Phần Hai
Bốn NHU CẦU sinh hoạt và Ba chiều kích làm người của chúng ta
Phần Hai
Dựa vào kỹ thuật « Sáu chiếc mũ » của Ed. de Bono, mỗi người có thể phát hiện trong những câu chuyện huyền sử, những hướng đi, những ý nghĩa độc đáo cho cuộc sống làm người. Điều cốt yếu cần ghi nhận trong cách làm nầy, là chúng ta tạo ra những cơ hội, để chia sẻ với người khác những khám phá riêng tư của mình. Và đồng thời, chúng ta lắng nghe kẻ khác một cách cẩn trọng – nhất là những ai thuộc giới trẻ – khuyến khích và kêu mời họ diễn tả ý kiến của mình, cho phép họ nói về bản thân, quê hương và anh chị em đồng bào, một cách chân thành và cởi mở. Trong lòng đất nước, mỗi người trong chúng ta – bất kể là ai, thuộc thành phần nào – đều là một Thánh Gióng, hay là một Phù Đổng Thiên vương. Trước ba tuổi, chúng ta chỉ là một đứa bé khuyết tật, không biết đi, không biết nói. Nhờ bà con họ hàng cho ăn, cho mặc, cho ngựa, cho gươm, Thánh Gióng ba tuổi trở thành một chiến sĩ 30 tuổi, có khả năng lên đường, dẹp tan giặc Ân, đem lại thanh bình cho quê hương và xứ sở. Sau cuộc chiến thắng, Thánh Gióng, 30 tuổi, đã trở thành một thần linh của Đất Nước có tầm cỡ 3.000 tuổi và có khả năng tự mình bay lên trời, trở về với Mẹ Âu Cơ. Câu chuyên về Thánh Gióng được trình bày như vậy không phải là hoàn toàn hoang tưởng và bịa đặt. Trái lại, qua cách nói đầy hình tượng ấy, Tổ Tiên muốn gây ý thức rằng : trong tâm hồn của mỗi người, có một Thánh Gióng nho nhỏ đang còn nằm ngủ, chờ đợi chúng ta đánh thức dậy, cho ăn, cho mặc – về mặt vật chất cũng như tinh thần – để có thể đứng dậy, lên đường, nghe theo tiếng gọi của quê hương.
Thay vì đồng hóa với Thánh Gióng, chúng ta có thể đội chiếc mũ ĐEN lên đầu, để thấy mình mang da thịt và tâm hồn của Mỵ Châu. Trong một phút giây điên dại và mất tỉnh thức, chúng ta đã tạo ra cơ hội, để cho ngoai bang phương Bắc đánh cắp chiếc nỏ thần bảo quốc mà Tổ Tiên đã trối trăng lại, từ bao nhiêu đời. Câu chuyện « Sơn Tinh và Thủy Tinh » cũng có một ý nghĩa tương tự : chính chúng ta đã tạo nên những tai ương hoạn nạn cho đất nước của chúng ta. Chúng ta làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Ngược lại, nếu Sơn và Thủy biết chấp nhận và nhìn nhận nhau, họ có dư thừa mọi tài năng, khả dĩ làm cho Nước Non vui hưởng thanh bình và Núi Sông trở nên thịnh vượng.
Trong khuôn khổ của phần nầy, thay vì trình bày quá nhiều chi tiết, tôi chỉ mạo muội khảo sát hai vấn đề thiết yếu được nêu ra trong câu chuyện huyền sử về nguồn gốc Rồng Tiên của người Việt Nam.
Thứ nhất, đâu là vấn đề muôn thuở, người Việt Nam phải đương đầu, nhận diện qua các thời đại khác nhau ?
Thứ hai, Tổ Tiên đề nghị cho chúng ta những phương hướng hóa giải như thế nào ?
Tất cả cốt lõi của vấn đề và phương cách giải quyết được thu tóm trong câu nói trao đổi giữa Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ như sau :
« Ta thuộc giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khác nhau, người thích ở cạn, người ưa ở nước, tính tình đôi bên khác nhau… không cùng ở chung với nhau một nơi lâu được. Bây giờ một nửa các con theo tôi về Thủy phủ, còn một nửa thì ở lại với mẹ. Tuy đôi bên, kẻ ở rừng, người ở biển, song đến khi có việc gì, thì tin cho nhau, không được bỏ nhau ».
Sứ điệp nầy chuyển tải ở bên trong rất nhiều hình tượng, cô động lại với nhau và chồng chéo lên nhau, thậm chí mang nhiều chi tiết mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, khi dùng kỹ thuật « Sáu chiếc mũ », để nghiên cứu, khảo sát và nghiền ngẫm sứ điệp ấy, chúng ta có thể khám phá ít nhất ba tầng lớp ý nghĩa sau đây :
Tầng thứ nhất, KHÁC BIỆT là nét đặc trưng nổi bật nhất của người Việt Nam. Hẳn thực, khi người Việt Nam có dịp chung sống với một người khác, điều đầu tiên được họ khẳng định một cách nhanh chóng và quyết liệt, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là : Tôi khác bạn, bạn khác tôi. Chính nhờ tư cách đặc biệt nầy, người Việt Nam đã có khả năng xua đuổi quân Hán, quân Tống, quân Nguyên, quân Minh và quân Thanh ra khỏi đất nước của mình. Thêm vào đó, sau một ngàn năm bị ngoại bang đô hộ, chúng ta vẫn duy trì tiếng nói, y phục, phong tục và văn hóa độc đáo của mình. Khi khẳng định nét khác biệt như vậy, người Việt Nam khẳng định chính bản sắc hay là chân tướng của mình.
Tầng thứ hai, chính nét KHÁC BIỆT ấy cũng là đầu dây mối nhợ phát sinh mọi xung đột và hận thù, chia rẽ và chiến tranh, trong lòng quê hương đất nước. Chính vì nét khác biệt ấy, đã bao nhiêu lần, chúng ta không chấp nhận ngồi lại với nhau. Thay vào đó, chúng ta đã tạo nên những con sông Gianh, những vĩ tuyến chia cắt, trong quả tim của chúng ta.
Tầng thứ ba, khi nào người Việt Nam thấy được nét KHÁC BIỆT ấy là một THÁCH ĐỐ kỳ hùng, một TÀI NGUYÊN phong phú và một CƠ MAY diệu vợi, họ có thể thực hiện những kỳ công trọng đại cho đất nước và anh chị em đồng bào. Lúc bấy giờ, họ sẽ trở nên như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi… có khả năng « biến không thành có, chuyển luân Rác nuôi sống những cánh đồng, giữa sa mạc làm tuôn chảy dòng sông, trong chết chóc vun trồng hạt mầm sống ». Nói khác đi, NHỜ khác biệt, chúng ta có thể bổ túc, kiện toàn cho nhau. Làm phong phú cho nhau. Sinh thành nhau. Chúng ta trở thành « NHẤT TÂM », theo lối nói của Nguyễn Trãi, nghĩa là mang trong mình một quả tim có khả năng tác động cơ hồ trăm quả tim. Và một trăm quả tim kết hợp nhau lại làm nên một quả tim duy nhất.
Để thu gặt những thành quả ấy, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải hội nhập một cách nhuần nhuyễn ba bài học trên đây, trong bốn sinh hoạt khác nhau của đời sống tâm lý :
- Sinh hoạt thứ nhất là Hành Động thực tiển : chấp nhận sự khác biệt giữa ta và người là một thực thể tất yếu. Từ đó, chúng ta cho phép kẻ khác có quyền khác chúng ta, thay vì đàn áp, thanh trừng, loại thải… thậm chí kẻ khác đó đang là một trẻ em hay là con cái của chúng ta.
- Sinh hoạt thứ hai là phát huy một lối nhìn tích cực về người anh chị em đồng hương, đồng bào. Dù với bất cứ nét khác biệt nào, trong lãnh vực chính trị cũng như tôn giáo, họ có quyền được chúng ta lắng nghe, tìm hiểu và tôn trọng. Vì một lý do nào đó, họ có thể sai lầm, vi phạm những hành vi bán nước hại dân. Nhưng chúng ta không có quyền truất phế phẩm giá làm người của họ. Nói theo ngôn ngữ của tổ tiên và cha ông chúng ta, họ vẫn « mang dòng máu RỒNG TIÊN trong huyết quản ».
- Sinh hoạt thứ ba là tìm mọi cách sẵn có trong tầm tay, để hóa giải và chuyển biến những xúc động đau buồn và tiêu cực, đang thúc ép, cưỡng chế chúng ta dấn bước vào con đường bạo động, hận thù, chia rẽ và chiến tranh.
- Sinh hoạt thứ tư là học tập, tôi luyện những quan hệ hài hòa, lúc tiếp xúc và trao đổi. Chúng ta chọn lựa con đường giáo dục và đối thoại, thay vì thanh trừng, đe dọa, đàn áp, thủ tiêu và ám sát, khi có người không đồng ý với chúng ta. Con đường giáo dục và đối thoại nầy phải bắt đầu được sử dụng trong khuôn khổ gia đình, giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, mới có thể trở nên một phương thức hành động hữu hiệu trong địa hạt xã hội, chính trị và phục vụ đất nước. Nói tóm lại, trong lòng đất nước và quê hương, không có kẻ thắng người thua. Không có chủ ông và người nô lệ. Chúng ta là anh chị em. Khi hai người Việt Nam hợp tác với nhau, họ có khả năng làm nên Đại dương bao la và Bầu Trời cao cả.
Đó là bốn con đường thể hiện bản sắc « Làm con Rồng cháu Tiên » của chúng ta. Không làm và sống như vậy, chúng ta chỉ là con nộm đa ngôn, hay là con vẹt lặp lại lời nói của người khác, mà không biết mình đang nói gì, không ý thức mình là ai.
***
Xuyên qua tất cả những phân tích và nhận định trên đây, khi chúng ta nhắc lại hay nhớ lại nguồn gốc Rồng Tiên của chúng ta, chúng ta không chỉ làm công việc hồi tưởng một quá khứ xa xưa mà thôi. Chúng ta còn có bổn phận trở về với chính mình, bằng cách chuyển biến sứ điệp của Tổ Tiên thành hiện thực hay là thực tế « ở đây và bây giờ », trong chính con người xương máu của chúng ta.
Nói theo ngôn ngữ của tác giả E. Berne, chúng ta đang thể hiện ba chiều kích kết tạo nên bản sắc của con người chúng ta :
Thứ nhất là chiều dọc : Mỗi người trong chúng ta vừa là đứa con đang thừa kế từ Tổ Tiên một gia tài phong phú. Đó là một giang sơn gấm vóc chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Đồng thời, chúng ta cũng là người cha mẹ, có bổn phận trối trăng lại cho các thế hệ sau này, một quê hương toàn vẹn và một nền văn hóa đặt nền móng trên Tình Thương, Thứ Tha và Lòng Bao dung. Không nhớ kẻ trồng cây, lúc ăn quả, và không tiếp tục mở mang những vườn cây mới, liệu chúng ta còn là những người có tinh thần trách nhiệm không ?
Thứ hai là chiều ngang : Chúng ta tất cả đều là anh chị em cùng sinh ra từ một cha và một mẹ, là Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ. Cho nên “Đồng Hành và Chia sẻ” là con đường tất yếu, chúng ta cần xây đắp và can đảm dấn bước mỗi ngày, cùng với anh chị em đồng bào trên khắp mọi nẻo đường của quê hương.
Thứ ba là chiều sâu của nội tâm : Hai chất liệu kết tạo nên tâm hồn của người Việt Nam, theo truyền thống Rồng Tiên, là Trọng Đại, Cao Cả như Bầu Trời của Bà Âu Cơ, và Bao Dung, Cởi Mở, Đón Nhận mọi người trong lòng Đại Dương bao la giống như Lạc Long Quân. Hơn ai hết, chính Nguyễn Trãi đã nhận thức được chiều sâu nầy, trong lời dạy sau đây:
“ Mở rộng cửa NHÂN, mời khách đến,
Vun trồng cây ĐỨC, nuôi con ăn ”.
Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, chúng ta hãy lắng nghe một cách cẩn trọng và đón nhận làm của mình những lời trăn trối sau đây của Tổ Tiên và Cha Ông chúng ta:
Con hãy lấy Hạnh của Đất mà sống : Bị người người khạc nhổ, nhưng vẫn kết sinh hoa lợi, cho người người ấm no.
Con hãy lấy Hạnh của Nước mà sống : Chấp nhận mang vào mình vết nhơ của bao nhiêu bàn tay, để đem về tẩy luyện trong lòng Biển Mặn.
Con hãy lấy Hạnh của Khí mà sống : Đi vào bên trong lòng mỗi người, để mang dưỡng sinh cho từng tế bào, từng hạt máu, không quên sót một ai.
Con hãy lấy Hạnh của Trời mà sống : Ở trên cao thật cao. Nhưng đồng thời, ở dưới thấp thật thấp. Không có Trời, Con không có chi hết. Nhưng Trời cũng không có chi hết. Trống Không.
Con hãy lấy Hạnh của Lửa mà sống : Ai ấm áp cho bằng Lửa ? Nhưng ai khinh thường Lửa, tự khắc người ấy rước họa vào mình. Lửa không phải là Trời. Nhưng Lửa thay thế Trời, khi Con ở trong đêm tối, và trải qua những ngày đông lạnh lẽo.
Con hãy lấy Hạnh của Đêm mà sống : Nhờ Đêm, một ngày mới bắt đầu trở lại, sau khi nhọc lụy được giấc mơ ủi an, ấp ủ và chuyển hóa. Nhờ Đêm, mắt Con mới thấy được rằng : Tên Con đã được viết sẵn, bằng ánh sao lấp lánh, giữa Đại Dương Ngân Hà của Vũ Trụ.
Sách tham khảo
1. Ed. DE BONO – Six thinking hats – Penguin Books, London 1986.
2. HOÀNG TRỌNG MIÊN – Việt Nam Văn Học toàn thư : Thần thoại và Cổ tích – Tiếng Đông Phương, Saigon 1973.
3. NGUYỄN ĐĂNG TRÚC – Bách Nam là Thủy Tổ của Bách Việt – TT Nguyễn Trường Tộ, 1998.
4. TRẦN TRỌNG KIM – Việt Nam sử lược – Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1999.
5. MỘT NHÓM GÍAO SƯ – Việt Sử – Inst. De l’Asie du Sud-Est Paris, 1983, tome 1 và 2.
6. NGUYỄN VĂN THÀNH – Phát Huy Nhân Lực – Tủ Sách Tình Người, Lausanne 1998.
7. NGUYỄN VĂN THÀNH – Nguyễn Trãi – Định Hướng 2001.
8. E. BERNE – Analyse transactionnelle et Psychothérapie – PB Payot, Paris 1971.
9. NGUYỄN VĂN THÀNH – Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con đường, MỘT Nước Non – Tình Người, Lausanne 2003.
Chương Hai
Khi Mặt Hồ nổi sóng, Thần Kim Qui xuất hiện
Trong kho tàng Huyền Sử Việt Nam, hình tượng « Thần Kim Qui » xuất hiện nhiều lần, xuyên qua nhiều câu chuyện khác nhau :
- Lần thứ nhất, với danh hiệu là sứ giả Thanh Giang – xuất phát từ Dòng Sông Xanh – Thần đã hiện ra, giúp Vua An Dương Vương xây dựng Đền Tháp Cổ Loa [1].
- Lần thứ hai, sau khi hoàn tất công trình xây cất, Thần lại hiện nguyên hình là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một cái móng chân của mình, trao cho Vua An Dương Vương, và dặn rằng : « Nhà Vua giữ lấy móng chân nầy để làm lẫy nỏ. Khi có giặc, hãy đem ra bắn. Mỗi một phát có thể tiêu diệt được hằng nghìn quân giặc» [2] .
- Lần thứ ba, sự việc xảy ra, sau khi Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà, đã dùng kế cầu hôn, để đánh cắp chiếc nỏ thần đem về Tàu. Nhờ đó, Phương Bắc lập tức xua quân sang chiếm cứ Nước Âu Lạc. Nhận thấy phương tiện đề phòng thành lũy đã trở thành vô hiệu, Vua An Dương Vương vội vàng lên ngựa, đèo sau lưng đứa con gái của mình là Mỵ Châu, trốn thoát ra ngoài, bằng cửa sau. Trên đường chạy loạn, Vua An Dương Vương đã mở lời khấn vái, cầu xin trời đất phù hộ. Thần Kim Qui lại xuất hiện và bảo Nhà Vua rằng : « Giặc ở đằng sau lưng ». Vua An Dương Vương giật mình, rút thanh gươm chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự vẫn [3].
- Từ lần thứ tư trở lui, dưới hai triều Lý và Lê, sau khi đã hoàn tất công việc bình định đất nước Đại Việt, ở phía bắc cũng như ở phía nam, các Nhà Vua thường lập đàn tế thần trên Hồ Tây ở Thăng Long. Mỗi lần có những cuộc lễ như vậy, Thần Kim Qui đều hiện ra và thu hồi chiếc gươm « bảo quốc », mà Thần đã trao ban cho các ngài, trước khi họ lên đường dẹp loạn [4]. Chính vì lý do nầy, Hồ Tây còn mang một danh hiệu khác là Hồ Gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm có nghĩa là Nơi Hoàn Trả Thanh Gươm Cứu Nước cho Thần Kim Qui.
Mỗi câu chuyện Huyền sử, vừa được kể lại như vậy, cơ hồ một giấc chiêm bao hiện về vào lúc ban đêm, chỉ trình bày cho chúng ta một vài đường nét chấm phá hay là một vài tin tức rất thô thiển và mơ hồ. Dựa vào đó, làm sao chúng ta có thể giải đáp một cách rốt ráo, những thắc mắc chính đáng và quan trọng do những câu chuyện nêu lên ?
- Thứ nhất, Thần Kim Qui là ai, mang ý nghĩa gì, trong lòng Đất Nước Việt Nam xưa và nay ? Tại sao Thần xuất hiện dưới hình hài của một con rùa vàng ? Nguồn gốc của Thần là nơi đâu ?
- Thứ hai, vai trò của Thần là gì, trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của chúng ta ?
- Thứ ba, qua những câu chuyện Huyền sử, được kể lại đó đây về Thần Kim Qui, Tổ Tiên và Cha Ông muốn trao gửi cho chúng ta những sứ điệp quan trọng như thế nào ?
Nhằm tháo mở và soi sáng những loại vấn đề như vậy, chương nầy sẽ lần lượt khảo sát và trình bày những đề mục sau đây:
- Trong phần Một, Phân Tâm Học của Freud đề nghị cho chúng ta những chìa khóa nào, có hiệu năng « THUYÊN GIẢI » những giấc mơ, trong đời sống cá nhân của mỗi người, cũng như những câu chuyện Huyền sử có liên hệ đến vận mệnh của cả một dân tộc ?
- Trong phần Hai, làm sao chúng ta có thể xác định nguồn gốc của Thần Kim Qui : Thần đến từ nơi đâu ? Thần đi về chỗ nào, sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình ? Nói cách khác, Thần Kim Qui là ai, đối với chúng ta ? Giữa Thần và những ai mang trong mình dòng máu Rồng Tiên, có những quan hệ như thế nào ?
- Trong phần Ba, chiếc Nỏ Thần hay là Thanh Kiếm của Thần Kim Qui có chức năng và phần vụ nào, trong đời sống hằng ngày của mỗi người ?
- Trong phần Bốn, kỹ năng « Luyện Vàng » mà Thần Kim Qui trao gửi cho chúng ta, bao gồm những bước đi lên như thế nào, trên tiến trình hóa giải những tâm trạng lo âu, khắc khoải và khổ đau đang khống chế bản thân và cuộc đời ?
Phần Một
Phương Pháp THUYÊN GIẢI
những câu chuyện Huyền sử,theo Phân Tâm Học[5]
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chúng ta có những vấn đề như đau đầu, khó tiêu hóa, nhức mỏi, bần thần trong cơ thể... chúng ta có xu thế coi thường, xem như không có, hay là cố tình dồn nén, dìm xuống trong đáy sâu của quên lãng và vô thức, những tình huống hay là hiện tượng ấy. Chúng ta lầm tưởng rằng : những vấn đề có mặt trong cuộc sống cũng giống như những đám mây đen trên bầu trời, đã tình cờ xuất hiện và rồi sẽ tình cờ biến đi, không chờ đợi, đòi hỏi chúng ta đưa ra những quyết định chuyển hóa thích ứng và sáng suốt. Tình trạng này kéo dài cho đến một hôm sẽ trở nên nghiêm trọng và tràn ngập. Lúc bấy giờ, không còn có một lối giải quyết nào hữu hiệu, khả dĩ giúp chúng ta trở về với tình trạng sức khỏe lúc ban đầu.
Đối với những giấc chiêm bao hay là những câu chuyện Huyền sử, chúng ta cũng thường nuôi dưỡng những thái độ tương tự như vậy. Chúng ta xem đó là những mẫu chuyện hoang đường, bịa đặt, dành cho trẻ con. Vừa nghe xong, chúng ta đã bỏ qua, lãng quên, KHÔNG tôn trọng, lắng nghe, tìm hiểu một cách đứng đắn và nghiêm chỉnh. Cho nên, những vấn đề xảy ra trong lòng cuộc sống, vẫn luôn luôn tồn tại, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Chẳng hạn, vì không biết rút tỉa và chắt lọc những bài học làm người, từ câu chuyện Huyền sử Sơn Tinh và Thủy Tinh, cho nên trong « suốt bốn nghìn năm văn hiến », chúng ta mãi hoài làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Từ kiếp nầy qua kiếp nọ, chúng ta luôn luôn vòng vo luẩn quẩn trong khô đau, hận thù, bạo động, thanh trừng và đổ máu...
Cũng vậy, vì không biết lắng nghe Thần Kim Qui, từ đời An Dương Vương cho đến ngày hôm nay, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, chúng ta vẫn chưa có kế sách xây dựng MỘT ĐỀN THÁP CỔ LOA kiên cường và bất diệt, trong lòng Đất Nước và trong tâm hồn của mỗi người.
Những con yêu tinh ma quái vẫn còn ngang tàng ngự trị và lan tràn khắp mọi nơi, trên mỗi nẻo đường của Quê Hương, Đất Nước, giống như vào thời nguyên thủy của Lạc Long Quân :
- Hồ Tinh, với những chiêu bài « yêu Nước, thương dân », đang chà đạp và ức hiếp con Hồng cháu Lạc, nhất là những người anh chị em ngày ngày lam lũ trên những cánh đồng của cả ba miền Đất Nước. Hối lộ, tham tàn, mua chức, bán tước... đang len lỏi, nằm vùng, trong mọi quan hệ giữa người với người...
- Mộc Tinh đang làm cho con cháu chúng ta càng ngày càng trở nên vong thân, vong bản, với những loại văn hóa lai căng, mất gốc, nhập khẩu từ Nga, Tàu, Mỹ và Pháp... trước khi chưa được một ai tìm cách tiêu hóa, hội nhập, biến thành của ăn nuôi sống anh chị em đồng bào.
- Ngư Tinh đang đầu độc giới trẻ, với những chất liệu xi-đa, xì ke, ma túy, phòng trà, cà phê ôm... và bao nhiêu tệ hại buôn bán chữ nghĩa, bằng cấp, tiểu luận ra trường, ở mọi cấp bậc trung học cũng như Đại học.
- Sơn Tinh và Thủy Tinh đang phân chia và xếp hàng dân tộc thành hai phe, hai chiến tuyến trắng đen rõ rệt... bằng cách ngày ngày lải nhải những khẩu hiệu nặc mùi hận thù, kỳ thị, bạo động như « Tao hơn, mày thua, Tao yêu Nước, mày bán Nước, Tao chánh, mày tà... ».
Những khổ đau lai láng, tràn trề ấy phải chăng đang có khả năng làm nên một tiếng còi báo động, để mỗi người trong chúng ta biết « tri chỉ », dừng lại, cùng ngồi lại với nhau, lắng nghe nhau? Phải chăng hôm nay đã là thời điểm thuận lợi, khả dĩ thúc giục chúng ta tìm hiểu những câu chuyện Huyền sử, do Tổ Tiên trối trăng lại, từ những ngày xa xưa ? Chúng ta hãy cùng nhau chắt lọc những bài học cho mình và cho đời. Cho tiền đồ của Quê Hương và con cháu của chúng ta. Một cách đặc biệt, chúng ta hãy đánh thức và thắp sáng trở lại ngọn đèn lương tri của Dân tộc Việt Nam : Đó là Tiếng Nói của Thần Kim Qui đang có mặt và thầm thì, trong cõi lòng của mỗi người.
Để có khả năng thuyên giải những sứ điệp, mà Thần đã chia sẻ cho chúng ta, nghĩa là tìm ra những đường hướng xây dựng Quê Hương và cuộc đời làm người, chúng ta hãy sử dụng những chìa khóa, mà Freud đã đề xuất, khi sáng tạo Khoa Phân Tâm Học, vào đầu Thế Kỷ 2O.
Chìa khóa thứ nhất là ngôn ngữ hình tượng, không lời
Cũng giống như trong giấc chiêm bao, mỗi câu chuyện Huyền sử chỉ trình bày cho chúng ta những hình ảnh tiếp nối với nhau. Theo thuật ngữ của Tâm lý đương đại, đó là một loại ngôn ngữ hình tượng, không lời. Chúng ta chỉ thấy những hình ảnh diễn biến và di động trước mắt chúng ta, cơ hồ từ trên một ngọn đồi nhìn xuống, chúng ta đang chứng kiến trước mắt, quang cảnh một ngày làm việc của người nông dân, giữa một cánh đồng bao la, bát ngát. Hai người cùng đứng nhìn với nhau, có thể ghi nhận hai bức tranh hoàn toàn khác nhau.
Cho nên, khi kể lại một giấc chiêm bao, cũng như khi chia sẻ một câu chuyện Huyền sử, mỗi người trong chúng ta đã « thêm mắm, thêm muối, thêm chanh, thêm đường » có sẵn trong kho tàng tâm hồn và kinh nghiệm riêng tư của mình.
Một cách cụ thể, trong những câu chuyện về Thần Kim Qui, nhiều người đã gán cho Thần những câu nói, những nhận xét, những lời phát biểu, những cách đánh giá, thậm chí những ý đồ và tác phong bạo động... Nhưng thực ra, chính cá nhân chúng ta đề xuất những ý nghĩa chủ quan ấy, tùy vào tâm trạng vui buồn, hạnh phúc hay khổ đau hiện tại của chúng ta, cũng như tùy vào bao nhiêu tin tưởng, tập tục và kinh nghiệm, mà chúng ta đã tiếp thu, ghi nhận suốt thời kỳ thơ ấu.
Nói khác đi, khi kể lại một câu chuyện huyền sử, dù muốn dù không, mỗi người đã bắt đầu THUYÊN GIẢI, nghĩa là gán vào đó những ý nghĩa chủ quan, do chính họ sáng tạo, với bao nhiêu nguyên liệu có sẵn trong cuộc đời làm người. Mỗi hình tượng không bao giờ CHỈ có một ý nghĩa. Cho nên, hình tượng là một loại ngôn ngữ đa năng, đa diện, cưu mang nhiều ý nghĩa cùng một lúc. Ngôn ngữ độc lộ, trái lại, được chúng ta sử dụng trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, thường thường chỉ có một ý nghĩa mà thôi.
Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Huyền sử không phải là sở hữu riêng tư của một người. Trái lại, đó là gia bảo của tất cả những ai mang trong mình dòng máu Rồng Tiên. Cho nên, mỗi câu chuyện phải được trình bày, kể ra và chia sẻ với anh chị em từ đời nầy qua đời khác. Nói khác đi, mỗi câu chuyện Huyền sử bao gồm ba loại câu chuyện khác nhau :
- câu chuyện của TÔI,
- câu chuyện của BẠN, là người đang nói chuyện với tôi,
- và câu chuyện của CHÚNG TA, trong đó có ít nhất hai ba người đang cùng nhau ĐI chung một con đường. Đang cùng nhau chọn lựa và quyết định một thực tế hoặc thực tại sinh sống. Và nhất là đang cùng nhau chia sẻ một mối tình yêu thương và gắn bó. ĐANG LÀM NÊN và TRỰC THUỘC MỘT QUÊ HƯƠNG. Nhờ vào quan hệ gắn bó nầy, hai chúng ta - Tôi và Bạn - đang THƯƠNG nhau khi gần nhau, và NHỚ nhau khi xa nhau. Chính mối tình thương nhớ nầy làm cho chúng ta CÓ MẶT với nhau, thậm chí cả những lúc chúng ta VẮNG MẶT. Nói một cách vắn gọn, trong giai đoạn và câu chuyện CHÚNG TA, thực tại và ý nghĩa chủ quan hẹp hòi, một chiều... nhường bước cho ý nghĩa liên chủ quan càng ngày càng mở rộng trong nhiều chiều kích và đường hướng. Cái Tôi ích kỷ, nhỏ bé[6] từ từ biến tan, nhường chỗ, nhường lời cho cái Chúng Ta cao cả và trọng đại, vượt ra ngoài mọi biên cương, bờ cõi của cá nhân chủ nghĩa.
Trong những câu chuyện Huyền sử, những lối nói như Trời và Đại dương, diễn tả con đường thuyên giải mở rộng, vượt ra ngoài mọi biên cương, giới hạn chủ quan ấy. Phải chăng Thần Kim Qui luôn luôn xuất phát từ lòng Đại dương và trở về trong lòng Đại dương, mỗi lần được con cháu Lạc Hồng khấn vái kêu cầu, trong một tình huống khẩn trương và nghiêm trọng ? Thêm vào đó, Trời và Đại Dương không phải là những thực tại Ở TRÊN hay là Ở NGOÀI. Những thực tại bao la, kỳ hùng nầy đang có mặt TRONG tâm hồn của mỗi người Việt Nam, vì họ mang dòng máu Rồng Tiên trong huyết quản.
***
Chìa khóa thứ hai là ba cơ chế kết cấu và hình thành, có mặt trong mỗi hình tượng của câu chuyện Huyền sử
Mỗi hình tượng như Con Rùa Vàng, Đền Tháp Cổ Loa... cưu mang và tập trung trong mình, nhiều hình ảnh và ý nghĩa, có khi rất khác biệt và mâu thuẫn với nhau. Đó là cơ chế Cô Đọng. Chẳng hạn, cái MU trên lưng của Thần Kim Qui vừa tượng trưng Bầu Trời luôn luôn có mặt, trong đời sống và quả tim của Thần. Cái MU ấy cũng là dấu hiệu bên ngoài diễn tả hai loại quan hệ trực thuộc và máu mủ giữa con người của Thần và Mẹ Âu Cơ.
Thêm vào đó, khi cưu mang Trời trong quả tim và cuộc đời, giống như Thần Kim Qui, chúng ta sẽ có hai khả năng « làm người » : một là chuyển hóa mọi yêu tinh ma quái đang tung hoành ngang dọc, trong đời sống xúc động và tình cảm của chúng ta. Khả năng thứ hai là xây dựng Ngôi Nhà Tâm linh, giống như Đền Tháp Cổ Loa, trên mỗi chặng đường tiến hóa của Quê Hương. Ngược lại, khi không có Trời, trong lối nhìn và quả tim, chúng ta sẽ làm cho Đất Nước lạc hậu, thoái trào, trở lui với thời kỳ đồ đá. Không cưu mang Trời trong lòng, chúng ta sẽ hối lộ, tham tàn, ức hiếp anh chị em đồng bào. Hay là chúng ta bán đứng Quê Hưông cho ngoại bang, để lãnh nhận áo quần, vàng bạc, đô la, chức tước, súng ống, bom đạn, kèm theo những tước hiệu đánh giá như « côn đồ, mất dạy, thiếu lương tâm », từ miệng lưỡi của những người đã thực dân và sử dụng chúng ta như con múa rối, trên chính trường quốc tế.
Cơ chế thứ hai, được sử dụng trong ngôn ngữ hình tượng là DỜI CHỖ. Ý nghĩa có mặt trong hình ảnh nầy được di chuyển qua chỗ khác, áp dụng cho một hình ảnh khác. Chẳng hạn Vàng là một kim loại quí giá và được trọng dụng, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ngoài ra, màu vàng trong truyền thống văn hóa của Việt Nam là màu của Trời. Màu của Ánh Sáng. Màu của Nguồn Gốc Sự Sống. Màu của Thời đại Hoàng Kim an bình và thịnh vượng.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, Con Rùa Vàng hay là Thần Kim Qui không phải là ai xa lạ hay là một tin tưởng dị đoan, một hình ảnh hoang tưởng bịa đặt. Đó là hình tượng của một con người đích thực. Đó cũng là một viễn tượng kỳ hùng, một lý tưởng cao đẹp, để kêu mời chúng ta cần vươn tới.
Hẳn thực, khi mỗi người trong chúng ta sống thức tỉnh và ý thức mình đang mang dòng máu của Âu Cơ và Lạc Long Quân, tự khắc chúng ta động viên mình để vươn tới. Chúng ta hóa thân thành Thần Kim Qui, mang Bầu Trời trong tâm hồn và cuộc đời. Đồng thời, chúng ta có khả năng bơi lội trong Dòng Sông Xanh phản chiếu bầu trời, hay là trong lòng Đại Dương bao la, hùng vĩ...
Trong đời sống nội tâm, Trời tượng trưng cho Lối Nhìn của Tư Duy có khả năng soi sáng con đường tìm sự thật, khám phá lẽ phải. Nước, dòng sông hay Đại Dương, trái lại, tượng trưng cho đời sống Xúc Động và Tình Cảm. Chính vì lý do nầy, khi làm chủ hay là hóa giải được đời sống tình cảm, giống như Lạc Long Quân và Thần Kim Qui, chúng ta có khả năng làm nơi nương tựa an toàn cho anh chị em đồng bào. Trái lại, khi bị tràn ngập và tê liệt, trong đời sống xúc động và tình cảm, chính chúng ta sẽ trở nên những ngư tinh, mộc tinh và hồ tinh gây tai ương, hoạn nạn cho mọi người, thậm chí cho những ai mà chúng ta có trách nhiệm nuôi dưỡng, phục vụ, nâng đỡ và hướng dẫn...
Cũng vậy, khi nói đến nỏ thần, hay là thanh kiếm cứu nước, cứu nhà... một cách hình tượng, Huyền sử đã nói đến những khả năng khám phá sự thật và chuyển hóa những khổ đau, trong lòng cuộc đời. Thiếu những kỹ năng nầy, làm sao chúng ta xây dựng Quê Hương, phục vụ anh chị em đồng bào ?
Ngoài hai cơ chế Cô Đọng và Dời Chỗ vừa được trình bày và giải thích, một cơ chế quan trọng thứ ba là Diễn Kịch một cách câm điếc, còn mang tên là Diễn Xuất vô ngôn, không lời. Trong lịch sử của Đất Nước Việt Nam, những thiền sư hay là những nhân vật kỳ lạ mang tên là Ông Trạng thường sử dụng những cách diễn tả không lời nầy. Họ chỉ làm một bộ điệu hay một tác phong bên ngoài, khi có người đến trình bày một vấn đề hay là thỉnh cầu một lời khuyên bảo.
Chẳng hạn, trên đường chạy trốn, Vua An Dương mở lời khấn vái, cầu Trời. Và Thần Kim Qui đã xuất hiện, đứng đối diện với Nhà Vua, không nói, đưa tay chỉ ra đằng trước, hướng về Nhà Vua.
Tức thì sau đó, trong một tình huống hoảng loạn, lo sợ, nghi kỵ, Nhà vua đã sử dụng bạo động với đứa con gái của mình là Mỵ Châu. Ở giữa tình huống bị khổ đau tràn ngập và khống chế tâm hồn, Vua An Dương Vương cũng như chúng ta, có khuynh hướng phản ứng bốc đồng, máy móc, tự động, tuân theo những sức thúc ép của Vô thức, như tố cáo, tìm nạn nhân, qui lỗi, trừng phạt, loại trừ...
Trong câu chuyện Huyền sử, cũng giống như trong một giấc chiêm bao, những nhân vật chỉ diễn xuất. Sau nầy, khi viết lại thành văn bản, các tác giả đã đưa ra những lối thuyên giải riêng tư của mình. Và khi giết đứa con thân yêu của mình, Vua An Dương cũng đã thuyên giải cử chỉ của Thần Kim Qui, theo tâm trạng và lối nhìn của một người đang đánh mất tâm hồn an lạc.
Tôi không phải là tên phù thủy toàn năng, để tự cho mình có khả năng xác định ý nghĩa đích thực trong cử chỉ của Thần Kim Qui lúc ấy. Tôi chỉ khiêm cung đưa ra những câu hỏi gợi ý:
- Việc gì sẽ xảy ra, nếu Vua An Dương thay đổi lộ trình, trở lui Đằng Sau, để đối đầu với Trọng Thủy, đứa con rể của mình, sau phút gặp gỡ với Thần Kim Qui ? Chắc hẳn, khi gặp lại được Mỵ Châu trên đường tìm kiếm, Trọng Thủy sẽ không tự tử, như đã xảy ra trong thực tế của câu chuyện.
- Việc gì sẽ xảy ra, nếu Vua An Dương Vương thuyên giải cử chỉ của Thần Kim Qui, như một lối gợi ý « Hãy nhìn chính mình » ? Hẳn thực, khi có một sự việc xảy ra, tất cả những người có mặt trong cuộc, đều đồng trách nhiệm, trong đó có Vua An Dương Vương.
- Việc gì sẽ xảy ra, nếu chính Vua An Dương Vương đảm nhận trách nhiệm của mình, không lơ là, xao lãng, bỏ bê khả năng thức tỉnh và tin vào kẻ khác, một cách vô điều kiện, để rồi Trọng Thủy đã có cơ hội đánh cắp chiếc nỏ thần ?
- Sau cùng, việc gì sẽ xảy ra, nếu chính khi Thần Kim Qui làm cử điệu « chỉ tay về phía Nhà Vua », thay vì có phản ứng bạo động bốc đồng bột phát, Vua An Dương Vương dừng lại suy nghĩ và hỏi Thần : « Vậy, kính thưa Thần, Trẫm phải làm gì cụ thể ? ». Trước đây, Vua đã hỏi Thần một cách cặn kẻ về việc xây đắp Đền Tháp Cổ Loa, và Thần đã trả lời. Hôm nay, trước một tình thế mới, chắc hẳn Thần cũng sẽ trả lời, hướng dẫn, soi sáng... với tất cả tấm lòng, như trước đây.
Tất cả bao nhiêu nhận xét ấy muốn nhấn mạnh một ý nghĩa, do câu chuyện Huyền sử đề xuất : Thần Kim Qui đang có mặt trong tâm hồn của chúng ta. Nếu chúng ta gọi, Thần sẽ xuất hiện. Nếu chúng ta hỏi, Thần sẽ trả lời. Nếu chúng ta trình bày nhu cầu, Thần sẽ đáp ứng. Thần Kim Qui không phải là ai khác, ngoài con người thức tỉnh, có khả năng nhìn thấu suốt, với trăm con mắt, đang hiện diện trong chúng ta, với chúng ta. Thần là Biển. Thần là Trời. Thần là người bạn. Và Thần cũng là Vị Thầy, nếu chúng ta muốn học. Thần là Ánh Sáng, nếu chúng ta muốn tìm con đường giải thoát.
« Hãy gọi Biển về, lòng ai thao thức sóng vỗ.
« Hãy lắng nghe Trời, khi cuộc đời đầy giông tố.
« Giữa bão táp, hồn Đại Dương vẫn lặng.
« Ngày sương mù, lòng Trời cao cứ nắng ».
Chìa khóa thứ ba là BA CHUẨN MỰC, trong vấn đề thuyên giải những câu chuyện Huyền sử.
Trong nhiều tác phẩm đã được xuất bản, từ năm 1994,[7] như « Khung Trời Mở Rộng , Đồng Cảm để Đồng Hành, Sơn Tinh và Thủy Tinh : hai con đường, một Nước Non »... tôi đã trình bày ba tiêu chuẩn hay là ba chuẩn mực do Phân Tâm Học đề nghị, nhằm thuyên giải mọi giấc chiêm bao hay là những câu chuyện Huyền sử.
- Chuẩn mực thứ nhất là EROS, Tình Thương Vô Điều Kiện trong lối nhìn về mình và về người khác.
- Chuẩn mực thứ hai là ANANKÉ, Thực tế tất yếu là qui luật, là con đường cần khám phá và noi theo, mỗi khi chúng ta cần đánh giá một hoàn cảnh, một tình huống.
- Chuẩn mực thứ ba là THANATOS, từ bỏ những con đường vong thân vong bản, sau khi đã chọn lựa con đường tất yếu kết dệt bằng Tình Anh Em đồng bào, Tình Nước tình Non.
Đó là những tiêu chuẩn của câu chuyện CHÚNG TA - mà tôi đã nói tới trên đây - có khả năng nối kết những chủ thể biết ngồi lại với nhau, lắng nghe nhau, tìm hiểu nhau và đồng cảm với nhau, để có thể đồng hành, trên những nẻo đường xuôi ngược của Quê Hương. Nói khác đi, khi đã chọn lựa con đường Yêu Thương, chúng ta không còn lo sợ. Con đường tất yếu của những ai mang dòng máu Rồng Tiên là cùng nhau xây dựng những quan hệ hài hòa và bổ túc « Tôi thắng, Bạn thắng, Chúng Ta cùng thắng với nhau. Chúng ta sinh thành, xây dựng, nuôi dưỡng nhau ». Và khi đã NHẤT TÂM, một lòng như vậy, chúng ta không thể không từ bỏ những tư duy độc lộ, những lối nhìn một chiều, những quan hệ thống trị Tao hơn-Mày thua.
[1] THÁI ĐẮC XUÂN - 100 Truyện cổ tích Việt Nam - Nhà Xb Hà Nội, 2000, tr. 383 số 82.
[4] FERAY YVELINE - Vạn Xuân - dịch giả : NGUYỄN KHẮC DƯƠNG - Nhà Xb Văn Học và Sudestasie 1996, tr. 1000.
[5] NGUYỄN VĂN THÀNH - Đường vào Nội Tâm, với Phân Tâm Học - Lausanne, Tình Người 1997.
[6] "Cái tôi nhỏ bé, hẹp hòi và thiển cận, chỉ phản ứng" ngược lại với "cái Bản Thể cao cả, đại lượng, biết nhìn xa thấy rộng và sáng tạo". Bên này là "the Ego" trong tiếng Anh, và bên kia là "the Self", trong tiến trình làm người, từ giai đoạn lệ thuộc, ấu trĩ đến giai đoạn trưởng thành, có tinh thần liên đới, đồng trách nhiệm với tha nhân
[7] NGUYÊN VĂN THÀNH
- Khung Trời Mở Rộng - Lausanne, Tình Người, 2000.
- Đồng Cảm để Đồng Hành - Lausanne, Tình Người, 2003.
- Sơn Tinh và Thủy Tinh : hai con đường, MỘT Nước Non - Lausanne, Tình Người, 2003.