Bài 27:
LẨU XÁ
Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
* Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
* Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các điệu “khắp”, múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai.
* Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng 11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn La.
Ở bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông) ở vùng cao.
“Xá” là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
Bài 28:
ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC
*Đường lên Tây Bắc xa xôi
Nếp nhà sàn thấp thoáng
* Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng chim rừng đây đó…
(Nhạc sỹ Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
- Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6…
- Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
- Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
* Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
- Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km
- Sơn La - Tuần Giáo 56km
- Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới bản Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu, thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xã.
Thị xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người).
Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
“Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt. Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán cây cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3. Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
4, Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh : Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu (huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường Chai).
- Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
7/3/2012 - NK
Bài 29:
CÂY MẮC CHAI
Ở Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như đang chờ đón đợi ta về…
Ở cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) thì ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng.
Thời chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra trận…
Cây Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
Bài 30:
HOA BAN
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan Péng xướng pan bók khẳm
(Đời son trẻ như hoa ban
Đời thương như hoa khẳm).
Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La - Tây Bắc.
Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là hình tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp, mối tình thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
“Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
- Y Phương.
Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
“Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng nở
tần ngần
chào em ”.
“Nghĩ đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy dòng trôi…”
Lúc hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa.
Cây Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Hạt Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
Bài 31:
ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA
* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
- Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng.
Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
.Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động: rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).