song-song bên nhau” mãi mãi không ngừng, và luôn-luôn kiểm-chứng hiểu biết bằng cách đi sâu mãi vào vai-trò của chủ-thể, để tìm ra thiếu-sót. Fương-fáp cùng-kì-lí, vừa sâu và vừa đòi hỏi rất nhiều công-fu, có thể cho chúng ta mãn-nguyện, nhưng chưa hẳn đạt tới chân-lí cao-hơn. Kết-qủa là chúng ta cần fương-fáp hiểu-sâu tận xương-tủy trong những vấn-đề văn-hóa. Tuy nhiên, trên thực-tế còn có qúa nhiều chuyện hiểu-biết của chúng ta về minh-chứng cụ-thể trên con đường tiến về “văn-hóa hội-thông” vẫn còn xa lắc xa lơ. Và điều này chúng ta cần đến con-người văn-hoá.
What is the man of culture? A scholar of cultures or even a culture vulture may not set himself in the pursuit of empathic understanding as does the man of culture or the culturalist, although a scholar has a host of cultural knowledge while the latter practically participates in the lived world of culture, and not by way of definitions. Furthermore, the man of culture ethically weighs on and even up some cultural behavior. Cultural behavior may in reality pose tremendous difficulties for all attempts to understanding and communicating culturally. (Condon, p, 36)
Con-người văn-hóa là jì? Một học-jả về văn-hóa hay một người khát-khao tìm-hiểu văn-hóa có thể không fải là người biết tới ngọn-nguồn văn-hóa như con-người văn-hóa, mặc zù học-jả văn-hóa có rất nhiều kiến-thức về văn-hóa. Con người văn-hóa là con người tham-zự vào thế-jan văn-hóa bằng kinh-ngiệm sống, chứ không sống theo định-ngĩa về văn-hóa. Hơn nữa, trong cái nhìn đạo-đức, con-người văn-hóa còn fải lưu-tâm đến một vài thái-độ văn-hóa.
In this sense to understand other’s culture requires a commitment of deep-skin comprehension or empathy, which now demands the man of culture’s serious investigation of a culture completely different from his. That how deep emphatic approaches would be to guarantee success in “communicative culture” remains a classic question, which finds no satisfactory answer. Would empathy follow rational or psychological norm or both?
Trong í-ngĩa này, để hiểu văn-hóa của người khác đòi-hỏi một zấn-thân hiểu-biết đền “xương-tủy.” Hiểu biết này đòi hỏi sự truy-tầm tường-tận của con-người văn-hóa về một nền văn-hóa hoàn-toàn khác với văn-hóa của người ấy. Tuy nhiên, câu hỏi chúng ta nên đặt ra là “hiểu-biết xương-tủy” sâu tới cỡ nào để cho những fương-fáp hiểu biết thành-công và bảo đảm cho fương-fáp văn-hóa hội-thông? Đây là câu-hỏi xưa-cũ mà vẫn chưa có câu trả-lời thỏa-đáng. Vấn-đề hiểu tận “xưong-tuỷ” zựa trên lí-trí hay tâm-lí? Hay là cả hai?
To be a man of culture would mean to be a performer of formidable task, of noble ideal, or just merely wish-fulfillment. Would such a man be better off with rational mind or with Romanticism? One of the principle failures of rationality in social, cultural and political life was forcefully argued in Finkielkraut’s book of 1995, The Defeat of the Mind or Défaite de la Pensée. The Fench writer’s thesis proves that multiculturalism has not worked well in France. The issue becomes so grave that it has frustrated the French public consciousness and has weighed upon all presidential runners-ups of 2012, to the point it would be asked for a remedy (neither pancreas nor antidote) of the rational “miscarriage”. If we maintain that the communicative culture is based on natural observation, then the outcomes from laboratory calibration so called the scientific model, according to Leavy, only create illusionary figures (1973, p.320) quoted from Goldstein (1985, p. 15).
Là con-người văn-hóa có ngĩa là con người làm chuyện fi-thường, làm một lí-tưởng cao-cả, hay có khi chỉ là con-người mơ-mộng. Con-người văn-hóa ấy nên suy-tư và hành-động theo lí-trí hay theo tình-cảm? Một trong những thất-bại lớn của suy-tư theo lí-trí trong đời-sống chính-trị, văn-hóa và xã-hội được Finkielkraut nêu lên trong cuốn Défaite de la Pensée, 1995 chứng-tỏ thuyết văn-hóa đa-nguyên không thành-công ở Fáp. Vấn-đề văn-hóa đa-nguyên đang làm bận-lòng zân Fáp và là mối ưu-tư cho các ứng-cử viên Tổng-thống năm 2012. Qúa ưu-tư đến độ chúng ta tự-hỏi có fương-thuốc jì ngăn-ngừa sự “băng-thai” của lí-trí hay không. Nếu chúng ta luận rằng văn-hóa hội-thông fải zựa vào tinh-thần khoa-học, thì theo những hoc-jả như Leavy, cách tính theo khuôn-mẫu khoa-học chỉ là những con số đầy ảo-tưởng.
Inherently, the assumption of the man of culture and “communicative culture” has already led to the concept of empathy. Agosta in his paper Empathy and Intersubjectivity argues two forms of empathy: “the receptivity” and “the understanding”. 1) Empathic receptivity recommends understanding gained from “resonance”, “sensitivity”, “awareness”, and “vicarious introspection”. 2) Empathic understanding suggests a “working model”. In reality both theoretical empathy and functional empathy should converge to achieve pure intellectualization and to avoid possible misinformation of the former. (Agosta, Empathy, volume I, edited by Lichtenberg et al, 1984, The Analytic Press. P. 47)
(To be continued)
Theo lẽ tự-nhiên, cả hai í-niệm về “con-người văn-hóa” và “văn-hóa hội-thông” đều đã đưa đến sự “hiểu-biết tận xương-tủy”. Trong cuốn Empathy and Intersubjectivity Agosta bàn đến hai thể “hiểu-biết tận xương-tủy”, Thể thứ nhất: Biết tới căn-cơ là biết tới cường-độ của sự-kiện, là biết tới cảm-tính, là nhận ra sự-kiện, và quay về với chính suy-tư, kinh-ngiệm và tình cảm nơi người khác. Thể thứ hai: Cần mô-hình thực-tế để hành-động. Cả hai thể trên đều fải nằm trong vấn-đề “hiểu-biết tận xương-tủy”, đặc biệt khi thể thể thứ nhất có những sai-lầm.
(Còn tiếp)
April 26, 2012