Lời nhà xuất bản
Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường-Tộ
13 g rue de l’ILL
67116 Reichstett, France
Kính quí độc giả,
Trước ngày tạ thế, Lm Gs Nguyễn Văn Thành đã ủy thác cho Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường Tộ và Tu Viện Xitô VN ở Orsonnens, Thụy-sĩ, sắp xếp, bảo tồn và phát hành các tác phẩm của GS.
Sau gần một năm làm việc, TTVH Nguyễn-Trường-Tộ đã tập hợp hầu như toàn bộ công trình sáng tác của GS Thành, và đã phối trí, phân loại tài liệu theo những đề mục khác nhau.
Chúng tôi đã xếp thành bốn (4) đế mục sau đây:
A. Các nội dung liên quan đến bộ môn Tâm-Lý-Học, đặc biệt là về tâm lý trị liệu liên quan đến việc chăm sóc các trẻ em tự-bế, và những nội dung về tính tình và phát triển nhân cách. Đề mục nầy có mười một (11) tài liệu :
- A1 Trẻ em tự bế
- A 2 Trẻ em chậm phát triển : phương thức giáo dục và dạy dỗ
- A 3 Nguy cơ tự bế nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi
- A 4 Quan hệ mẹ-con
- A 5 Phát huy quan hệ xã hội trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ
- A 6 Tính tình và đời sống
- A 7 Bản câu hỏi về tính tình
- A 8 Lòng tự tin
- A 9 Tư duy và hành động
- A 10 Bản đồ tâm lý và tư duy sáu màu
- A 11 Nguyễn Trải và vấn đề giáo dục con cái
B. Các nội dung liên quan đến văn hóa tổng quát gồm bảy (7) cuốn sách:
- B 1 Huyền sử
- B 2 Sơn Tinh và Thủy Tinh
- B 3 Nguyễn Trải, một tấm lòng Vạn Xuân và Đại Việt
- B 4 Đối thoại, một quê hương tình người
- B 5 Khung trời mở rộng bằng con đường thuyên giải
- B 6 Con đường bao dung trong văn hóa và huyền sử Việt nam
- B 7 Lắng nghe, một quà vô giá
C. Các nội dung tôn giáo gồm bốn (4) tác phẩm :
- C 1 Chúng ta sống lại
- C 2 Trong Đức Kitô
- C 3 Suy niệm về Đức Mẹ
- C 4 Lắng nghe Chúa Thánh Thần
D. Phần phụ thêm
- D1 Hãy thắp lên ngọn đuốc, xuất bản sau khi GS tạ thế (nội dung tôn giáo và tang lễ GS Thành)
- D 2 Những bản văn RỜI, không xuất bản thành sách
- D 3 Viết về LmGs Nguyễn Văn Thành
- D 4 Các hình ảnh về Gs Lm Nguyễn Văn Thành
Chúng tôi đã chia thành đề mục, xếp lại theo khổ A 4, đánh số trang, không những để việc nghiên cứu, trính dẫn được dễ dàng, nhưng bảm đảm đuợc bản gốc không bị thêm bớt.
Một số tác phẩm, đặc biệt các cuốn liên quan đến nội dung Tâm-lý-học được xuất bản trong thời gian từ 1971 đến 1975, lúc GS Nguyễn-Văn-Thành là GS trường ban Tâm Lý Phân Khoa Nhân Văn Và Nghệ Thuật ĐH, Minh Đức, cũng như các tài liệu bằng ngoại ngữ, chưa được xuất bản lần nầy, vì chúng tôi chưa tìm ra được bản gốc. Trong đó có các tác phẩm quan trọng là:
1.- Đường vào Nội Tâm với Phân Tâm Học của S. FREUD – 1997
2.- Le projet pédago-éducatif – 1997
3.- Phát huy Nhân Lực – 1998
4.- Đối thoại với các tơn giáo – 1998
Chúng tôi trông chờ vào sự hợp tác của bằng hữu và độc giả để sớm tập hợp được toàn bộ sáng tác của GS Nguyễn-Văn-Thành và phổ biến cho mọi người được đọc.
Trân trọng.
Ngày 22 tháng 06 năm 2009
Nguyễn Đăng Trúc
Hội trưởng
Nội Dung
Lời mở đường: « Tôi nhìn tôi trên vách »
Chương Một: Nguồn gốc Rồng Tiên
Chương Hai: Khi Mặt Hồ nổi sóng, Thần Kim Qui xuất hiện
Chương Ba: Thánh Gióng và con đường « đi lên » của con Rồng cháu Tiên
Chương Bốn: Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con Đường, Một Nước Non
Chương Năm: "Tấm và Cám" trong nội tâm của Chúng ta
Chương Sáu: « Thằng Bờm » trong cõi lòng của Người Việt Nam
Chương Bảy: Đối Thoại : Bắc lại Nhịp Cầu Hiểu Biết và Tình Thương
Chương Tám: Con Đường Luyện Vàng
Chương Chín: Xây dựng Quan Hệ và Quan Hệ Xây Dựng
Chương Mười: Hạnh Phúc và Khổ Đau Trong lòng Cuộc đời
Chương Mười Một: Khi nào một cơ cấu tổ chức trở nên bệnh hoạn ?
Chương Mười Hai: Chuyển hóa thực trạng ngày hôm nay ?
Thay lời Kết Luận: Chiếc Bè để qua sông
Cùng một tác giả
Lời mở đường
Tôi nhìn tôi trên vách
Một trong những cuốn sách của nữ văn sĩ Túy Hồng mang tựa đề là : « Tôi nhìn tôi trên vách». Hẳn thực, phóng mình lên trên một màn ảnh để nhìn xem mình, lắng nghe mình ăn nói làm sao, cư xử và đãi ngộ thế nào với người anh chị em đồng bào, trong cuộc sống thường ngày... phải chăng đó là một khả năng đã giúp Túy Hồng xác định mình là ai, không thả mình cuốn trôi theo dòng thác lũ, như một ngọn lá bấp bênh và vô hồn, vô giá trị và vô nghĩa ?
Tâm lý học đương đại đặt tên cho khả năng « thấy mình đang sống » như vậy, là PHẢN TỈNH, có nghĩa là thức tỉnh, sáng suốt về những gì chúng ta đang làm, đang nói và đang suy tư. Theo lối nói của Thiền học, khi ăn tôi biết tôi đang ăn. Khi làm tôi biết tôi đang làm. Khi đi, tôi biết tôi đang đi. Khi dừng lại, tôi biết tôi đang dừng lại. Làm được những điều ấy, tôi sẽ là một con người có ý thức, chứ không phải là chiếc máy tự động và vô hồn, ngày ngày nhai đi nhai lại, những gì mà người khác đã lên kế hoạch hay là lập sẵn những chương trình cho tôi, từ trên hoặc từ ngoài.
Một cách cụ thể, mỗi lần tôi tiếp xúc và trao đổi với anh chị em đồng bào, phải chăng khi nói, tôi biết tôi ĐANG NÓI với tư cách là một chủ thể toàn phần, đang có những quan hệ năng động và hài hòa với bao nhiêu chủ thể khác ? Tôi tìm cách diễn tả, chia sẻ con người trung thực của tôi, thay vì lên tiếng tố cáo, mạ lị, đàn áp và bốc lột con người ở trước mặt tôi ? Tôi cố quyết làm người và đồng thời tôi tôn trọng quyền làm người của những ai đang chung sống với tôi, trong môi trường xã hội và Quê Hương. Tôi cố quyết tạo cho họ, bằng cách này hoặc cách khác, tùy vào thực tế cụ thể của mình, những điều kiện thuận lợi, khả dĩ giúp đỡ, kêu mời họ cũng ngày ngày vươn mình lên, làm người với tôi. Ai còn bị ức hiếp, mà lòng tôi không quặn đau ? Ai còn vất vã, lam lũ, chưa thể kiếm ra được mỗi ngày một loong gạo, mà lòng tôi không cảm thấy trăn trở và bồi hồi ? Bao lâu tôi còn « bịt tai, bịt mắt, đóng kín cửa lòng » trước tình trạng «người bốc lột người», trong lòng Quê Hương và Đất Nước, sau hơn «bốn nghìn năm văn hiến...», liệu tôi có biết rõ « tôi thực sự là ai » hay chưa ? Phải chăng tôi đang dám nhìn mình hiện nguyên hình một cách rõ rệt, trên một màn ảnh ở trước mặt ?
Đồng cảm và đồng hành với anh chị em đồng bào, như tôi vừa giới thiệu một vài đường nét chấm phá, phải chăng đó là những chủ đề được xoáy lui xoáy tới, trong những câu chuyện Huyền Sử, mà Tổ Tiên và Cha Ông đã trối trăng lại cho chúng ta, từ đời nầy qua đời khác, cho đến ngày hôm nay ? Một cách nào đó, các vị đang kêu mời chúng ta hãy làm người, bằng cách đặt ra những câu hỏi sau đây :
- Con là ai ?
- Con đang mang trong mình những giá trị nào ?
- Sở trường mà con cần phát huy, vun tưới là gì ?
- Sở đoản mà con cần khắc phục và hóa giải bao gồm những điều nào ?
- Con đang thực thi trách nhiệm thế nào, với mỗi người anh chị em đồng bào, nhất là với những thế hệ của ngày mai đang từ từ lớn lên ?
- Nói tóm lại, bao nhiêu THÁCH ĐỐ đang đợi chờ con là gì, trên mỗi tấc đất của Quê Hương ?
Thách đố có nghĩa là những vấn đề ắt có, tất yếu thuộc thân phân và điều kiện làm người. Nếu chúng ta biết đối diện và nhận diện, bằng cách chuyển biến hoặc hóa giải, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ may, để vươn mình lên, thăng tiến trên con đường làm người. Trái lại, nếu chúng ta ù lì, bị động, xuôi tay hay đầu hàng, chính chúng ta đang chuốc vào mình thân phận làm nạn nhân, đồ vật hay là công cụ của người khác. Lúc bấy giờ, thay vì sáng tạo mình, với tư cách là một chủ thể biết đảm nhiệm bản thân và cuộc đời, chúng ta chỉ PHẢN ỨNG, với những thái độ chua cay, phàn nàn, trách móc, hận đời. Hay là chúng ta trở nên con người phản động, chống đối, phá hoại, bạo động... xây dựng cuộc đời của mình, với hai bàn tay thấm máu, luôn luôn hành hạ, sát hại, thủ tiêu hay là lạm dụng kẻ khác, cho dù đó là những trẻ em non dại hay là những người dân đơn sơ, mộc mạc, vô tội...
Trong một số bài chia sẻ, được đăng tải đó đây trên nhiều Tờ Báo trong và ngoài Nước, tôi đã khảo sát những vấn đề được đặt ra trên đây, với tất cả thực chất, thực hữu và bao nhiêu giới hạn ắt có thuộc con người xương máu và cụ thể của tôi. Hôm nay, sau một cuộc đời nghiên cứu và học hỏi, tham khảo và lắng nghe nhiều vị thầy ở Đông cũng như ở Tây, trên Bắc cũng như dưới Nam, tôi tạm thời đúc kết, góp lại thành một cuốn sách, với tựa đề : « Huyền Sử Việt Nam : Con đường LUYỆN VÀNG của Con Rồng Cháu Tiên ».
Xuyên qua tác phẩm nầy, tôi muốn nhấn mạnh những trọng điểm sau đây :
- Thứ nhất, trong lòng Quê Hương, từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau, tất cả chúng ta không trừ sót một ai, đều là anh chị em đồng bào, phát xuất từ một Cha và một Mẹ. Chúng ta tất cả mang hai dòng máu Lạc Hồng, trong quả tim.
- Thứ hai, tuy là anh chị em, chúng ta khác nhau, trong nhiều địa hạt. Không có hai người hoàn toàn giống nhau, như hai hạt nước. Mặc dù vậy, chúng ta đang cần nhau. Chúng ta có thể bổ túc, kiện toàn và xây dựng cho nhau.
- Thứ ba, thách đố lớn lao và kỳ hùng, đang có mặt trong con tim và cuộc đời của mỗi người, là con đường Đối Thoại, làm bằng chất liệu Tình Thương và Hiểu Biết, Đồng Cảm và Đồng Hành, Thức Tỉnh và Tha Thứ. Một cách cụ thể, quan hệ Đối thoại là ngày ngày ngồi lại với nhau, trao đổi qua lại hai chiều, biết cho và biết nhận, biết xin và biết từ chối một cách sáng suốt và tự do, vừa có tình và vừa có lý. Để xây dựng và bồi đắp con đường ấy, mỗi người diễn tả thực tế của chính mình, đồng thời tôn trọng tư cách làm chủ thể của người anh chị em đang chung sống hai bên cạnh.
- Thứ bốn, con đường trao đổi và chia sẻ ấy là một tiến trình liên tục bao gồm ba chiều kích « ngày qua, hôm nay và ngày mai », và sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Mỗi người có trách nhiệm đóng góp phần mình, để không ngừng xây dựng, củng cố, đổi mới con đường đang đi.
- Thứ năm, nếu chúng ta thiếu Tỉnh Thức và Lòng Tha Thứ, mỗi giây mỗi phút, con đường Đối Thoại ấy có thể lập tức trở thành « Một Đại Lộ Kinh Hoàng », làm bằng chết chóc, kỳ thị, hận thù và chiến tranh... đang chạy xuyên qua quả tim của từng người trong chúng ta, và đang xé nát Quê Hương thành nhiều mảnh vụn. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ phản bội Tổ Tiên và Cha Ông. Đồng thời, chúng ta chỉ có một gia tài đổ nát và tang thương, để trối trăng lại cho các thế hệ con cái và cháu chắt sau này.
Năm điều tâm niệm trên đây đã được kết tinh và kết tụ, trong quả tim của tôi, sau môt cuộc đời học hỏi, nghiên cứu, khổ đau và tu luyện. Tuy nhiên, phải chăng đó cũng là thực tế và thực tại của mỗi người đang mang dòng máu Rồng Tiên, trong từng huyết quản, giống như tôi ? Tôi thắp hương khấn vái Tổ Tiên và chờ đợi câu trả lời của mỗi người anh chị em đồng hương, đồng bào, bất phân nguồn gốc xã hội, chủng tộc, địa phương, chính kiến và Đức Tin Tôn Giáo.
Mùa Hè năm 2004
Chương Một
Nguồn gốc Rồng Tiên
Con thân thương, hỡi con cháu Lạc Hồng,
Làn da con màu vàng đồng lúa chín,
Mái tóc con nhắc lại những dòng sông :
Sông Hồng, Sông Hương, Cửu Long cuồn cuộn,
Mang phù sa nuôi sống những mầm non,
Chuyên chở nước tưới mát những cánh đồng.
Quên sao được : Bàn tay con huyền nhiệm,
Tay Bà Trưng, Bà Triệu cứu Non Sông,
Tay sáng tạo bao chiến công xán lạn,
Tay Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung…
Tay oanh liệt của cháu chắt Vua Hùng,
Mang dòng máu Rồng Tiên trong huyết quản.
Con thân thương, hỡi con cháu Lạc Hồng,
Hãy đứng thẳng, cho lòng người cường tráng,
Giữa dòng đời, ôm mãi vững niềm tin,
Đường con đi, hy vọng ở đáy lòng.
Trong đêm tối, ánh mắt tràn ánh sáng,
Người phản bội, mở rộng lòng tha thứ,
Dù té ngã, vẫn bước trọn con đường,
Giờ truân chiên, nở nụ cười tỏa rạng.
Con trọng đại, vì con là tất cả :
Là mảnh đất mầu mỡ của Quê Hương,
Một khu vườn ươm lại giống Tình Thương,
Xây Non Sông, làm tươi đẹp khóm phường.
Con bồi đắp cho ngày mai, tuổi trẻ,
Trồng rừng xanh phủ hết đất tang thương,
Cưu mang Trời, chiếu rạng vùng tăm tối,
Hạt Tình Người gieo vãi khắp mười phương.
Mục đích của chương nầy khai sáng một số vấn đề cụ thể như sau :
Xuyên qua những câu chuyện huyền sử về “nguồn gốc Rồng Tiên” của người Việt Nam, Tổ Tiên muốn nhắn lại cho chúng ta và con cháu sau này những điều gì quan trọng ? Sứ điệp của các vị bao gồm những nội dung như thế nào ? Giá trị của các sứ điệp ấy, trong những điều kiện sinh sống của chúng ta ngày hôm nay, còn mang tính hiện thực và thời sự nữa hay không ? Hay đó chỉ là những chiếc áo đã lỗi thời, cũ kỹ, không còn thích hợp với con nguời có tinh thần khoa học, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba ?
Để tháo mở một phần nào bao nhiêu vấn nạn ấy, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát hai loại trọng điểm sau đây :
Trong phần Một, với kỹ thuật “Sáu chiếc Mũ” của tác giả Ed. De Bono, chúng ta sẽ khám phá sáu tầng lớp ý nghĩa khác nhau của mỗi câu chuyện huyền sử.
Trong phần Hai, xuyên qua những thành quả được phát hiện, chúng ta sẽ ý thức được rằng : mỗi câu chuyện huyền sử có mục đích đáp ứng và thỏa mãn bốn nhu cầu làm người có mặt trong bản thân của chúng ta. Đồng thời, những kết quả ấy cũng làm nổi bật ba chiều kích trọng yếu có mặt trong bản sắc làm người của chúng ta.
Phần Một
Sáu tầng lớp ý nghĩa của Huyền sử
Để tránh những ngộ nhận và sai lầm, trong cách sử dụng từ ngữ, tôi xin đưa ra một số phân biệt quan trọng sau đây :
- Thứ nhất, Huyền sử không phải là lịch sử. Khi tôi chép lịch sử của một dân tộc hay xứ sở, tôi ghi lại những sự kiện và biến cố, một cách khách quan và xác thực được chừng nào hay chừng ấy. Những sự kiện và biến cố ấy được chính tôi chứng kiến, mục kích trực tiếp. Hay là tôi đã tham khảo và trích dẫn những tài liệu có giá trị, được các nhà chép sử khác công nhận. Tuy nhiên, với bao nhiêu nỗ lực có tính khoa học ấy, tôi còn phải thú nhận rằng : không bao giờ và không có chi là hoàn toàn khách quan một trăm phần trăm. Khi sao chép, ghi nhận một sự kiện, tôi đã làm công việc chọn lựa, chắt lọc, cân nhắc, nghĩa là tôi đã vận dụng bao nhiêu ý kiến và lập trường chủ quan của tôi. Sau khi ghi nhận những sự kiện, tôi còn phải “thuyên giải”, nghĩa là xếp đặt lại, tìm ra ý nghĩa và xác định phương hướng hành động. Riêng trong hoàn cảnh Việt Nam, công việc chép sử chỉ mới khai sinh ở dưới Triều Lý (1010-1225), được kiện toàn ở dưới Triều Trần (1225-1400), và tương đối hoàn chỉnh ở dưới triều Lê (1418-1527). Tuy nhiên, vì chiến tranh xảy ra liên miên, nhiều tài liệu lịch sử đã bị tiêu hủy, đốt cháy và thất lạc. Từ Triều Lý trở lên về trước, trong vòng gần bốn ngàn năm, lịch sử của đất nước tuyệt đối không được ghi chép thành văn bản. Thay vào đó, chúng ta có những lời truyền tụng, những di tích và những hiện vật như cung tên, khí giới, trống đồng, đồ gốm… Những phương tiện nầy cho phép các sử gia thiết lập một số điểm mốc quan trọng, khả dĩ đánh dấu những giai đoạn phát triển của dân tộc Việt Nam từ thời Hồng Bàng (2879-258 trước công nguyên) cho đến ngày hôm nay.
- Khác với lịch sử, như chúng ta vừa trình bày ý nghĩa, Huyền sử bao gồm nhiều câu chuyện vừa thực vừa mơ, “bàn về” nguồn gốc của Đất Nước và Dân tộc, do tổ tiên và cha ông chúng ta thừa kế từ đời trước và truyền lại cho các đời sau, qua bao nhiêu tầng lớp thế hệ nối đuôi nhau. Tác giả Trần Thế Pháp là người đầu tiên, vào cuối thế kỷ 14, dưới thời Trần Nghệ Tông làm Thượng Hoàng, đã lượm lặt, sưu tầm những câu chuyện ấy và chép lại thành văn bản, với tựa đề “Lĩnh Nam Chích Quái”. Tác phẩm nầy, gần 100 năm sau, vào cuối thế kỷ 15, chung quanh thời điểm là năm 1492, đã được tác giả Vũ Quỳnh sắp xếp lại, thay đổi thứ tự và lập thành một văn bản mới. Phải đợi đến năm 1973, chúng ta mới có được một tác phẩm bằng quốc ngữ, do “Tiếng Đông Phương” xuất bản tại Sài gòn và “Sống Mới” phát hành. Sách dày 665 trang, mang tựa đề là “Việt Nam Văn Học Toàn Thư, thần thoại, cổ tích”. Tác giả là Hoàng Trọng Miên đã sưu tầm, bổ túc bằng cách thêm vào nhiều câu chuyện của các dân tộc thiểu số.
- Thông thường, khi nói đến nguồn gốc “Rồng-Tiên” của người Việt Nam, rất nhiều tác giả chỉ đề cập đến câu chuyện “Lạc Long Quân thuộc giống Rồng kết hôn với Bà Âu Cơ thuộc giống Tiên. Từ liên hệ vợ chồng nầy, một trăm đứa con được sinh ra cùng một lúc, trong cùng một bọc trứng. Cho nên bây giờ, chúng ta gọi nhau là ĐỒNG BÀO, có nghĩa là anh chị em cùng chia sẻ với nhau một bào thai”. Vì vô tình hay hữu ý, khi quá nhấn mạnh câu chuyện nầy, các tác giả ấy đã bỏ quên vai trò và ý nghĩa của nhiều câu chuyện khác không kém phần quan trọng, như :
- Ba công trình vĩ đại của Lạc Long Quân là diệt tan Ngư tinh, Mộc tinh và Hồ tinh,
- Thánh Gióng đi đánh giặc Ân, lúc lên ba tuổi,
- Bánh dày và bánh chưng của Lang Liệu,
- Cuộc tranh chấp sống mái giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh,
- Thần Kim Qui giúp Vua An Dương Vương xây dựng Thành Cổ Loa,
- Trọng Thủy lấy Mỵ Châu làm vợ và cướp mất chiếc nỏ thần bảo quốc đem về Tàu.
- Cũng vì lý do thiếu khả năng phân biệt một cách rõ ràng giữa lịch sử và huyền sử, nhiều cuộc trao đổi giữa chúng ta, chung quanh vấn đề Huyền sử, đã dễ dàng thoái hóa thành những vụ tranh chấp, xung đột, mang đầy tính chất bạo động và nhị nguyên như :
- Tôi đúng-kẻ khác sai,
- Tôi có lý-kẻ khác vô lý,
- Tôi hơn-kẻ khác thua,
- Tôi có óc khoa học-kẻ khác vô học.
Và khi tinh thần nhị nguyên đã khống chế tâm tư và cuộc đời, với những nhu cầu phân biệt trắng-đen rõ rệt, bạn-thù quang minh, chúng ta trở nên mù quáng. Vô minh tràn ngập mọi hang cùng ngõ hẻm của tâm hồn. Đôi mắt chúng ta không còn có đầy đủ ánh sáng, để nhận ra khuôn mặt thân thương của người anh chị em. Dòng máu luân chuyển trong cơ thể của họ, phải chăng cũng là dòng máu Rồng Tiên đang đập nhịp trong quả tim của chúng ta ?
Thế mà trong lịch sử của nước nhà, cứ mỗi lần một triều đại mới lên nắm chính quyền, lại xảy ra quang cảnh thanh trừng, đổ máu, thịt nát, xương rơi, nồi da xáo thịt. Đã một thời, Trần Thủ Độ, vị công thần khai nguyên Nhà Trần, đào hầm, gài bẫy, chôn sống nhiều con cháu của Nhà Lý. Vào cuối đời Trần, Hồ Quí Ly lại tìm cách tận diệt những viên chức trung tín với Nhà Trần. Nhà Nguyễn, sau khi đánh thắng Tây Sơn, đã đào mồ, quật mã, mạ lị hài cốt của tổ tiên họ. Vào những năm 1940, nhiều người cũng đã bị thủ tiêu, khi chưa có án lệnh rõ rệt...
Cho đến bao giờ, người Việt Nam, trong cũng như ngoài Nước, mới có khả năng lắng nghe sứ điệp của Tổ Tiên và Cha Ông ? Qua các câu chuyện huyền sử, phải chăng các vị hôm nay vẫn đang còn nhắn nhủ chúng ta rằng : hai người Việt Nam có thể khác nhau như Trời và Biển, như Rồng và Tiên. Vâng, chúng ta đang bộc lộ những sắc thái khác nhau, trên nhiều phương diện. Nhưng khác mà không khai trừ, loại thải nhau. Khác, mới có thể bổ túc, kiện toàn cho nhau, cùng nhau làm nên những kỳ công trọng đại cho quê hương và anh chị em đồng bào, giống như Lạc Long Quân đã làm, cách đây hơn bốn ngàn năm về trước.
Có người đòi hỏi những sự kiện cụ thể, khách quan trong các câu chuyện huyền sử ? Chúng ta chỉ cần can đảm nhìn mình, nhìn cuộc sống hai bên cạnh, chúng ta sẽ khám phá một cách dễ dàng: những hiện tượng xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không phải là những câu chuyện hoang tưởng, bịa đặt. Nhưng đó là những hiện thực hoàn toàn khách quan, đang xảy ra hôm nay, ở đây và bây giờ, trước mắt chứng kiến của chúng ta. Ngay cả trong tâm hồn và cuộc đời của chúng ta.
Câu nói của Thần Kim Qui, trả lời cho Vua An Dương Vương : “Kẻ thù đang ngồi ở sau lưng Nhà Vua” còn mang rất nhiều tính thời sự, trong hoàn cảnh của Đất Nước, ngày hôm nay.
Nói tóm lại, con đường tư duy độc lộ chỉ dẫn đưa chúng ta đến một ngõ cụt : đó là tình trạng bạo động hận thù, kỳ thị chiến tranh, chết chóc và lầm than. Thay vào đó, tác giả Ed. De Bono đề nghị chúng ta học hỏi và tôi luyện một lối nhìn đa năng đa diện, mang tên là “kỹ thuật SÁU CHIẾC MŨ”. Mỗi lần nói về mình, về người khác, hay là cùng nhau khảo sát một vấn đề – chẳng hạn như tìm hiểu ý nghĩa của Nguồn gốc Rồng Tiên – chúng ta hãy lần lượt đội lên đầu sáu chiếc mũ Trắng, Đen, Vàng, Đỏ, Xanh da trời và Xanh lá cây.
Với chiếc mũ màu trắng, chúng ta làm công việc ghi nhận sự kiện cụ thể và khách quan, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Chúng ta nghe làm sao, chúng ta nói lại y nguyên, không thêm không bớt. Chúng ta thấy gì, chúng ta trình bày lại, một cách trung thực, cơ hồ tấm gương soi phản ảnh tất cả những gì đang xảy ra ở đằng trước.
Với chiếc mũ màu đen, chúng ta rút ra một cách có ý thức những sự kiện, mà chúng ta đánh giá là tiêu cực, có những hạn chế rõ rệt. Tuy nhiên, chúng ta phải có can đảm nêu lên những lý do giải thích thể thức đánh giá của chúng ta. Sau đó, chúng ta lắng nghe và cho phép kẻ khác phát biểu, biện hộ, nêu lên những thắc mắc của mình.
Với chiếc mũ màu vàng mặt trời, chúng ta cố gắng phát hiện những khía cạnh tích cực, năng động… – nếu tìm, thế nào cũng có – trong bao nhiêu ý kiến mà chúng ta vừa phê bình và đánh giá.
Với chiếc mũ màu đỏ, chúng ta diễn tả những xúc động hoàn toàn chủ quan của mình, như buồn, lo, tức giận, sợ hãi. Vì đây là những phản ứng hoàn toàn chủ quan, chúng ta hãy dùng sứ điệp ngôi thứ nhất TÔI, để phát biểu và đảm nhận ý kiến của mình, một cách chân thành và sáng suốt. Không ném đá giấu tay. Không vơ đũa cả nắm. Không giận cá chém thớt. Chúng ta bộc lộ nhu cầu và nguyện vọng của mình. Đồng thời chúng ta cho phép kẻ khác từ chối, không thỏa mãn chúng ta, vì đó cũng là quyền lợi riêng tư của họ.
Với chiếc mũ màu xanh da trời, chúng ta đúc kết, rút ra ý nghĩa từ những sự kiện, mà chúng ta đã thu lượm, với bốn chiếc mũ trước đây. Giai đoạn nầy mang tên là THUYÊN GIẢI, bao gồm ba công việc khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Thứ nhất là tóm lược quá khứ, rút ra những kết luận, sau khi đề xuất và kiểm chứng một cách nghiêm chỉnh những giả thuyết hay là những hướng đi giả định. Công việc thứ hai là xác định những công việc cần thực hiện, trong hiện tại. Thứ ba là dự phóng, tiên liệu hay là chuẩn bị con đường cho tương lai.
Khi nhiều ý nghĩa được đề xuất cùng một lúc, chúng ta phải xếp đặt thành thứ tự ưu tiên. Và chương trình nào quan trọng nhất, phải được chúng ta giải quyết và thực hiện, truớc tất cả mọi dự phóng khác được đề xuất, nhưng hiện thời, đó chưa phải là những điều cấp thiết và khẩn trương.
Nói tóm lại, chiếc mũ xanh da trời kêu mời, thúc giục chúng ta đi lên, mở rộng tầm nhìn, đúng như câu thơ của Thi sĩ Trụ Vũ đã diễn tả :
“ Bởi vì mắt thấy trời xanh,
“ Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.
“ Bởi vì mắt thấy bể khơi,
“ Cho nên mắt cũng xa vời đại dương ”.
Sau cùng, với chiếc mũ màu xanh lá cây, chúng ta bắt tay vào việc, “làm nên mùa xuân” trong lòng đất nước, thực hiện những gì đã được đề xuất, thay vì chỉ hô hào, tuyên truyền láo khoét. Hơn ai hết, chính Nguyễn Trãi đã yêu cầu chúng ta, cách đây hơn năm thế kỷ :
“ Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
“ Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo ”.
Nếu mỗi người trong chúng ta, ai ai cũng có khả năng sử dụng sáu chiếc mũ, để nhìn lại, ngẫm lại nguồn gốc RỒNG TIÊN của mình và dạy lại cho con cái biết làm như chúng ta, tôi chăc chắn rằng : bản thân chúng ta ĐÃ và SẼ viết được những trang sử kỳ hùng cho quê hương và anh chị em đồng bào, giống như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Hoàng hậu Ỷ Lan, cách đây hơn 10 thế kỷ.