Phần thứ hai :
Vai trò BẮC CẦU của mỗi người
trên con đường xây dựng và phát huy Đối Thoại
Đầu năm 2003, tôi đã phát hành một cuốn sách dài hơn 250 trang, mang tựa đề « Đồng Cảm để Đồng Hành ».[1] Trong tác phẩm nầy, tôi đã trình bày những động tác cụ thể cần thực hiện, mỗi lần chúng ta chọn lựa thái độ « Đồng Cảm » với tha nhân, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hẳn thực, không có khả năng Đồng Cảm giữa người với người, Đối Thọai chỉ là chuyện ba hoa chích chòe, lý thuyết, viễn mơ, hay là quảng cáo, tuyên tuyền láo khoét mà thôi.
Khả năng Đồng Cảm xuất hiện rất sớm, trên tiến trình giáo dục, làm người và thành nhân. Chung quanh hai tuổi rưỡi, một đứa bé khi nhìn vào đôi mắt của Mẹ, đã có thể cảm nghiệm : Mẹ đang sung suớng hay là khổ đau trong tâm hồn ? Mẹ lo sợ, tức giận, cấm đoán ? Hay là Mẹ bằng lòng cho mình đi ra dạo chơi chung quanh vườn nhà.
Không có khả năng Đồng Cảm như vậy, làm sao chúng ta có thể nhận ra rằng : Khi một người lên tiếng tố cáo, chưởi bới, mạt sát chúng ta, cũng như khi họ trầm luân, chìm đắm trong hận thù, bạo động, sát hại chúng ta, nhốt chúng ta vào tù và tìm mọi cách hành hạ chúng ta... chính người ấy đang giam hãm mình trong khổ đau tràn trề lai láng. Có lẽ, suốt cả cuộc đời, từ ngày sinh ra, họ chưa bao giờ được ai thương. Chưa được ai dạy dỗ cho họ biết đồng cảm với kẻ khác. Phải chăng tôi là người đầu tiên, với thái độ đồng cảm, cho phép người ấy cảm nghiệm được thế nào là thương yêu và được người khác thương yêu, một cách thực sự và trọn vẹn, theo như ý nghĩa « cho ra và nhận lại », một cách vô điều kiện ?
Thêm vào đó, khi một người sống trong khổ đau trầm trọng, từ ngày này qua ngày khác, họ trở nên lạnh lùng, chai đá, mù quáng. Họ có mắt, nhưng họ không còn thấy. Họ có tai, nhưng họ không còn nghe. Họ có một con tim như chúng ta. Nhưng con tim ấy đã bị đầu độc từ bao nhiêu ngày tháng.
Tôi đã làm việc trong ba mươi năm, với những bà mẹ có đứa con chậm trí, chậm phát triển. Ít nhất, trong những ngày tháng đầu tiên, khi vừa mới gặp phải một biến cố bất ngờ như vậy, họ đớn đau, tê tái, kiệt quệ, cơ hồ mọi tai họa trong trời đất nầy đều đổ xuống trên đầu óc và cuộc đời của họ. Cho nên, giữa tình huống khổ đau, kinh hoàng và tê liệt như vậy, họ không còn biết nhìn con, nuôi con, bi bô, thỏ thẻ chuyện trò với con. Với đứa con mang khuyết tật, họ đánh mất mọi khả năng đã học tập. Họ không còn làm được những gì họ đã làm với những đứa con khác.
Cũng giống hệt như vậy, khi hai người đang sống những xung đột nghiêm trọng, cả hai đều trầm luân trong khổ đau. Họ chưới bới, mạt sát lẫn nhau, với những lời lẽ bỉ ổi thậm tệ. Cả hai giành nhau nói cùng một lúc. Cho nên, không ai lắng nghe ai, để nhận biết người bên kia có những nhu cầu và sở nguyện như thế nào. Và cứ như vậy, vấn đề kéo dài, từ ngày này qua ngày khác và không bao giờ được giải quyết, một cách thỏa đáng.
Khi đối mặt với những tình huống khổ đau của người khác, như tôi vừa phác họa trên đây, chúng ta có trách nhiệm làm những gì có khả năng làm, trong điều kiện hiện tại, để bầu khí quan hệ giữa người và người đã ô nhiễm, bị đầu độc, không còn ô nhiễm thêm lên mỗi ngày.
Thứ nhất, điều chúng ta cần làm là không thinh lặng đồng lõa, đứng chứng kiến một cách thụ động.
Thứ hai, chúng ta không « đổ thêm dầu vào lửa », bằng cách ủng hộ, vuốt đuôi, về phe người nầy và tố cáo, đá đảo phía bên kia.
Trong môi trường văn hóa của Quê Hương, Tổ Tiên và Cha Ông chúng ta đã đề nghị những cách làm quan trọng như sau :
- Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát TRÌ ĐỊA : ngày ngày đi nối lại những con đường hư đã làm gián đoạn giao thông và liên lạc. Chúng ta hãy dốc toàn lực, cố quyết nối lại khắp đó đây những nhịp cầu Hiểu Biết và Đồng Cảm. Chúng ta BẮC CẦU, cho bờ bên nầy gặp lại bờ bên kia, nói chuyện trao đổi với nhau, trong an hòa và tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ cho nhau niềm đau và nỗi khổ của mình.
- Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát THƯỜNG BẤT KINH : trên mọi nẻo đường của Quê Hương, gieo rắc niềm tin, tinh thần tự lực tự cường. Đi đâu, chúng ta cũng rỉ tai cho mọi người biết rằng : họ có đủ khả năng để bước tới với mọi người, như mọi người. Ai ai cũng hãy tin ở sức mình. Giải trừ những mặc cảm tự ti, bất lực. Bỏ lại đằng sau những cảm nghiệm tội lỗi, phản bội, bán nước, hại dân. Kỳ thực, nếu chúng ta đã lầm lỡ, chúng ta dựa vào đó, để rút ra những bài học, những kinh nghiệm. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là sai lầm. Nó sẽ biến thành một cơ may, để thăng tiến bản thân và phục vụ anh chị em đồng bào. Hãy cùng nhau đốt lên một que diêm, trước khi chờ đón một rừng đuốc. Hãy đổ một giọt mồ hôi, thay vì đứng hô hào những chiến dịch, bằng mồm miệng. Trao cho bà con thôn xóm một nụ cười chân tình và thân ái, thay vì rao giảng ồn ào về Tình Anh Em bốn bể một nhà.
- Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát ĐỊA TẠNG : muốn có mặt khắp muôn nơi. Bước chân đến những chốn nhiều khổ đau nhất của Đất Nước. Chừng nào địa ngục chưa trống không, chúng ta còn ở lại đó, để ĐỒNG CẢM và hoạt động. Với chúng ta, những con đường còn bùn lầy nước đọng hôm nay, mai ngày sẽ trở thành con đường Yêu Thương và Hiểu Biết.
- Chúng ta hãy bắt chuớc Bồ Tát QUAN THẾ ÂM : Lắng nghe tiếng kêu đau thương của anh chị em Đồng Bào, để sẵn sàng tới với họ, bằng mọi cách, trong bất cứ một hình hài nào : một em bé, một nhà văn, một bà mẹ nội trợ... một người lãnh đạo Đất Nước « chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».
Tất cả bốn công việc : « Lắng nghe, Đồng cảm, tạo nhịp cầu cho hai phe gặp gỡ và trao đổi với nhau, nhìn nhận nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mỗi người », mang tên là BẮC CẦU, LÀM TRUNG GIAN, trong khoa học Tâm Lý Xã Hội, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba.[2]
Công việc Bắc Cầu ấy bao gồm những động tác cụ thể như sau :
Thứ nhất là có mặt ở giữa : tạo điều kiện thuận lợi, cho hai người hoặc hai phe xung đột trình bày và xác định vấn đề của mình. Người bắc cầu đề xuất những tiến trình và qui luật, để hai bên lần lượt trình bày trong trật tự và an hòa quan điểm chủ quan của mình. Trong giai đoạn xác định vấn đề, trách nhiệm của người bắc cầu là giúp cho cả hai phía « môi trường hóa » những thông tin và ý kiến của mình : Cái gì ? Ở đâu ? Khi nào ? Thế nào ? Với ai ?...
Những qui luật cần được cả hai phía tôn trọng một cách nghiêm chỉnh là :
- Qui luật một : sử dụng ngôi thứ nhất « Tôi », để nói về mình. Thay vì dùng ngôi thứ hai, để kết án, tố cáo. Nhìn mình như vậy để ý thức về mình, trước sự chứng kiến, của người bắc cầu và người thuộc phe bên kia.
- Qui luật thứ hai là lắng nghe một cách nghiêm chỉnh và cẩn trọng, đồng thời tìm hiểu, khi kẻ khác nói ra nỗi lòng bức xúc và khổ đau của mình. Xuyên qua cách làm như vậy, người bắc cầu chính là nơi gặp gỡ, và điểm hội tụ.
- Cho nên, qui luật thứ ba là hai phe xung đột không có phép nói trực tiếp với nhau. Họ chỉ nói, xuyên qua người trung gian, giải thích, trình bày cho người trung gian, theo những thể thức và qui luật đã được ấn định với người trung gian. Nếu có trường hợp người bên nầy cắt lời và phản đối người bên kia, vai trò và trách nhiệm của người bắc cầu là nhắc lại qui luật thứ ba nầy: Ông đã nói trong 5 phút. Bây giờ, đến lượt Bà, Bà cũng có quyền nói trong vòng 5 phút. Tiếp sau đó, Ông cũng sẽ phát biểu trở lại... Không ai cắt lời của ai.
Thứ hai là nêu ra những câu hỏi xúc tác : dựa vào đó, người nói có thể dễ dàng phát biểu những xúc động như buồn, lo, tức giận, thất vọng, bất mãn... của mình, ngoại hiện một cách đầy đủ tất cả những tình huống đang trấn áp nội tâm.
Thứ ba là chuyển hóa những xúc động thành NHU CẦU. Ví dụ : Khi Ông, Bà nói như vậy, Ông, Bà cảm thấy mình có những xúc động gì ? Khi diễn tả nỗi niềm bực tức, như Ông Bà vừa làm, Ông Bà có những nhu cầu cần phải thỏa mãn là những gì ?
Thứ bốn là xúc tác tinh thần TRÁCH NHIỆM. Người bắc cầu không làm thay, làm thế. Chính những người trong cuộc chọn lựa và quyết định về phương thức và chiều hướng giải quyết vấn đề của mình. Khác với người trọng tài, người bắc cầu không làm công việc giàn hòa. Người bắc cầu cũng không đưa ra những đề nghị hoặc áp đặt từ ngoài hay từ trên những lời khuyên.
Nói tóm lại, người bắc cầu chỉ làm công việc xúc tác, với sự có mặt « vô công, vô vi và vô tư của mình ». Chính những người hoặc phe phái, trong vụ xung đột, mới là những tác nhân năng động, tìm ra con đường chuyển hóa bản thân và sáng tạo những phương hướng giải quyết vấn đề của mình.
***
Nhằm kết luận, tôi xin kể ra một câu chuyện :
Hôm ấy, có một nông phu ở Xứ Ngoài muốn vào Xứ Trong làm ăn. Truớc khi ra đi, ông đã đến tham vấn một Thiền sư đang cư ngụ trong vùng.
Chàng nông phu vào đề :
- Thưa Sư Ông, con sắp vào Xứ Trong làm ăn. Sư Ông đã đi khắp đó đây, từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam. Xin làm ơn cho con hay : Người Xứ Trong dễ thương hay dễ ghét ?
Thiền sư hỏi lại :
- Cho đến bây giờ, trong xóm làng của Anh, những người anh đã tiếp xúc trong công việc và đời sống hằng ngày, có thái độ thế nào đối với anh ? Họ dễ thương hay dễ ghét ?
- Thưa Sư Ông, ai ai cũng dễ thương với con.
- Thế thì ở Xứ Trong cũng vậy, Thiền sư trả lời, mọi người cũng sẽ dễ thương với anh, như ở quê làng của Anh.
Một vài tuần sau, một chàng nông phu khác cũng đến tham vấn Thiền Sư :
- Thưa Thầy, con quyết định vào Xứ Trong lập nghiệp. Xin Thầy chỉ bảo cho con biết : Người trong ấy có tính tình thế nào, theo cách nhận xét và kinh nghiệm của Thầy ?
Thiền sư hỏi lại :
- Theo kinh nghiệm và nhận xét của Anh, người trong quê làng hiện nay của anh có tính tình như thế nào ? Dễ ghét hay dễ thương ?
- Thưa Thầy, ai ai cũng dễ ghét và khó chịu. Cho nên con muốn ra đi, cho khuất mặt, khuất lòng.
- Thế thì tôi sợ rằng, Thiền sư trả lời, người ở Xứ Trong chắc cũng sẽ rất dễ ghét và khó chịu, giống như người ở quê nhà của mình.
Cuối ngày hôm ấy, một chú tiểu độ mười hai tuổi, đến lẩn quẩn bên cạnh Thiền Sư. Thiền sư hỏi :
- Hình như con có điều chi khó chịu, trong mình con, phải không ?
Chú tiểu thưa lại :
- Kính thưa Sư Ông, cách nhau hai tuần, hai người thanh niên đến hỏi Sư Ông một câu hỏi hoàn toàn giống nhau. Thế mà con nghe Sư Ông trả lời cho người thứ nhất : Người Xứ Trong rất dễ thương. Với người thứ hai, trái lại, Sư Ông trả lời : Người Xứ Trong rất dễ ghét và khó chịu. Thưa Sư Ông, con nghe như vậy, con không hiểu Sư Ông muốn nói gì. Con đang lo : Sư Ông có mắc bệnh gì không.
Sư Ông mỉm cười và dịu dàng dạy cho chú tiểu :
- Tâm con làm sao, thì cách con nhìn cũng sẽ như vậy.
Tôi không biết chú tiểu đã hiểu Sư Ông thế nào. Phần tôi, tôi cảm nghiệm rằng : khi tôi cố quyết làm người, tôi sẽ thấy phẩm giá làm người, trong mọi người, khi họ tiếp xúc, trao đổi, chuyện trò với tôi, thậm chí những người có tác phong bên ngoài rất hằn học, tố cáo, hung bạo đối với tôi.[3]
Nói cách khác, khi tôi ngày ngày học tập, tôi luyện để phát huy chất liệu đối thoại trong bản thân và cuộc đời của mình, mọi người, bất kể là ai, người xấu hay kẻ tốt, người thương tôi hay kẻ ghét tôi, người bao bọc che chở cho tôi, cũng như người ác độc, tìm cách sát hại tôi... tất cả mọi người đều là cơ may quí hóa, giúp tôi thực tập bài học đối thoại, trong lòng Quê Hương và cuộc đời làm người.[4]
***
Chương Tám
Con Đường Luyện Vàng
1. Khi nhìn lại cuộc đời của mình, tôi có thể phân biệt ba giai đoạn vừa đối kháng vừa bổ túc lẫn nhau :
Thứ nhất, từ 20 đến 40 tuổi, tôi ấp ủ hoài bão cải hóa con người và thay đổi bộ mặt của thế giới. Tôi muốn thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện cho bản thân và cuộc đời. Theo lối nhìn của tôi vào thời kỳ ấy, nếu điều kiện môi trường xã hội bắt buộc, tôi sẵn sàng dấn bước vào con đường xung đột, bạo động, hận thù, đổ máu và chiến tranh... miễn là ý đồ thành đạt và mang lại những thành quả mong muốn.
Thứ hai, từ 40 đến 60 tuổi, tôi đã dần dần thu hẹp những ước mơ và mộng tưởng của mình. Cuối cùng tôi chỉ giữ lại một tham vọng độc nhất là thay đổi vợ con và một vài bạn bè thân tình, thiết cốt mà thôi.
Thứ ba, từ 60 tuổi trở đi, sau bao nhiêu khổ đau chồng chất, thất bại ê chề và nhiều tác phong phản bội, trong cuộc đời lý tưởng cũng như trong quan hệ trao đổi và tiếp xúc giữa người với người... tôi đã mở mắt bừng sáng về khả năng thực sự của mình : Tôi chỉ có thể chủ động chuyển hóa chính con người của tôi mà thôi. Khu vườn mà tôi có thể vun trồng tưới bón một vài bông hoa, để hiến tặng cho đời và những ai lại gần tôi, đó là tâm hồn của tôi. Không khởi sự từ nơi đây, tôi chỉ làm con keo vẹt, hô hào, cổ động, chiêng trống rùm beng, thanh la chũm chọe. Tệ hại hơn nữa là tôi sử dụng bom đạn hận thù, cưỡng bức và chiến tranh... để đòi buộc kẻ khác phải « cải hóa và qui thiện », giống như tôi, theo ý của tôi, đúng như mẫu thức do tôi áp đặt từ trên, từ ngoài, một cách đơn phương, độc tài và độc đoán.
Chính cách « đặt vấn đề », « thấy vấn đề » và « giải quyết vấn đề », một cách độc lộ, một chiều như vậy, là một vấn đề nan giải và bế tắc triền miên, có mặt khắp nơi, trong thế giới ngày hôm nay.
Cuối cùng, không một ai đón nhận và chấp nhận « ý đồ thực dân » của tôi, được ngụy trang ở dưới một bộ mặt « đầy thiện chí và thiện tâm ».
2. Từ những kinh nghiệm đau thương ấy, tôi đã chọn làm của mình lời khấn nguyện của thi sĩ Reinbold Niebuhr được trích dẫn trong cuốn sách của tác giả bác sĩ tâm thần B. Burns:[5]
« Xin cho tôi có lòng thanh thản và bình tâm để chấp nhận những gì tôi không thể thay đổi.
« Xin cho tôi có lòng can đảm để chuyển hóa những gì tôi có khả năng và trách nhiệm chuyển hóa.
« Xin cho tôi có lòng khôn ngoan để phân biệt một cách sáng suốt điều nào tôi có thể thay đổi và điều nào thoát ra ngoài khả lực hiện thực của tôi. »
Hẳn thực, mỗi lần khảo sát vấn đề thay đổi, chuyển biến trong cuộc sống làm người, tôi không thể không nêu lên một loạt câu hỏi đan chéo chằng chịt vào nhau :
- Tôi thay đổi cái gì ?
- Tôi thay đổi để làm gì ?
- Tôi thay đổi bằng cách nào ?
- Tôi thực hiện công cuộc thay đổi ấy khi nào, ở đâu, với ai, bao lâu ?
- Trường hợp cái hại lấn áp và khống chế cái lợi, trong tiến trình thay đổi ấy, tôi cần lấy quyết định như thế nào ? Sáng suốt dừng lại ? Vẫn ngoan cố tiếp tục ? Hay là chuyển hóa mục tiêu, bằng cách CHỌN LỰA lại một con đường hợp tình hợp lý, linh động và hài hòa, có người và có tôi đồng lòng và hợp ý với nhau ?
Trong lời khấn nguyện của R. Niebuhr, năm bước đi lên ấy được gói ghém trọn vẹn trong lối nói « Lòng Khôn Ngoan ». Đây là ngọn hải đăng có khả năng hướng dẫn và soi sáng những con thuyền đang lênh đênh trên biển cả đầy sóng gió. Một lòng khôn ngoan đa năng, đa diện và hữu hiệu như vậy, chỉ phát huy và triển nở được trong một tâm hồn thanh thản và an lạc, luôn luôn tỉnh thức và bao quán về những đường đi và nẻo về của mình, trong lòng cuộc đời ba chìm bảy nổi tám lênh đênh. Thêm vào đó, lòng khôn ngoan ấy cũng là động lực thúc đẩy chúng ta can trường bước tới, vượt qua mọi trở ngại, trên bất cứ giai đoạn nào, thuộc tiến trình làm người.
Hẳn thực, chừng nào chúng ta có khả năng thay đổi tất cả những gì chúng ta có trách nhiệm phải thay đổi, để ngày hôm nay trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn ngày hôm qua, lúc bấy giờ chúng ta đang trở thành người LUYỆN VÀNG, theo lối nói của văn hào Paulo Cuelho. Tất cả mọi quặng sản như đồng, chì, sắt, thép... sẽ chuyển biến thành Vàng nguyên chất, khi tiến vào trong quĩ đạo sinh sống và hoạt động của chúng ta.[6]
3. Cũng chính vì lý do và ý hướng nầy, Kinh Dịch phân biệt hai loại biến chuyển khác nhau : Một là những chu kỳ thay đổi trong các hiện tượng tự nhiên của trời đất, vũ trụ. Hai là những con đường vươn lên, hướng thượng, chuyển hóa trong cuộc sống thành người. Hẳn thực, những đổi thay như nắng mưa, ngày đêm, nóng lạnh... là định luật tự nhiên, tất yếu của đất và trời. « Mai mưa, trưa tạnh, chiều giông » là lẽ thường tình của khí hậu, do nhiều yếu tố tác động và ảnh hưởng qua lại hai chiều, theo định luật nhân sinh ra quả, quả trở lại chi phối nhân.
Bản sắc và sứ mệnh của con người, trái lại, là làm chủ cuộc đời. Từ ngày sinh ra cho đến khi lìa đời, con người không ngừng sáng tạo, chuyển hóa, thăng tiến bản thân của mình. Đồng thời, chúng ta có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi, để người anh chị em hai bên cạnh cũng có khả năng tiến hóa, vươn lên như chúng ta và với chúng ta. Nghĩa là ngày ngày trở thành con người có Văn Hóa. Có khả năng chuyển biến cuộc đời và bản thân mình thành một cánh đồng phì nhiêu. Ngày ngày kết sinh mùa màng và hoa lợi. Mang lại hạnh phúc và ấm no, trên hai bình diện vật chất và tinh thần, cho chính mình và những người anh chị em khác, cùng chung sống hai bên cạnh.
Con đường luyện vàng ấy không thể được áp đặt hoặc chỉ đạo từ bên trên hoặc bên ngoài. Nó được cưu mang, ấp ủ và phát sinh ở bên trong nội tâm của mỗi người. Rồi từ đó, toát ra bên ngoài, trong các địa hạt khác, thuộc môi trường sinh thái chung quanh.
4. Để trở nên hữu hiệu, nghĩa là có khả năng tạo ra những thành quả cụ thể, vững bền, trên con đường luyện vàng nầy, theo cách hướng dẫn của tác giả Stephen R. Cover, chính con người của chúng ta cần kinh qua một tiến trình bao gồm 7 giai đoạn, giai đoạn trước chuẩn bị và tạo điều kiện « hộ sinh » cho giai đoạn sau :[7]
- Thứ nhất : Chủ động và sáng tạo, thay vì bị động và phản ứng một cách máy móc, bốc đồng trước những kích thích của ngoại cảnh.
- Thứ hai : Xác định mục đích tối hậu, trước mỗi kế hoạch hành động. Nói cách khác, lý tưởng của đời tôi là gì ? Chí hướng soi đường chỉ lối cho tôi, bao gồm những giá trị nào, nhất là khi tôi trải qua những giai đoạn bão bùng giông tố ?
- Thứ ba : Làm việc với những mục tiêu cụ thể, được đánh giá kỹ càng và xếp đặt thành ưu tiên 1, 2, 3..., để từ từ tiến lên, theo kế hoạch « kiến tha lâu đầy tổ » hay là « cháo nóng húp quanh ».
- Thứ bốn : Phát huy một loại quan hệ tích cực, xây dựng và hài hòa, « Tôi Thắng-Người Thắng », khi trao đổi và tiếp xúc với người khác, trong bất cứ giai đoạn và địa hạt sinh hoạt nào.
- Thứ năm : Học hỏi, lắng nghe, tìm hiểu quan điểm của người khác ở trên hay ở dưới, ở ngoài hay ở trong... thay vì đơn phương áp đặt lập trường và quan điểm chủ quan của mình, một cách độc tài, độc đoán.
- Thứ sáu : Người và tôi khác nhau, trong quan điểm, nhận thức, quyền lợi và kinh nghiệm. Nhưng quyền khác biệt ấy cần được nhìn nhận và tôn trọng một cách nghiêm minh. Nhờ đó, người và tôi có thể bổ túc, kiện toàn phát huy và làm phong phú cho nhau, trên con đường làm người và thành người.
- Thứ bảy : Ngày ngày đánh sáng và mài nhọn lại sáu phương thức luyện vàng trên đây, cho đến lúc tròn đầy và nhuần nhuyễn.
Thực ra, con đường luyện vàng nầy không thể nào có điểm chấm dứt. Ngày ngày chúng ta quyết định lại. Chọn lựa lại, như ngày đầu tiên. Làm mới lại từng bước đi lên, đúng như lời người xưa đã căn dặn : « Nhật tân. Nhật nhật tân. Hựu nhật tân ». Mỗi ngày, tôi đổi mới con người của tôi. Đổi mới không ngừng. Đổi mới toàn diện, trong mỗi lời ăn, tiếng nói, hành vi và thái độ. Đổi mới trong quan hệ tiếp xúc và trao đổi với người khác. Đổi mới trong tâm tình và ý nguyện.
Một cách đặc biệt, con đường đổi mới và luyện vàng ấy phải bắt nguồn và phát khởi từ lối nhìn của mỗi người. Của tôi, của Anh, của Chị. Bao lâu chưa có cuộc đổi mới tận gốc tận ngọn ở nơi đây, mọi đổi mới khác cho dù được hô hào hoặc đánh bóng đến độ nào chăng nữa, cũng chỉ là bì phu, giả hiệu, « sơn son thếp vàng » ở bên ngoài mà thôi.
5. Lối nhìn, trong cách dùng từ ngày nay, còn mang nhiều danh hiệu khác như : Thể thức nhìn đời, lề lối nhận thức, quan điểm, cách thuyên giải thực tế, vũ trụ quan...
Nói một cách đơn sơ, dễ hiểu, vừa tầm của người bình dân, lối nhìn của một người bao gồm tất cả những gì người ấy diễn tả, phát biểu, bộc lộ ra ngoài, để trả lời ba loại câu hỏi như sau :
- Tôi là ai ?
- Người đang chung sống hoặc tiếp xúc với tôi là ai ?
- Thực tế và thực tại, với bao nhiêu sự việc hoặc sự kiện ngày ngày xảy ra trước mắt tôi, có ý nghĩa gì cho cuộc đời làm người của tôi ? Những sự việc ấy có mang lại hạnh phúc cho cuộc đời làm người của tôi không? Hay đó chỉ là ngục tù giam hãm, tạo ra cho tôi những tình huống khổ đau, bất hạnh và bệnh hoạn ?
Sau đây là một vài ví dụ về lối nhìn :
- Câu hỏi thứ nhất : Tôi nhìn tôi như thế nào ? Tôi có xu thế trả lời : Tôi đúng, kẻ khác sai. Tôi tốt, kẻ khác xấu. Mỗi lần có một hư hỏng, sai lầm xảy ra trong môi trường, tôi thấy tôi là người hoàn toàn trong trắng và vô tội. Thủ phạm hay là tội nhân là một ai đó khác tôi, không phải là tôi, đang sống cùng với tôi. Ngoài những điều hoàn toàn tiêu cực ấy, còn có một lối nhìn nào khác tích cực và xây dựng không ? Khi khẳng định mình, phải chăng tôi cũng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ những người khác có khả năng khẳng định con người và bản thân họ giống như tôi ?
- Câu hỏi thứ hai : Người trước mặt tôi là ai ? Họ phải làm những gì ? Mỗi lần tôi nói, tôi đòi hỏi mọi người phải lắng nghe, chú ý. Nhưng khi có một ai khác đề xuất một ý kiến, nêu lên một quan điểm... Tôi không đón nhận. Tôi không lắng nghe để học hỏi, tìm hiểu. Trái lại, tôi chỉ sẵn sàng lên án, phê phán, kết tội, vạch lá tìm sâu, nhấn mạnh những thiếu sót và sai lầm. Một cách đặc biệt, khi có những khác biệt giữa tôi và người khác, trong lề lối nhận thức và lập trường tư tưởng, tôi đã chuyển biến những điểm khác biệt ấy thành đề tài tranh chấp, xung đột, bạo động và hận thù. Thay vào những cách làm ấy, tôi có thể sáng tạo những hướng đi nào khác có tính xây dựng và an hòa hơn không ?
- Câu hỏi thứ ba : Thực tế và thực tại đang xảy ra và biến chuyển thường xuyên trong môi trường sinh thái bao quanh tôi, như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, mang lại cho bản thân và cuộc đời làm người của tôi, những ý nghĩa tích cực hay tiêu cực, thăng tiến hay suy đồi, bao la mở rộng hay là hẹp hòi, ngột ngạt ? Những ý nghĩa ấy do tôi chủ động sáng tạo ? Hay là tôi chỉ là nạn nhân của thời cuộc ? Một con múa rối, do bàn tay lông lá của người khác lèo lái, chỉ huy và điều động ?
Những lối nhìn, mà tôi vừa đề xuất một cách sơ phác, trong một vài ví dụ cụ thể, đang tạo lập, ở bên trong nội tâm của tôi một loại bản đồ tâm linh, để hướng dẫn và soi sáng mọi đường đi nẻo về của tôi, trong lòng cuộc đời.
Tuy nhiên, tấm bản đồ ấy không phải là thực tế và thực tại khách quan bên ngoài. Không phải là xứ sở và quê hương đích thực của tôi. Xuyên qua một vài đường nét thô thiển và giản lược tối đa, nó giúp tôi hình dung những con đường phải chọn lựa, những trở ngại cần đề phòng.
Việc gì sẽ xảy ra, nếu tôi đi tìm đường ở Thành Phố Sài Gòn, với một bản đồ của Thủ đô Hà Nội hay là của Thành Phố Huế ? Cho dù tôi đã tìm mọi phương tiện, để thay đổi thái độ, tác phong, tâm tình... tôi vẫn đi lầm đường, tìm không ra địa chỉ, bao lâu tôi không rà soát hay là kiểm điểm lại tấm bản đồ đang điều khiển và lèo lái mọi đường đi nẻo về của tôi.
6. Trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa tôi và người anh chị em đồng bào, trong lòng quê hương, phải chăng tôi cũng đang sử dụng những loại bản đồ đã lỗi thời, lạc hậu như vậy ?
Bao nhiêu khổ đau đang còn tràn lan, lây lất khắp đó đây, phải chăng vì chúng ta chưa thay đổi tấm bản đồ nội tâm của chúng ta về người anh chị em ?
Phải chăng chúng ta đã biết can đảm ngồi lại với nhau, để giúp nhau làm mới lại, cập nhật hóa lối nhìn của chúng ta về mình, về người khác và về thực tế, thực tại bao quanh chúng ta ?
Trong quá khứ xa và gần của Đất Nước và Dân Tộc, những nét khác biệt đương nhiên tất yếu, giữa chúng ta và người anh chị em hai bên cạnh, đã phát sinh những tình huống hận thù và xung đột, bạo động và chia rẽ. Thời gian đã trôi qua. Nhưng vết thương lòng vẫn còn đớn đau và rướm máu. Chính ngày hôm nay, đúng như lời cảnh giác của Tổ Tiên và Cha Ông, chúng ta vẫn còn sắp hàng thành hai phe Sơn Tinh và Thủy Tinh, để làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ».[8]
Thay vì dồn nén, ức chế, ngoảnh mặt làm ngơ, giả vờ như « không có, không thấy, không nghe, không cảm », chúng ta hãy can trường nhận diện và đối diện với lối nhìn đang tác yêu tác quái trong tâm hồn và cuộc đời. Nỗi lo sợ đang khống chế và xuyên tạc một cách trầm trọng, tấm bản đồ tâm linh của chúng ta. Nó dẫn đầu một đoàn tùy tùng dài thòng lòng bao gồm những tư tưởng nhị nguyên như « tao tốt, mầy xấu »... những tư duy độc lộ như « chỉ có tôi mới có toàn quyền sở hữu về chân lý ». Bạo động, hận thù, chia rẽ và chiến tranh dưới mọi hình thức... chỉ là sản phẩm của loại bản đồ « LO SỢ » nằm sâu trong những tầng lớp dày đặc của tâm hồn.
7. Thể theo nhận định của những tác giả như Louise L. Hay, John Gray [9]... chỉ có CON ĐƯỜNG LUYỆN VÀNG, làm bằng Tình Yêu và Lòng Thứ Tha vô điều kiện, mới có khả năng khai thông những tình trạng bế tắc được nói tới trên đây. Chỉ có con đường Luyện Vàng nầy mới có khả năng hàn gắn và chữa lành mọi vết thương lở lói và nhức nhối, trong lòng Quê Hương và Nhân Loại.
Trên con đường luyện vàng nầy, thể theo câu nói của tác giả G.G. Jampolsky :[10]
« Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên, Tình Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một vấn đề gì xuất hiện, Tình Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành, Tình Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một nỗi đớn đau nào đang tiến lại, Tình Yêu là câu trả lời.
« Bất kỳ một xúc động sợ hãi nào đang trào dâng, Tình Yêu là câu trả lời.
« Tình Yêu luôn luôn là câu trả lời trong mọi tình huống, vì chỉ có Tình Yêu là TẤT CẢ. »
8. Không cưu mang « Tình Yêu và Lòng Tha Thứ » trong cung dạ của mình, liệu chúng ta sẽ có gì, để có thể mang đi hiến tặng cho người anh chị em đồng bào, hai bên cạnh chúng ta ? Không có hành trang « Tình Yêu và Lòng Tha Thứ », chúng ta sẽ dùng chất liệu nào, để xây dựng Đất Nước và phục vụ tha nhân ? Bao lâu « Tình Yêu và Lòng Tha Thứ » đang vắng mặt trong cõi lòng của chúng ta, mỗi lời nói và hành vi xuất phát từ chúng ta, đều là bom đạn, hận thù, xung đột và chiến tranh, trong mỗi quan hệ giữa chúng ta và những người sinh sống hai bên cạnh. Những Lò Hơi Ngạt của người Đức Quốc Xã phải chăng đã và đang còn là những chứng liệu linh động trước mắt chúng ta, về một loại người đã trở thành « chó sói và hỏa ngục » đối với người anh chị em đồng hương, đồng loại ?
***
Chương Chín
Xây dựng Quan Hệ vàQuan Hệ Xây Dựng
Chương nầy bàn về thể thức xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người. Bao nhiêu cạm bẫy cản trở bước đường thành nhân của chúng ta đều nằm tại đây. Tuy nhiên, không có những đóng góp của kẻ khác - trong đó có những người tìm cách làm hại và đàn áp chúng ta - chúng ta có thành tựu được tất cả những gì đang tạo nên bản sắc của chúng ta trong cuộc đời hiện tại hay không ?
Nhằm trả lời cho vấn nạn nầy, trong Phần Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lãnh vực « Người và Việc ».
Hẳn thực, trong lãnh vực Người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của nhau, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài hòa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến trình lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc, bao lâu chúng ta còn sống trên cõi đời này.
Trái lại, trong lãnh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ý « cùng với nhau nhìn về một hướng », không chia sẻ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau.
Trong Phần Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan, trong chiều hướng thành người. Trên tiến trình nầy, không có kẻ thua. Trái lại, xây dựng quan hệ hài hòa và đồng cảm là cùng đích chúng ta cần nhắm tới. Trên con đường ấy, chúng ta không thể dấn bước một mình.
Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đòi hỏi phải có kết quả trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người.
Bên này là một tiến trình. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. Nói cách khác, một cách VÔ ĐIỀU KIỆN, tôi thực hiện những điều cần thực hiện, về phía bản thân của tôi. Tôi không thể chờ đợi hay là đòi hỏi kẻ khác phải làm người, để rồi tôi mới làm người.
Trong Phần Ba, tôi sẽ trình bày thêm : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện, từ ngày hôm nay, không trì hoãn, trên tiến trình xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đình, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi lòng mẹ, chưa hoàn toàn ý thức về mình.
***
1. Người và Việc
Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc đời sống gia đình, cũng như thuộc địa hạt xã hội. Ngay từ giây phút đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, nó đã cần quan hệ với người mẹ, hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc nó giống như một người mẹ. Nhờ đó, nó mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần phải quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn vai trò làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp.
Hẳn thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời, những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu :
- Bài học thứ nhất, giữa người khác và tôi có những NÉT KHÁC BIỆT « đương nhiên và ắt có ». Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người - người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng - đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến trình làm người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết thẹo... Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lý thuyết, họ là « vị đại diện hữu hình của Thượng Đế Vô Hình », đang có mặt với tôi, trên những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời. Tuy nhiên, cũng vì những nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia người Pháp J. P. Sartre đã khẳng định : « người khác là hỏa ngục ».
-
- Bài học thứ hai, giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc. Nhờ vào những đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy mình là « một phần nửa » của nhau, đã cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung lòng của một mẹ và một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền Bình Trị Thiên, họ không ngần ngại gọi nhau là Mình. « Mình với Ta, tuy hai mà một. Ta với Mình, sao một mà hai ? »
- Bài học thứ ba, người khác và tôi CẦN nhau, trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích cực cũng như tiêu cực và phá hoại. Theo lối nhìn của nhà tâm lý xã hội J.J. Crèvecoeur,[11] khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng như khi tôi thinh lặng đồng lõa, tôi đều góp phần tích cực của mình, để nuôi dưỡng những trò chơi quyền lực, trong những xã hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần mình, khi có một « con sâu đang đục khoét », trong lòng xã hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đã làm gì trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như bao nhiêu người khác... Chính vì những lý do đó, thay vì phê phán, tố cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hãy bắt đầu nhìn mình : tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác. Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần cho. Và đồng thời, chúng ta cũng đang nhận lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban phát xuống một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi và giá trị tự tại của mình. Khi cho, chúng ta nhận mình là người truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm người. Khi xin, chúng ta ý thức mình luôn luôn « làm đứa con » trong lòng Trời Đất, không đòi hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nhìn nhận mình đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác, chiếm hữu, kiểm soát, đút lót...
Nữ Thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhận thức được cả ba bình diện Khác, Giống và Cần, trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt tình yêu :[12]
« Từ ngày nào chẳng biết,
« Thuyền nghe lời Biển khơi.
« Cánh hải âu sóng biếc
« Đưa Thuyền đi muôn nơi.
« Lòng Thuyền nhiều khát vọng,
« Và tình Biển bao la.
« Thuyền đi hoài không mỏi,
« Biển vẫn xa... còn xa.
(...)
« Chỉ có Thuyền mới hiểu
« Biển mênh mông nhường nào.
« Chỉ có Biển mới biết
« Thuyền đi đâu, về đâu.
« Những ngày không gặp nhau,
« Lòng Thuyền đau rạn vỡ.
« Nếu từ giả Thuyền rồi,
« Biển chỉ còn sóng gió. »
Xuyên qua hai hình tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đã gọi mời chúng ta cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp tinh tuyền, nguyên khởi của nó : NHẬN mà không cần xin nài, than vản. CHO mà không đòi hỏi lòng biết ơn nơi kẻ khác. Phải chăng đó là cốt tủy của tình mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ?
Phải chăng người mẹ, khi nuôi con và dạy con, đang làm Siêu Ngã cho đứa con của mình. Làm Siêu Ngã có nghĩa là Đang ở trên, để có một lối nhìn bao quát và toàn diện, không quên sót điều gì. Đang ở trên, để có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của mình, về tất cả những gì mà đứa con của mình đang cần.
Đang ở trên, như con gà mẹ ấp ủ bầy con, dưới đôi cánh của mình, một đàng để tạo lại hơi ấm của bào thai.
Đàng khác, để đứa con cảm thấy mình an toàn, trước mọi hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Người mẹ ở trên, làm Siêu Ngã. Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế và ép buộc.
Người mẹ ở trên. Nhưng « ở trên » để có thể « ở với », đồng hành và chia sẻ.
Người mẹ ở trên, nhưng đồng thời cũng « ở trong », đặt mình vào vị trí của đứa con, để hiểu nó, như chính nó hiểu mình. Vui với con. Cười với con. Bi bô với con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ đi theo mình, tiến vào với mình trên những con đường lạ lùng của giấc ngủ.
Và khi đứa con thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mặt nó, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. Hình ảnh khách quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui sướng : Mẹ có mặt, để đón nhận mình.
Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối tượng, có khả năng thỏa mãn ước mơ của mình. Chính khi đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với hình ảnh mà đứa con đang ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy lòng tự tin, cảm thấy mình có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và tầm ước mong của mình. Cốt lõi của Bản Ngã nằm ở trong ý thức về khả năng nầy. Và cốt lõi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngã của đứa bé sẽ xuất hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngã, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con.
Quan hệ Mẹ Con, trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm người, theo tinh thần và lăng kính ấy, bao gồm ba chiều hướng :
- Thứ nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ họ.
- Thứ hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị, tầm thường, thành một tác phẩm đầy ý vị và lạ thường, với hai bàn tay đóng góp của tôi.
- Thứ ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo », cho tôi nằm.
Với lối nói riêng bịệt của mình, tác giả Stephen R. Covey,[13] cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người :
- Điểm một : Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để tìm hiểu họ, thay vì đợi chờ người khác phải hiểu mình,
- Điểm hai : Khi tiếp xúc, mục tiêu cần nhắm tới, là « Người thắng, tôi thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ». Thắng trong tinh thần của tác giả, có nghĩa là thành đạt mọi chiều kích làm người.
- Điểm ba : Trong mọi quan hệ hài hòa, xây dựng và tích cực, người và tôi « tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người. Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu lo, với thái độ « vùi đầu vào lòng mẹ », để thỏ thẻ : « Mẹ ơi, con thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những gì bà đang cần, để ngày ngày làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. Covey đã sử dụng một từ thời trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing, hình thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy, Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang được nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu. Từ Ergizing còn có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra - synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau. Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc, một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có với nhau « một trăm đôi tai ».
***
Khi nói đến « NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét vừa được nêu ra trên đây, chúng ta đã nói đến « một TIẾN TRÌNH làm người ». Trên con đường ấy, không ai làm ông chủ. Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài. Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ. Trái lại, ai ai cũng được kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung lòng của mình.
Đàng khác, khi nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ thể. Trong công việc, chúng ta phải biết thương lượng. Khởi điểm là những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên giải, tìm ra ý nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi. Nhưng tận điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ý với nhau, hay là một số giá trị cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức có hai ý nghĩa : Vừa là Ánh Sáng, vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là Tình thương.
2. Người và Việc không được trộn lẫn vào nhau
Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều kiện hiện tại, họ và chúng ta đang có những sở thích, nhu cầu và giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường tình, tất yếu. Cho nên, khi họ và chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường cần chọn lựa và dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều được coi trọng một cách đồng đều và công minh.
Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ nào.
Vì thiếu lối nhìn đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của mình, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác.
Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề cao câu tục ngữ : « Một sự nhịn, chín sự lành ».
Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ : « Mày dại khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ».
Rốt cuộc, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ có thể trầm mình trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất ngủ, khó tiêu hóa... Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng tâm thần ấy là vì nhu cầu cơ bản của họ không được nhìn nhận, tôn trọng, thỏa mãn và đáp ứng.
Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng : Để có một quan hệ hài hòa với một người, chúng ta PHẢI đồng ý với người ấy, trong tất cả mọi vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy.
Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đã ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị khống chế : Chúng ta chưa « biết mình là ai », chưa trở thành Bản Ngã có ý thức nhạy bén và sáng suốt.
Cho nên, khi nói đến Bản Ngã, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng : đó là một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngã là một tiến trình « vừa có vừa không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngã là một hiện thực rất phức tạp.
Khi nhìn lại cuộc đời của mình, chẳng hạn, tôi nhận thấy tôi đã vi phạm nhiều lỗi lầm. Những ý định đã có mặt trong nội tâm của tôi, không phải luôn luôn là những ý định trung trực. Thêm vào đó, trong lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đã góp phần, tạo nên nhiều vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng liêu.
Mặc dù vậy, tôi vẫn cảm thấy mình là con người có giá trị. Ngày hôm nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên bình diện khả năng chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát triển, tôi đã tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đã giao phó cho tôi. Trên bình diện lý tưởng, tôi đã kinh qua những chặng đường « ba chìm bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước đường làm người.
Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số điểm rất quan trọng sau đây :
- Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên tình người, tình đồng bào, tình nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua những tình huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe đang có những quyền lợi khác biệt nhau.
- Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lãnh vực « Người và Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của mình, chỉ vì để duy trì một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung sống.
- Chúng ta cũng đừng lừa gạt mình, khi nêu ra lý do « Bản sắc, Bản Ngã », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngã là một con đường hay là một tiến trình cần xây dựng và phát huy cũng như đổi mới, từng ngày. Bản Ngã không bao giờ là một tận điểm bất di bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, tìm cách thăng tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi lên, trên con đường thành người.
Nói tóm lại, trong cả hai lãnh vực Người và Việc, một đàng chúng ta cần ý thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của mình. Đàng khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác, chúng ta còn có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu làm người của mình.
Nhu cầu thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rõ hơn, bốn thành tố Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với nhau. Khi xây dựng quan hệ hài hòa cũng như khi thương lượng, chúng ta cần phải ý thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.
Ý thức như vậy có nghĩa là xác định, bằng cách gọi ra ánh sáng, kêu tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, tìm phương tiện đáp ứng và thỏa mãn, bốn loại thực tế sau đây :
- Người và Tôi cần gì ? (nhu cầu),
- Người và Tôi cảm thế nào ? (xúc động),
- Người và Tôi muốn gì ? (yêu cầu hay là ước vọng),
- Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ? (giới hạn hay là ngưỡng khổ đau).
Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ý thức về bốn thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân mình, chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngã. Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác làm người với chúng ta, như chúng ta.
3. Xây dựng Quan Hệ một cách « vô điều kiện »
Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng ta nhắm tới là lắng nghe, tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Chúng ta không nuôi ẵm ý đồ thay đổi kẻ khác, tìm cách lèo lái hay là ép buộc họ nhận làm của mình những quan điểm chủ quan của chúng ta. Tiến trình xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan nầy, người khác tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của tôi, cũng như tôi tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và tình người của kẻ khác. Không vì một lý do nào, tôi giành độc quyền làm người cho tôi và hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không thể nhân danh bất kỳ một lý tưởng cao cả nào, để truất phế quyền lợi và giá trị làm người của kẻ khác.
Tôi sống và làm như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng những quan hệ hài hòa và tôn trọng, đối với kẻ khác, mặc dù họ không đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của mình.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, những nhận xét sau đây sẽ giúp chúng ta xác định một cách cụ thể và rõ ràng những tác động, cần được thực hiện, trên tiến trình xây dựng quan hệ giữa người với người. Trên con đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một mình. Nhiều tác giả có tầm cỡ quốc tế như R. Fisher, D. Stone, Stephen R. Covey, Marshall B. Rosenberg, Gerald Jampolsky...,[14] và nhất là NGUYỄN TRÃI, trong lòng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi tiến tới, mặc dù con đường còn hiểm trở, đầy chông gai.
Theo lối nhìn của tác giả Roger Fisher, tiến trình xây dựng quan hệ tích cực và hài hòa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây :[15]
- Bước thứ nhất : Vừa tình vừa lý,
- Bước thứ hai : Lắng nghe và hiểu biết,
- Bước thứ ba : Diễn tả, thông đạt một cách rõ ràng trực tiếp, không úp mở, ngụy trang,
- Bước thứ bốn : Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ khác,
- Bước thứ năm : Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay vì đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ý, ký tên,
- Bước thứ sáu : Nhìn nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác, bất kể họ là ai.
Bước thứ nhất : Coi trọng Lý và lắng nghe Tình
Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, Tình và Lý là hai tiếng nói cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều. Lý nằm trong địa hạt tư duy, suy nghĩ, lý luận, lối nhìn hay là thuyên giải. Khi lý không được phát huy và coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không biết mình đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi theo thứ tự nào... Lý là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh.
Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lý, trong 4 địa hạt khác nhau :
- Địa hạt thứ nhất : khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp, bằng cách trả lời những câu hỏi : điều gì, thế nào, tại sao, với ai, ở đâu...
- Địa hạt thứ hai : xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đã gây ra cho chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá khứ, để khảo sát khía cạnh nầy.
- Đia hạt thứ ba : khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để tìm ra những chân trời rộng mở, những phương thức giải quyết.
- Địa hạt thứ bốn : những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương trình hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta không thúc ép hoặc cưỡng bức chính mình. Không đứng núi nầy trông núi nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí. Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ.
Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lượng có tính khoa học, chúng ta cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt như vậy.
- Giai đoạn Một : Liệt kê những vấn đề của cả hai bên.
- Giai đoạn Hai : Xác định những quyền lợi, nhu cầu hay là lợi ích, mà mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết (interests, needs).
- Giai đoạn Ba : Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa mãn từng quyền lợi của mỗi bên (options).
- Giai đoạn Bốn : Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lý, hợp pháp của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận (criteria).
- Giai đoạn Năm : Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ý (agreements).
- Giai đoạn Sáu : Đề xuất một lối thoát « tôn trọng tình người và tính người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives).
Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lý ấy, chúng ta không thể không ngồi lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương lòng rướm máu » của nhau. Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố « Tình », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không còn là con người. Và khi không cưu mang chất người trong lòng mình, làm sao chúng ta có thể thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lý của kẻ mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết chốc và lầm than... Không biết lắng nghe, nhìn nhận, tìm hiểu, tôn trọng tâm tình của kẻ khác, phải chăng chúng ta đang ý thức mình là NGƯỜI ? Hẳn thực, duy những ai đã bị khổ đau nghiền nát trong cuộc đời, mà vẫn còn có khả năng vùng đứng lên, người ấy đang có một kho tàng lớn lao, trong nội tâm : « biết ĐỒNG CẢM » với mình và với người khác. Với một tấm lòng « đầy Hiểu Biết và Tình Thương » nầy, chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRÃI :
« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,
« Vun trồng Cây ĐỨC, nuôi con ăn. »
Bước thứ hai : Tìm hiểu kẻ khác
Tìm hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như : lắng nghe lời nói của kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta khung qui chiếu của họ.
Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của mình, mặc dù bộ sườn hướng dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố :
- Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận những tin tức do môi trường cung ứng,
- Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến trình tư duy ». Ở đây, những động tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở thích và thói quen của mỗi tác giả : Nhận thức, lối nhìn, quan điểm chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế nhìn đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đã khác nhau. Huống hồ khi đi vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ý kiến. Người xưa đã có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ». Một trăm người có mặt, sẽ trình bày một trăm cách thấy khác nhau.
- Thành tố thứ ba là những tình trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc động. Và trong lãnh vực nầy, như trên đây tôi đã nói tới, chúng ta cần phân biệt : nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều danh hiệu khác nhau.
- Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi.
Khi lắng nghe và tìm hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong lòng cuộc đời là « biết mình và nhận mình đã SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, vì « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cõi lòng của mỗi người. Với tư duy độc lộ, chúng ta chỉ thấy một con đường duy nhất : tôi đúng, kẻ khác sai. Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho mình và coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.
Bước thứ ba : Diễn tả mình và thông đạt một cách trong sáng
Trong bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta đã phải trải qua « Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, vì lý do sống còn và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đã tạo cho mình một thói quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của chúng ta cũng có nhiều nghĩa : « đồng ý » và « không đồng ý ». Một cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải hiểu rằng : Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm, tôi vẫn còn có lý do, để tự biện minh.
Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều Đại phồn thịnh là Lý, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô ngôn », và khinh thường lời lẽ dài dòng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ý », đưa tay « chỉ mặt trăng », và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với hai tay chứng nghiệm.
Ngoài ra, vì đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lãnh thổ lớn lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn đương đầu, trực diện, nhìn thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu mình lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những gì không biết lẩn tránh ra hai bên.
Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện chọn lựa đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng : không có một phương tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta.
Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng còn ở trong một tình thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt mình trong điều kiện khẩn trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một mình, không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của tình trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ý và phản hồi ».
Tệ hại hơn nữa là sau bao nhiêu năm hòa bình, chúng ta vẫn còn giữ lại thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra. Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu chúng ta muốn nói gì. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị chúng ta gắn vào một nhãn hiệu là « kém thông minh, không bén nhạy... », hay là « có ý đồ phản động, chống đối... »
Tôi cố tình phân tích một cách cặn kẽ như vậy, nhằm gây ý thức rằng : làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi lòng mẹ.
- Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.
- Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác diễn tả, chia sẻ con người đích thực của mình.
- Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của mình. Hẳn thực, không ý thức về mình, không cưu mang trong mình một mục đích, một chí hướng rõ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói phải chăng là diễn tả và chia sẻ chính mình ?
Tất cả những gì tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những gì tôi ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác, nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hãy có gan nói về mình, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đã thấy. Chính tôi đã nghe. Chính tôi đã cảm. Chính tôi đã có kinh nghiệm. Chính tôi đã CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt, những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ.
Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng hiến một tấm tấm lòng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại, đúng như NGUYỄN TRÃI đã nói, cách đây hơn năm thế kỷ :
« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ.
« Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».
Bước thứ tư : Khả tín và tin vào người
Trong đoạn nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều : Thứ nhất là sống làm sao, để xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa, những lý chứng của lòng tin.
Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể trình bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài điểm then chốt như sau :
Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rõ ràng. Ví dụ, khi tôi hẹn với ai sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẩn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường...
Nhằm đánh thức và giúp chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, tác giả A. Robbins kêu mời mỗi người hãy nhìn năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày, phát biểu một ý kiến :[16]
- Một, ngón tay út phía bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi... chúng ta đặt ra cho mình câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à ? Tất cả không thiếu một ai cả sao ?
- Hai, ngón tay đeo nhẫn. Các từ : phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi : Ai đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
- Ba, ngón tay giữa. Các động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực hiện... Cách đặt câu hỏi : Hợp tác... bằng những cách làm cụ thể và khách quan nào ?
- Bốn, ngón tay trỏ. Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt Nam, hòa bình, tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ thể là ai, tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ? Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?
- Năm, ngón tay cái. Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều, tốt hơn, quá xấu... Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái gì để quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?
Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lý. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những bình diện khác nhau như vậy, trên tiến trình tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất lòng tin của những ai nghe chúng ta.
Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu... Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.
***
Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người. Làm như vậy, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào ?
Trên bình diện nầy, người chủ động vẫn là chúng ta.
- Khi lời nói của kẻ khác không rõ ràng, chúng ta hãy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết bạn hay bị cản trở, vì công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ?
- Trường hợp kẻ khác đã lỗi hẹn, chưa hẳn vì họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ý. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ý muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên phòng. Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngã, gãy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đã lỗi hẹn với chúng ta.
- Nếu kẻ khác, vì nhiều lý do, không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn vì họ xấu về mặt luân lý hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ý chí và trí nhớ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.
Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lãnh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, tìm hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đã thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, vì họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ hơn là bị loại trừ, để dần dần có khả năng trở nên khả tín, đối với những người khác.
***
Bước thứ năm : Thương lượng và thuyết phục, thay vì cưỡng chế
Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRÃI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đã xác định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »
Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang còn thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang còn làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đã có nhận xét, cách đây hơn hai nghìn năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay vì cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, nếu kẻ khác không đồng ý với chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta. Trái lại, chúng ta coi trọng những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của người khác, ở phía đối diện.
Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang hàng chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lý, hợp pháp và hợp tình, được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia.
Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với mình, giống như mình. Và như trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành », tôi đã nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau, họ có « một trăm con mắt », để nhìn. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh chị em, đối với nhau.[17]
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và Chấp nhận nhau
Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận tư cách làm người của nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ tình người ? Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau ?
Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây :
- Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn mình tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.
- Thứ hai, con người ấy đã trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta tìm hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.
- Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy lòng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời, với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.
- Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy mình rõ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.
- Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm gì, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, về một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của mình.
Trong Sa mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một mình giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và lòng biết ơn. Ánh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đã chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.
[1] NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình Người, Lausanne 2003.
[2] Jacqueline MORINEAU - L'Esprit de la Médiation - Erès, France 2001.
[3] NGUYEN VAN THÀNH - Sơn Tinh và Thủy Tinh : HAI cong, MấT Nước Non - Tình Người, Lausanne Mùa Thu 2003.
[4] NGUYEN VAN THÀNH - Khung Trời Mở Rộng - Tình Người, Lausanne Hè 2000. N.B. Trong cuốn sách này, xin xem Phần II tr.75. Một cách các biệt, phân biết câu hỏi, sau khi lắng nghe lời phát biểu của kẻ khác, tr.144.
[5] BURNS D. - Ten days to Great Self-Esteem - Vermilion London 2000, tr. 136.
[6] CUELHO P. - The Alchemist - Harper, San Francisco 1994, tr.158.
[7] COVER St. R. - The 7 Habits of Highly Effective People - Simon & Schuster, London 1992.
[8] NGUY?N V?N THÀNH - S?n Tinh và Th?y Tinh : Hai con ???ng, M?T N??c Non - T? Sách Tình Ng??i, Lausanne 2003.
[9] HAY L.L. - Love yourself, Heal your life - Eden Grove, London 1990. GRAY J. - What you feel, you can heal - Heart, CA 1984.
[10]JAMPOLSKY G. G. - Change your mind, change your life Bantam Books, New-York 1991., - Love is the Answer - Bantam Boks, New-York 1990, tr. 234.
[11] J.J. CRÈVECOEUR - Relations et jeux de pouvoir - Équinoxe 21, Toulouse 1999, 539 tr.
[12] 100 bài thơ tình - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993.
[13] Stephen R. COVEY - The 7 Habits of highly effective people - Simon & Schuster, London 1989, 358 tr.
[14] D. STONES - Difficult conversations - Michael Joseph, London 1999, 250 tr.
M.B. ROSENBERG - Nonviolent Communication - Puddle Dancer Press, CA 2001, 204 tr.
[15] Roger FISHER - Getting together - Business Books, London 1989, 213tr.
Roger FISHER - Getting to Yes - Penguin Books, N.Y. 1981, 1991, 200 tr.
Roger FISHER - Beyond Machiavelli : Tools for coping with conflict - Harvard University Press, London 1994, tr. 151.
[16] ROBINS R. - ROBINS R. - Unlimited Power : a black choice - Simon & Schuster, New-York 1997, tr 251.
xem NGUYỄN VĂN THÀNH - Sơn Tinh và Thủy Tinh : HAI con đường, MỘT Nước Non - Tình Người, Lausanne Mùa Thu 2003.
[17] NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình Người 2003, 276 tr.