Nói Về Bản Dịch Người Dưng
Tham khảo :
Albert Camus, L’Etranger, Editions Gallimard, Collection Folio, Paris, 1971.
Albert Camus, Người dưng, Dương Tường dịch, Nxb Văn học, Hà nội, 1995.
Trần Hinh, Bài học từ tiểu thuyết Camus, Văn nghệ, ngày 12/07/2003.
Dương Tường, Đôi điều thưa lại với ông Trần Hinh, Văn nghệ ngày 10/10/2003.
Chúng tôi xin được phép xía vô cuộc tranh cãi giữa hai ông Trần Hinh và Dương Tường về bản dịch cuốn L’Etranger của nhà văn Pháp Albert Camus (1913-1960), tuy biết rõ rằng mình chẳng là gì so với vị thế của hai ông. Trần Hinh là giảng viên văn học Pháp ở ĐHKHXHNV thuộc Đại học Quốc gia Hà nội ; còn Dương Tường thì, theo lời một nhà quan sát văn học sở tại, là « nhà báo, dịch giả, nhà phê bình văn học, nhà phê bình mỹ thuật, nhà phê bình âm nhạc, nhà phê bình sân khấu, nhà thơ... », nghĩa là một nhà trí thức quán triệt mọi lãnh vực văn hóa và, riêng về ngành dịch thuật, cứ theo lời các tác giả tập biên khảo Những ngưới dịch văn học Việt Nam, ông « đã dịch trên 50 cuốn sách của nhiều tác giả lớn của các nền văn học Pháp, Anh, Nga , Mỹ, Liên xô (cũ), Đức, Ao, Hy lạp, Nhật bản, Nam Phi, Brazil, Ailen (không kể một số tác phẩm văn học Việt Nam dịch sang tiếng Anh và Pháp) », nghĩa là một dịch giả rành rất nhiều ngoại ngữ.
Coi đó, thì tác giả bài này, vốn không có lấy một sự nghiệp sư phạm hay văn hóa nào đáng kể, quả là kẻ điếc không sợ súng, nên mới cả gan múa rìu qua mắt thợ như vậy. Khổ nỗi là hễ thấy có việc gì không thể đừng thì, dầu tài hèn sức mọn tới đâu, cũng chẳng làm sao câm được miệng hến, nhứt là khi việc này có cơ khiến cho bàn dân thiên hạ và độc giả hiểu sai và biết lầm. Nhưng, ngược lại, cũng được cái khác là, trong trường hợp này, mình có quyền giới hạn tiếng nói trong một địa hạt không vượt quá tầm sức của mình : nhận xét của Trần Hinh về cách dịch của Dương Tường trong Người dưng và phản ứng của dịch giả.
Nhận xét của Trần Hinh
Thật ra bài báo Trần Hinh viết để tưởng niệm Albert Camus nhơn dịp 90 năm ngày sanh của nhà văn Pháp. Trong bài, sau mấy dòng sơ lược trình bày diễn biến kĩ thuật và cốt truyện của loại hình tiểu thuyết (hơi tiếc một điều là, trong ý hướng đó, tác giả chừng như bỏ quên mấy khái niệm mà giới phê bình văn học Pháp gọi là autofiction hay tự sự hư cấu và romanquête hay điều tra tiểu thuyết đang được các nhà văn nổi tiếng ứng dụng trong tác phẩm mới của mình), Trần Hinh bàn thẳng ngay tới văn phong dị biệt của Albert Camus. Ong khẳng định rằng hình thức và nội dung mấy tác phẩm nòng cốt của nhà văn này luôn luôn ăn khớp với nhau, hình thức giải mã nội dung, nội dung uốn nắn hình thức, tạo nên bầu khí đặc thù cho phép nhà văn kín đáo chuyển tải, một cách hết sức tự nhiên và không gò bó, tư duy triết học mình muốn gởi tới độc giả.
Qua đó, Trần Hinh nhắc tới bản dịch cuốn truyện nguyên tác tiếng Pháp là L’Etranger do Dương Tường chuyển thành Người dưng. Ong cho đây là « một bản dịch rất ‘‘lạ‘’ ». Ngay chính nhan đề L’Etranger chuyển thành Người dưng xét ra quá ư « giản đơn. Rõ ràng từ Người dưng đến L’Etranger là một khoảng cách rất xa. », nghĩa là dịch giả « đã gần như không chú ý đến hệ thống tư tưởng của tác giả (...) ». Hay nói một cách huỵch toẹt hơn, dịch giả không thông hiểu nội dung tác phẩm và thiếu thận trọng trong công trình dịch thuật.
Rồi ông viện dẫn câu đầu thiên truyện để chứng minh nhận xét của mình. Nguyên tác câu này như vầy :« Aujourd’hui, maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas. », được Dương Tường chuyển thành :« Mẹ tôi tịch hôm nay. Hoặc có thể là hôm qua cũng nên, tôi chả biết nữa ». Trần Hinh chỉ trích việc dịch giả dùng động từ tịch, cho rằng từ này không thích hợp với lời nhơn vật thốt ra trong đầu khi đọc điện tín báo tin mẹ mình từ trần. Ong viết :
« Ai lại có thể tin được một người xưng hô với mẹ mình là maman, trước cái chết của mẹ lại có thể nói năng buồn cười như thế được : mẹ tôi tịch... ».
Tóm lại, duyệt xét bản dịch Người dưng, Trần Hinh nhận thấy dịch giả đã
-
chuyển không sát nguyên tác nhan đề thiên truyện,
-
không thông hiểu phong cách diễn đạt giản dị của tác giả,
khiến cho bản dịch « thật sự (...) xuyên tạc tư tưởng Camus » và ngay câu đầu đã « làm hỏng toàn bộ tác phẩm. »
Phản ứng của Dương Tường
Như để tiếp máu đón trước cho các luận cứ của mình, phản bác mấy nhận xét của Trần Hinh, Dương Tường dõng dạc tuyên bố ngay liền như sau :
« Năm lần đọc đi đọc lại đủ cho tôi thấy ra được một trong những nốt chủ âm của tư tưởng tác phẩm nằm ngay trong cái đầu đề : cảm giác xa lạ đến tuyệt vọng, xa lạ giữa một xã hội chỉ một mực kết tội và lên án, xa lạ với tất cả, với mọi người kể cả bản thân mình. »
Nghĩa là ông thông hiểu rạch ròi, tường tận tư duy triết học tiềm ẩn trong tác phẩm, chớ không ngu ngơ như Trần Hinh lầm tưởng. Đó là một.
Còn vì sao ông cố tình chọn từ Người dưng để chuyển nhan đề L’Etranger, thì đây : ông biết rõ rằng người ta đã dịch là Người xa lạ và, theo ông, « người mới học tiếng Pháp cũng có thể dịch » được như vậy ; riêng ông thì khác, ông không «thích ăn sẵn », ông muốn bản dịch nào do ông thực hiện đều phải mang « dấu ấn » của mình. Vả chăng, theo ý ông, thì « người dưng và người xa lạ là hai từ đồng nghĩa » và « bình đẵng » với nhau. Đó là hai.
Rồi ông tiếp tục phản bác Trần Hinh đã chỉ trích câu đầu thiên truyện do ông dịch (xem trích đoạn thượng dẫn trong phần Nhận xét của Trần Hinh, nói tới việc Dương Tường dùng chữ tịch). Ong bẻ :
« Chẳng lẽ ông Trần Hinh không biết chữ tịch là tiếng nhà Phật ? Giả sử (...) ông Trần Hinh dến thăm lại một ngôi chùa, hỏi thăm về vị sư trụ trì ông đã gặp lần trước và được trả lời : « Sư cụ tôi tịch tháng trước », liệu ông có mắng người ta ‘’ nói năng buồn cười ‘’ không nhỉ. » Đó là ba.
Riêng về từ maman trong nguyên tác, thì ngược lại với Trần Hinh, ông cho rằng thốt ra trong miệng nhơn vật Meursault, « con người dửng dưng tuyệt đối này », nó không còn là tiếng gọi mẹ thân thiết, mà « chỉ là cách nói theo thói quen, chứ không mang biểu hiện âu yếm nào ở Meursault đối với mẹ trên ngần ấy trang sách. Meursault hoàn toàn dửng dưng với mẹ, với cái chết của mẹ. » Đó là bốn.
Mấy luận cứ trên đây được Dương Tường nêu ra để đạp đổ các nhận xét tiêu cực của Trần Hinh về bản dịch Người dưng.
Ý kiến của chúng tôi
Ngay đầu bài, chúng tôi đã cố tình tránh dùng từ tranh luận, lây chữ tranh cãi để chỉ định vụ việc. Vì trên thực tế, không, hay chưa hề có tranh luận giữa hai ông Trần Hinh và Dương Tường. Mà chỉ có một bên, là Trần Hinh, đã mạnh dạn đưa trên giấy trắng mực đen nhận định không mấy tốt lành về bản dịch Người dưng và, bên kia, là Dương Tường, người bị phê phán, đã kịch liệt lên tiếng cãi lại Trần Hinh.
Riêng chúng tôi thì chỉ là kẻ đã có dịp đọc kĩ vừa nguyên tác L’Etranger của Albert Camus, vừa bản dịch Người dưng của Dương Tường, vừa hai bài báo của Trần Hinh và Dương Tường. Dầu không phải là nhà giáo chuyên ngành văn học Pháp và chắc cũng chuyên về Albert Camus như ông Trần Hinh, và cũng không phải là nhà dịch thuật đã có hơn năm mươi văn phẩm thế giới chuyển ra tiếng Việt như ông Dương Tường, chúng tôi cũng xin mạn phép mạo muội trình bày ý kiến của mình về vụ việc này. Qua hai tiêu đề lần lượt kể sau, bàn tới
* Nhan đề Người dưng
** Trình độ thông hiểu tiếng Pháp xét qua bản dịch
Nhan đề Người dưng
Chúng tôi hiện có trong tay năm bản dịch cuốn L’Etranger, lần lượt kể sau theo thứ tự thời gian xuất bản :
(1) An-be Ca-muy, Người xa lạ, Võ Lang dịch, Nxb Thời Mới, Sài gòn, 1965.
(2) Albert Camus, Kẻ xa lạ, Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung dịch, Nxb Ngày Nay, Sài gòn, 1965.
(3) Albert Camus, Kẻ xa lạ, Lê Thanh Hoàng Dân và Mai Vi Phúc dịch, Nxb Trẻ, Sài gòn, 1973.
(4) Albert Camus, Người dưng, Dương Tường dịch, Nxb Văn Học, Hà nội, 1995.
(5) Albert Camus, Kẻ xa lạ, Nguyễn Văn Dân dịch, in trong phụ lục tập khảo luận Văn học phi lí của Nguyễn Văn Dân, Nxb Văn hóa-Thông tin - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà nội, 2002.
Nhìn trùm nhan đề các bản dịch vừa nhắc tới trên, chúng ta nhận thấy ngay rằng Người dưng rõ ràng là con ruột của Dương Tường, nó mang dấu ấn của ông, ông không ăn sẵn của ai hết, đúng in quan điểm dịch thuật của ông. Đây không phải là chỗ khảo xét quan niệm đặc biệt này, mà là chỗ bắt chúng ta buộc phải đặt một câu hỏi chủ chốt : Người dưng có thật sự lột được nguyên ý nhan đề L’Etranger hay không ?
Chúng tôi nghĩ rằng Người dưng chẳng những không lột được nguyên ý của nhan đề tiếng Pháp lồng trong bối cảnh tư duy triết học của Albert Camus, mà còn có cơ khiến cho người đọc hiểu sai và biết lầm. Bởi vì nhơn vật Meursault, trong tác phẩm, không thuộc loại người mà ta gọi là người dưng nước lã không cùng máu mủ với ta, không có gốc gác với làng xóm của ta. Mà là kẻ ở ngoài quĩ đạo, ở ngoài sự đời, ở ngoài lề, đứng bên rìa, cách biệt, xa lạ, ngoại cuộc hay nói theo tiếng Anh/Mĩ là the outsider, tiếng Iphanho là el extranjero hoặc tiếng Đức là der Fremde : cho nên chúng tôi không thể cùng một ý kiến với Dương Tường khi ông quả quyết rằng người dưng và người xa lạ đồng nghĩa với nhau.
Vả lại, trừ nhan đề Người dưng, ngay chính Dương Tường cũng không hề sử dụng thẳng từ này để chỉ nhơn vật Meursault, mà còn hay lặp đi lặp lại mấy từ xa la và dửng dưng (xem các trích đoạn thượng dẫn trong phần Phản ứng của Dương Tường : ba lần xa lạ, hai lần dửng dưng). Chừng như ông cũng mang máng nhận thấy rằng nhan đề Người dưng có chút gì không ổn.
Trình độ thông hiểu tiếng Pháp
Trong bài phản bác, cãi lại nhận định của Trần Hinh, Dương Tường bảo nhỏ chúng ta rằng « từ hồi 5, 6 tuổi (... tôi đã) bắt đầu được luyện giao tiếp bằng tiếng Pháp ». Chúng ta chẳng có lí do chánh đáng nào mà không tin ông, lại còn mừng ông đã tận dụng được một lợi thế đâu phải ai cũng có trong tay. Và chắc nhờ vậy mà ông sành tiếng Pháp, cứ vin theo lời ông kể trên, tới mức khó có ai bì kịp, nói chi một Trần Hinh.
Cho nên khi Trần Hinh mở miệng thốt lên lời chỉ trích chữ tịch trong câu « Mẹ tôi tịch hôm nay », do Dương Tường dịch từ nguyên tác « Aujourd’hui maman est morte », thì liền bị ông quật lại ngay. Bảo rằng chữ tịch là tiếng nhà Phật ông không biết sao mà dám phê bình. Ơ hay, bà má nhơn vật Meursault có phải là ni cô đâu, có phải là sư cụ trụ trì ngôi chùa nào đâu mà lại tịch thế kia ? Nhưng thôi, dầu gì thì tịch cuối cùng cũng có nghĩa là mất, là chết, là tắt thở, là qua đời, là từ trần, là nằm xuống, là hi sanh, là ngoẻo (nghĩa lóng của chữ tịch, chắc vì vậy mà Trần Hinh mới cho là buồn cười), là... nhiều nữa, đúng như nguyên bản tiếng Pháp morte vậy, thì câu dịch nói trên cũng chẳng sai mấy, cứ cho đó là dấu ấn của dịch giả.
Bởi vì, ngoài nó ra, còn có biết bao chỗ khác đáng nói nhiều hơn nữa trong cuốn Người dưng. Chỉ cần giở lại đoạn đầu gồm vỏn vẹn mấy câu ngắn ngủn cũng đủ để vạch ra được một số thí dụ điển hình.
Nguyên tác
Aujourd’hui, maman est morte. Ou peut- tre hier, je ne sais pas. J’ai reçu un tlgramme hier de l’asile : « Mre dcde. Enterrement demain. Sentiments distingus. » Cela ne veut rien dire. C’tait peut-tre hier. Dịch bản
Mẹ tôi tịch hôm nay. Hoặc có thể là hôm qua cũng nên, tôi chả biết nữa. Tôi nhận được một bức điện tín từ trại dưỡng lão : « Mẹ mất. Mai đưa đám. Trân trọng. » Điều đó vô nghĩa. Có thể là hôm qua.
Thí dụ thứ nhứt
Đây là mấy câu độc thoại nội tâm mở màn cho thiên truyện, Albert Camus đã dụng công dùng từ maman hàm nghĩa má, mẹ, mợ, me, u... nói thầm trong bụng nhơn vật. Chớ không phát thành tiếng để gởi tới một đối tượng nào chung quanh, nên nó tuyệt nhiên không mang ý nghĩa « một từ gọi mẹ thân thiết » (Trần Hinh) hay một « cách nói theo thói quen » (Dương Tường) : té ra hai ông đã tranh cãi nhau trên một cái cớ hão huyền.
Thành ra khi Dương Tường chuyển chữ maman thành mẹ tôi, thì ngay từ đầu đã trật đường và sai hướng rồi. Chữ tôi kèm theo chữ mẹ ở đây tự dưng biến nó thành lời khai mào cho một câu chuyện thuật lại cho người khác nghe, chớ không còn là suy nghĩ trong đầu nhơn vật nữa. Xóa mất tánh cách độc thoại nội tâm cốt yếu.
Như vậy là bóp méo văn pháp của tác giả.
Thí dụ thứ hai
Nghe tới chữ asile, người Pháp nghĩ ngay đến chỗ ở do Nhà nước hoặc các tổ chức từ thiện lập ra, dành để giúp đỡ hạng người cầu bơ cầu bất chẳng nơi nương tựa, như trẻ mồ côi không mẹ không cha, như kẻ túi rách áo đơm hay tật nguyền, như người già yếu không còn thân quyến hoặc bị con cháu ruồng rẫy...
Bà má nhơn vật Meursault vô ở nhà tế bần cách thành phố Alger 80 cây số nằm trong trường hợp này, cũng hệt như lão gác cổng - lão lang thang không nhà không cửa, tình cờ tạt vô nhà tế bần rồi được giữ chơn gác cổng. Vì vậy mà con trai bà sau này không ngừng bị tòa án quở trách đã chẳng trông nom gì đến mẹ, đã bỏ bê bà, đã đang tâm để bà về già phải nương thân trong một nhà tế bần.
Vậy mà Dương Tường lại chuyển từ asile thành trại dưỡng lão. Ai cũng biết các nhà dưỡng lão, ở Pháp, chỉ lần lần được tạo dựng từ sau Thế chiến thứ hai và, muốn được vô đó dưỡng già, thì hầu bao của đương sự hay của gia đình cũng phải có bề dầy. Chớ không thể thuộc thành phần khốn đốn, nghèo rớt mùng tơi như bà má của nhơn vật Meursault.
Thí dụ thứ ba
Qua bức điện báo tin mẹ từ trần, nhơn vật Meursault không rõ là bà tắt thở vào đúng ngày nào : hôm qua hay ngay hôm nay. Đọc mấy chữ cụt ngủn ghi trong điện tín, hắn nghĩ thầm trong bụng :« Cela ne veut rien dire », được Dương Tường chuyển thành « Điều đó vô nghĩa ».
Đây là cách dịch từng chữ mà không lấy ý câu văn làm trọng.
Trong những trường hợp tương tợ, trước những tình thế mập mờ, không rõ nét, thiếu mạch lạc, chỉ có thể đoán chừng (đúng là trường hợp của nhơn vật Meursault), mỗi ngưới hiểu một cách..., khi nghe hay đọc thấy thứ văn từ loại đó, thì hầu hết người Pháp cứ y như đều phản ứng ngay liền qua một câu đầu lưỡi : « Cela (hay ça) ne veut rien dire ». Cụm từ thốt ra trên đầu lưỡi này có nghĩa là không rõ ràng, không rõ rệt, không rành rẽ, không rành rọt, không rành mạch... chút nào hoặc chẳng ra sao cả, sớn sơ sớn sác, chớ không phải là (điều đó) vô nghĩa. Nhứt là ở đây, vô nghĩa xem chừng không ăn nhập bao nhiêu với mấy chữ ghi trong điện tín.
Kết
Trở lên trên là mấy thí dụ điển hình đáng nói về bản dịch Người dưng, vạch ra từ vài dòng ngắn ngủi khai mào câu chuyện. Tinh vi và nghiêm trọng hơn những chỗ dịch sai, vì hiểu và biết lầm, tầm thường khác nhận thấy rải rác trong bản dịch, chẳng hạn như dans l’escalier là ngoài cầu thang thì chuyển thành lên cầu thang, hay glace là nước đá thì chuyển thành kem, hay une fois dans la cellule là khi đà vô tới xà lim thì chuyển thành một lần trong xà lim và nhiều nữa. Hay những dòng cố tình bỏ qua hoặc vô ý bỏ quên không dịch. Hay chú thích lạ lùng nọ, chứng tỏ rằng dịch giả không theo dõi sát sao diễn tiến câu chuyện.
Bây giờ xin mạn phép ngừng lại ở đây. Thừa dịp thưa rõ thêm một điều.
Thật tình cực chẳng đã chúng tôi mới viết mấy dòng trên đây. Đơn thuần vì là việc không thể đừng, chớ không vì bạn bè thúc giục - ở Sài gòn, ở Huế, ở Hà nội và ở Paris. Cũng không phải vì có ý định binh vực Trần Hinh - Trần Hinh cần gì đến tài hèn sức mọn này để binh vực ông ? Hay có ý đồ sổ toẹt (đương sự) với tư cách là dịch gia, nói theo chữ của chính Dương Tường - không lẽ làm công việc châu chấu đá voi và trứng chọi đá đó sao ?
Thành thật mong độc giả và hai đương sự hiểu giùm.
(Paris 19/11/2003)
Nói Về Bản Dịch Bài Le Carton Rouge Của Francois Weyergans
Ngày 10.07.2006, nhựt báo buổi chiều Pháp Le Monde (Thế giới) cho đăng trên mạng trong mục Opinion (Quan điểm) luận đàm của nhà văn giải Goncourt 2005 François Weyergans chung quanh vụ mùa đá banh World Cup vừa rồi. Ngày 14.7.2006, báo điện tử tiếng Việt talawas (Ta là ai) ở Đức cho đăng bản dịch bài này của Phạm Toàn dưới nhan đề Tấm thẻ đỏ. Sáu ngày sau đó, tờ talawas ngày 20.7.2006 lại cho đăng một bản dịch khác của T.N. cũng cùng một nhan đề. Ông T.N. đã dịch lại, theo lời của chính ông, « bằng tiếng Việt bình dân học vụ cho dễ hiểu » , là « vì bản dịch của ông Phạm Toàn ‘‘Tây quá’’, lại có nhiều lỗi nhỏ nữa ( như dịch sai câu Ils ne sont pas virtuels chẳng hạn…) ».
Dưới đây, chúng tôi xin được miễn bàn tới văn phong của hai dịch giả, một Tây quá, một bình dân học vụ, cả hai, dưới mắt chúng tôi, đều xa cách viết của François Weyergans vốn không cầu kì và cũng không bình dân. (*) Mà chỉ nêu lên mấy chỗ sơ hở điển hình cho trình độ tiếng Pháp của các dịch giả : hai ông tuy biết ngoại ngữ này, nhưng xem chừng chưa thạo và chưa sành. Nên chi mới mắc phải loại sai sót tinh vi nhưng nghiêm trọng trong bản dịch, khiến cho bài văn mất một phần ý nghĩa.
Chỉ cần đơn cử ba câu giáo đầu cũng đủ để minh chứng nhận xét đó.
Nguyên tác, bản dịch, nội dung
(1) Nguyên tác
Dès qu’on essaie de comprendre un peu, qu’on s’en réjouisse ou qu’on le subisse, l’engouement périodique et planétaire pour le football, l’emballement inouï ou invraisemblable pour quelques joueurs devenus emblématiques, eh bien, on a du boulot ! Encore heureux qu’on s’emballe pour des joueurs : au moins ne sont-ils pas, jusqu’à nouvel l’ordre, virtuels. Ni vertueux : il y a, sublimée ou explicite, pas mal d’agressivité dans l’air pendant un match (…).
(2) Bài dịch
Bản dịch Phạm Toàn
Dù ta khoái chí theo nó hoặc ta đành chịu đựng nó, song một khi thử tìm hiểu đôi chút cái cơn cuồng điên định kỳ bóng đá trên toàn hành tinh, cái sự mê mệt không sao hiểu nổi hoặc có thể hiểu nổi đối với một vài chân sút đã thành biểu tượng, khi đó ta có việc mà làm ! May mà người ta mới chỉ cuồng nhiệt đối với chân sút thôi : ít ra thì cho tới lúc này các chân sút vẫn còn dư sức. Nhưng chẳng dư đạo đức : lởn vởn thăng hoa hoặc hiển hiện tường minh trong một trận đấu vẫn có chút hung hãn hiếu chiến (…).
Bản dịch T.N.
Dù thích hay không thì ngay lúc để mắt tìm hiểu chút xíu về nỗi say mê định kỳ của nhơn loại trong túc cầu, về chuyện hứng chí rồ dại hay không giống ai ráo với một vài cầu thủ biểu tượng của bóng giới, thế là y như phép có chuyện để bàn liền. Mê một vài cầu thủ thì còn cái sướng nào hơn, ít nhứt mấy tên tuổi đó, cho tới giờ này, là có thiệt chớ hổng ảo. Khỏi lễ nghĩa gì ráo, toàn trận đấu, che giấu hay lộ liễu, cũng chỉ ngửi được thứ không khí sặc mùi hung bạo (…).
Nội dung
Hễ cố tìm hiểu chút nào, dầu khoái dầu bực, tại sao hành tinh này lâu lâu cứ giở trò mê đá banh tới mức ấy, tại sao có vài ba cầu thủ đã trở thành biểu hiệu được chiêm ngưỡng quá sức tưởng tượng như vậy, thì chắc còn lâu mới thấu triệt được. Cũng may là người ta chỉ chiêm ngưỡng có loại cầu thủ : ít ra, cho tới nay, các nhà này có da có thịt chớ không là ảo ảnh. Cũng chẳng là đạo nghĩa hiện thân : trong mọi trận đá đều thấy có không ít hung khí, khi thì lồ lộ khi thì ẩn mình (…).
Bình luận
Như đã nói rõ ở đầu bài, chúng tôi xin được miễn bàn tới văn phong của hai dịch giả, dành việc này cho độc giả và giới phê bình vốn đủ thẩm quyền hơn chúng tôi. Mà chỉ vạch ra mấy chỗ sơ hở khiến cho bản dịch của họ hoặc khó hiểu hoặc không sát sao hoặc không đúng ý tác giả. Dưới đây, chúng tôi trích dẫn các sai sót đó. Chẳng hạn :
Thí dụ 1
Nguyên tác l’emballement inouï ou invraisemblable được Phạm Toàn chuyển thành cái sự mê hoặc không sao hiểu nổi hoặc có thể hiểu nổi, còn T.N. thì là chuyện hứng chí rồ dại không giống ai ráo.
Chúng tôi không rõ Phạm Toàn lấy ý ở đâu để chuyển tính từ invraisemblable thành có thể hiểu nổi, cũng như T.N. khi ông chuyển hai tính từ inouï và invraisemblable thành rồ dại không giống ai ráo, trong khi mấy chữ đó hàm nghĩa na ná giống nhau (vì vậy tác giả mới xen liên từ ou = hay là, ở giữa) là chưa từng nghe chưa từng thấy, quá sức tưởng tượng và nhiều cách biểu diễn khác.
Thí dụ 2
Nguyên tác eh bien, on a du boulot !, Phạm Toàn chuyển thành khi đó ta có việc mà làm !, còn T.N. thì thế là y như phép có chuyện để bàn liền !, trong khi lối nói lóng hết sức thông thường này phát biểu nhận xét còn lâu mới…, khó mà…, sức mấy mà…, đâu phải một sớm một chiều mà…vv..
Hình như hai ông chưa sành, chưa thạo tiếng Pháp, nên mới đoán chừng mà dịch chữ như vậy.
Thí dụ 3
Nguyên tác Encore heureux qu’ on s’emballe pour des joueurs, Phạm Toàn chuyển thành May mà người ta mới chỉ cuồng nhiệt đối với các chân sút thôi, còn T.N. thì Mê một vài cầu thủ thì còn cái sướng nào hơn.
Ở đây, phải nhận rằng Phạm Toàn hiểu đúng ý tác giả, còn T.N. thì xem bề lúng túng bởi nghĩa đen của tính từ heureux (que). Nên ông mới chuyển nó chữ sướng, khiến cho lời dịch xa hẳn nguyên tác. Bởi trong ngữ cảnh, từ này chỉ hàm mỗi một nghĩa là cũng may…, may mà…, chớ không giữ nguyên nghĩa đen như ông nghĩ.
Thí dụ 4
Nguyên tác au moins ne sont-ils pas, jusqu’à nouvel ordre, virtuels, Phạm Toàn chuyển thành ít ra thì cho tới lúc này các chân sút vẫn còn dư sức, còn T.N. thì ít nhứt mấy tên tuổi đó, cho tới giờ này, là có thiệt chớ hổng ảo.
Ngược lại, ở đây chính T.N. mới hiểu đúng ý tác giả, còn Phạm Toàn thì chẳng rõ suy diễn thế nào để có thể chuyển tính từ virtuels thành dư sức, không dính dáng gì tới nghĩa gần nghĩa xa của từ ngữ Pháp.
Thí dụ 5
Nguyên tác Ni vertueux, Phạm Toàn chuyển thành Nhưng chẳng dư đạo đức, còn T.N. thì Khỏi lễ nghĩa gì ráo.
Cụm từ cộc lốc của nguyên tác nhấn mạnh chỗ các cầu thủ hằng thiếu đạo nghĩa, bằng chứng là trận đá nào cũng sặc mùi hung bạo (chữ của T.N., xin chịu ơn) : thật tình chúng tôi không hiểu các dịch giả nói gì qua hai câu dịch trích dẫn, đặc biệt mấy chữ dư (Phạm Toàn) và khỏi (T.N.). Xin được chỉ giáo.
Thí dụ 6
Nguyên tác sublimée ou explicite, Phạm Toàn chuyển thành lởn vởn thăng hoa hoặc hiển hiện tường minh, còn T.N. thì che giấu hay lộ liễu.
Hai tính từ Pháp miêu tả hung khí của cầu thủ trong các trận đấu, khi thì rõ mồn một khi thì tiềm ẩn. Có thể bảo câu dịch của T.N. đúng ý nguyên tác, còn của Phạm Toàn thì … nghe nó thế nào ấy : ông dịch chữ hơn là dịch nghĩa, chắc vì chưa thạo và chưa sành.
Tạm kết
Trở lên trên là mấy sai sót vạch ra từ năm ba dòng trích trong bài dịch luận đàm của một nhà văn Pháp không bình dân cũng không cầu kì, không dễ hiểu cũng không lắt léo. Các sơ hở này cho thấy dịch văn là một công việc trần ai, đòi hỏi ở đương sự rất nhiều công sức và kiến thức. Ngoài việc trước hết phải thông thạo và sành sỏi ngoại ngữ, chớ không chỉ biết nó là đủ.
Một dịp để chúng ta suy ngẫm về tình trạng dịch thuật hiện hành.
(Paris 22/07/2006)
(*) Xem Trần Thiện-Đạo, Giải Goncourt 2005 : François Weyergans, Ba ngày về ở với mẹ (trên Thể thao & Văn hoá, số 121, ngày 8-11-2005).