1. Trong văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, cùng với phong trào Thơ mới, Tự lực văn đoàn cũng là một hiện tượng văn học mà số phận không thoát khỏi sự thăng trầm trước những biến thiên của đời sống xã hội.
Tám mươi năm so với lịch sử dân tộc thì không dài nhưng so với lịch sử của một trào lưu văn học, thời gian ấy cũng đủ giúp ta nhìn lại hiện tượng văn học nầy một cách bình tỉnh, khách quan để có những đánh giá hợp lý hơn. Trong tâm thức ấy, thiết nghĩ, việc tìm hiểu Tự lực văn đoàn trong cái nhìn của lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975 cũng có một ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần định vị hiện tượng Tự lực văn đoàn trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân tộc.
2. Trong giai đoạn 1954 – 1975, khi đất nước tạm thời bị chia cắt, tình hình xã hội ở đô thị miền Nam luôn có những biến động, không chỉ trong lĩnh vực chính trị xã hội mà ngay cả trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Điều nầy ảnh hưởng rất lớn đến sự vận động và phát triển của lý luận - phê bình mà thể hiện rõ nhất là cái nhìn đa diện, đa chiều trong việc thẩm định các hiện tượng văn học trong đó có trào lưu Tự lực văn đoàn qua các bài lý luận - phê bình xuất hiện trong đời sống văn học ở miền Nam trước 1975. Những bài viết ấy có khi thể hiện sự đánh giá chung về Tự lực văn đoàn, có khi chỉ là sự đánh giá về một tác giả, tác phẩm trong trào lưu văn học này. Đây cũng là hai nội dung cơ bản mà chúng tôi đề cập trong bài viết.
2.1. Những đánh giá về trào lưu Tự lực văn đoàn
Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, văn học hiện đại (1862 - 1945) do Quốc học tùng thư xuất bản 1962 tại Sài Gòn đã dành gần 100 trang sách giới thiệu về quá trình ra đời và phát triển của Tự lực văn đoàn. Theo ông “Nói đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không trước hết nói đến Nguyễn Tường Tam người đã hầu như một mình sáng lập ra nó”. (1)
Có thể nói phần viết về Tự lực văn đoàn của Phạm Thế Ngũ là phong phú, đánh giá khá khách quan những giá trị của Tự lực văn đoàn. Cảm hứng trong những trang sách của ông là cảm hứng khẳng định: khẳng định sự ra đời của Tự lực văn đoàn là hợp với xu thế khách quan của thời đại và sự đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với dân tộc, không chỉ trong lĩnh vực văn học mà còn cả trong lĩnh vực văn hóa. Đó cũng là cảm hứng chung của các cây bút lý luận - phê bình ở đô thị miền Nam khi viết về Tự lực văn đoàn. Vì vậy, khi nhận định về những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong lĩnh vực văn học, Dương Nghiễm Mậu cho rằng:“nói về nền văn chương mới, Tự lực văn đoàn là những người tiền phong, chính họ là những người đã làm cho văn chương quốc ngữ đến dần với trưởng thành sau những mở đầu gần gũi. Chính họ với những ảnh hưởng có được từ Tây phương đã tạo thành nhiều tác phẩm giá trị trong thời kỳ văn học trước 1945.”(2) Về ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn đối với đời sống xã hội lúc bấy giờ mà đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên, Dương Nghiễm Mậu cho rằng: “Trong thời đại của họ, họ đã gây được một ảnh hưởng lớn trong đời sống, đặc biệt là với thanh niên. Với tiểu thuyết, Tự lực văn đoàn đã tạo thành một mẫu người thanh niên mới cho thời đại của họ, nói rõ hơn đó là lớp thanh niên trí thức do nền giáo dục Tây phương tạo thành”.(3) Như vậy rõ ràng, Tự lực văn đoàn dưới cái nhìn của các nhà lý luận - phê bình là một trào lưu văn học đã góp phần không nhỏ mang đến một luồng gió mới về nhận thức xã hội, con người cho tầng lớp thanh niên, nhất là vấn đề tiếp nhận tư tưởng tự do và dân chủ của phương Tây, những nhân tố cần thiết để đẩy nhanh tiến trình biến đổi văn hóa đô thị, một tiền đề quan trọng góp phần hiện đại hóa đất nước và hiện đại hóa nền văn học dân tộc lúc bấy giờ.
Còn Thế Uyên trong Nguyên san văn uyển số 6 tháng 10/1968, khi bàn về chủ trương của nhóm Tự lực văn đoàn, ông đã giải bày để biện minh cho tôn chỉ và mục đích của Tự lực văn đoàn khi cho rằng:“cũng nhiều người đã ngộ nhận về chủ trương của Tự lực văn đoàn. Điển hình là nhà học giả Dương Quảng Hàm, vị này đã trách văn đoàn (trong cuốn văn học sử chính thức dùng trong các trường học) là quá cực đoan với cái cũ, bất cứ cái gì cũng đòi phá hủy. Sự thực đối với tục lệ cũ, các bác các chú tôi không hề có thái độ cực đoan như vậy. Các ông đã chỉ làm một chọn lựa lại: xét lại tất cả các tục lệ bắt nguồn từ văn hóa cũ chỉ đã phá những gì thực sự là hủ tục. Không những thế trên thực tế còn đề cao, còn phục hồi những tục lệ thuần chất dân tộc” (4)
Cũng trong cảm hứng khẳng định về giá trị của Tự lực văn đoàn, trong Thời tập số ra ngày 16/9/1974, từ góc nhìn thể loại, khi bàn về lịch sử của tiểu thuyết Việt Nam, Lê Huy Oanh đã đánh giá cao địa vị của Tự lực văn đoàn trong lịch sử văn học những năm 1930 – 1945 mà ông gọi là văn học tiền chiến. Ông cho rằng: “Trong thời tiền chiến, nhóm Tự lực văn đoàn dưới sự lãnh đạo của nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam đã là một nhóm có địa vị rất quan trọng trong lịch sử văn chương Việt Nam. Nhóm này, ngoài Nhất Linh đã qui tụ được một số đông đảo các văn nghệ sĩ quan trọng như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thanh Tịnh, Thạch Lam, Trần Tiêu, Đỗ Đức Thu, Thế Lữ và cũng xuất bản sách cho một số tiểu thuyết gia khác như Mạnh Phú Tứ, Nguyên Hồng. Nhóm này dùng tạp chí Phong Hóa rồi đến Đời Nay để làm cơ quan ngôn luận, truyền bá văn học tư tưởng” (5)
Như vậy trong cái nhìn của Lê Huy Oanh, Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của thể loại tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết hiện đại và đã tạo nên sự cách tân cho thể loại tiểu thuyết Việt Nam. Đây cũng là ý kiến của nhà văn Thế Phong trong Lược sử văn nghệ Việt Nam, nhà văn tiền chiến 1930-1945 (Nhận định văn học), Vàng son xuất bản 1974, khi khẳng định Tự lực văn đoàn đã “ có công trong việc tu bổ cho văn chương chúng ta một lối tiểu thuyết mới mẻ, những bài thơ mới giá trị, nổi bật cuộc đời thời ấy. Một Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, một Thế Lữ, Xuân Diệu, là những người có công lớn với lịch sử văn nghệ chúng ta” (6)
Trong lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam 1954 – 1975, khi đánh giá về Tự lực văn đoàn, không chỉ có những ý kiến khẳng định, đồng tình mà còn có những ý kiến phản biện. Xu hướng này thể hiện rõ trong cuộc thảo luận với chủ đề nhìn lại Văn nghệ Tiền chiến ở Việt Nam trên tạp chí Sáng Tạo số tháng 10/1960. Đó là ý kiến của Thanh Tâm Tuyền phê phán cái nhìn hạn hẹp của các nhà văn Tự lực văn đoàn trong việc phản ánh đời sống xã hội. Theo ông: “Các nhà văn Tự lực văn đoàn nhìn một cách rất thu hẹp, trong phạm vi gia đình, cá nhân, mà không hề thấy đó là sự đảo lộn cả một nếp sinh hoạt mấy nghìn năm mà trong đó dân tộc phải tìm lấy một đường lối giải thoát thích hợp.” (7) Còn Nguyễn Sĩ Tế, khi bàn về biên độ phản ánh hiện thực trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, cho rằng: “Tác giả tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chưa sống với thời đại. Chứng cớ: Những thảm kịch chưng ra trong Tự lực văn đoàn chỉ là một phần rất nhỏ của tấm thảm kịch thời đó. Đứng ngoài ngó vào, nghe đồn, không sống hẳn nên những thảm kịch nêu ra đều hết sức phiến diện. Nhân vật thì chưa đau đớn hết thân phận chúng”(8)
Như vậy, trong suy nghĩ của Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sĩ Tế thì nhãn quan của các nhà văn Tự lực văn đoàn chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình cá nhân mà chưa nhìn thấy được sự tất yếu phải đến của một cuộc cách mạng xã hội. Nhận định này, theo chúng tôi là chưa thỏa đáng. Bởi lẻ, thông qua tác phẩm của mình, các nhà văn Tự lực văn đoàn cũng đã dự báo về những đổi thay của xã hội lúc bấy giờ. Những đổi thay ấy, tuy chưa phải là những đổi thay mang tính cách mạng theo nghĩa tích cực mà nhiều khi còn rơi vào chủ nghĩa cải lương, nhưng dẫu sao những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết những xung đột cũ / mới, cá nhân / gia đình mà các tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn luận bàn cũng có những tác động nhất định đến những thay đổi về một số phương diện nào đó của đời sống xã hội lúc bây giờ. Và đây cũng là một trong những nhân tố góp phần đổi mới và hiện đại hóa văn học, làm tiền đề cho sự phát triển của văn học Việt Nam vốn đã ngủ quá lâu trong lũy tre làng của nền văn học trung đại để bước đầu hội nhập vào nền văn học hiện đại của thế giới.
Cũng trong cái nhìn phản biện về trào lưu Tự lực văn đoàn, Nguyễn Văn Xuân trong bài “Từ phong trào Duy Tân đến Tự lực văn đoàn” đăng ở Văn số 107 + 108 ra ngày 15/6/1968, khi so sánh vai trò của phong trào Duy Tân với Tự lực văn đoàn trong việc định hướng cho việc cải cách xã hội về mặt tư tưởng, Nguyễn Văn Xuân cho rằng Tự lực văn đoàn chỉ đóng góp về mặt báo chí, văn học chứ không có gì mới về mặt tư tưởng. Bởi theo ông, tư tưởng Tự lực văn đoàn không có gì mới so với tư tưởng của các trào lưu trước đó, trong đó có phong trào Duy Tân. Vì “Độc giả thanh niên chưa có kinh nghiệm và nghiên cứu các phong trào Duy Tân, đã từng tôn phục Tự lực văn đoàn từ 1932 đến đây đã chia rẽ. Ảnh hưởng tư tưởng của Tự lực văn đoàn chỉ còn đối với một số độc giả trí thức, kém tích cực. Sự thành công của Tự lực văn đoàn như thế chỉ còn thu vào địa hạt sở trường của Văn Đoàn: báo chí, tiểu thuyết, trào phúng” (9)
Như vậy, trong tư duy của các nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 – 1975, trào lưu Tự lực văn đoàn không chỉ có những thành tựu mà còn có những hạn chế mà rõ nhất là về mặt tư tưởng trong việc định hướng sự phát triển của xã hội. Song nếu sự đánh giá những hạn chế của Tự lực văn đoàn còn có những ý kiến khác nhau thì sự đánh giá những thành tựu của Tự lực văn đoàn trong lĩnh vực văn học và báo chí cũng như vai trò của Tự lực văn đoàn trong việc hiện đại hóa nền văn học dân tộc cơ bản đã có sự thống nhất. Những ý kiến này đều căn cứ trên một cơ sở khoa học văn chương thuần túy và không chịu áp lực / ảnh hưởng bởi những hệ lụy ngoài văn học, nên công bằng, khách quan và có độ tin cậy cao.
2.2. Những đánh giá về một số nhà văn trong Tự lực văn đoàn
Khi nói đến Tự lực văn đoàn, các nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam không chỉ bàn đến tổ chức Tự lực văn đoàn với tư cách là một trào lưu văn học mà còn quan tâm bàn đến văn nghiệp và hành trình sáng tác của một số nhà văn tiêu biểu mà người đầu tiên không thể không nói đến đó là Nhất Linh.
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, khi phân tích về các giai đoạn sáng tác của Nhất Linh cho rằng hành trình sáng tạo của Nhất Linh là hành trình sáng tạo của một con người “dường như lúc nào cũng thấy ông chỉ phản ảnh tâm hồn mình, kể lể những băn khoăn của mình, theo đuổi một giấc mơ của mình”. (10) Còn Lê Huy Oanh, trong Thời tập số ra ngày 16/9/1974, khi đánh giá về vai trò Nhất Linh thì khẳng định:“Nhất Linh luôn xứng đáng là người lãnh đạo là con chim đầu đàn của nhóm Tự lực văn đoàn. (...) Cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh đã là một tiếng vang lớn trong lĩnh vực phát huy văn chương và cải cách xã hội”. (11)
Để đi tìm một chân dung đích thực về vai trò của Nhất Linh trong văn học hiện đại Việt Nam có thể còn có những ý kiến khác nhau, với nhiều lý do cả trong và ngoài văn chương nhưng sự hiện hữu của Nhất Linh trong văn học sử là điều không thể phủ nhận. Chính vì vậy, trong Đi tìm tác phẩm văn chương (tiểu luận phê bình – Đồng Tháp 1972) ở phần chân dung và tác phẩm, Huỳnh Phan Anh đã chọn Nhất Linh với Bướm trắng , xem đây như một chân dung tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam và của Tự lực văn đoàn. Và để biện giải cho sự chọn lựa của mình, ông đã khẳng định “Bướm trắng là một cái đỉnh quan trọng của nghệ thuật Nhất Linh. Nó đánh dấu thời kỳ già dặn nhất của tác giả sau những thành công của “Đôi bạn”, “Đoạn tuyệt”. (12) Vì vậy, cũng theo Huỳnh Phan Anh “Bướm trắng không chỉ là một cuốn sách thêm vào số lượng tác phẩm của Nhất Linh. Nó còn thể hiện ước muốn tích cực của người viết, viết chống lại những gì mình đã viết, viết không có nghĩa là viết lại một tác phẩm nào đó đã viết, viết khác đi, viết như thế tác phẩm mình chưa hề hoàn tất, cũng chưa hề bắt đầu và chỉ đang hứa hẹn”. (13) Và với một cái nhìn biện chứng của một tư duy lý luận - phê bình sắc sảo, Huỳnh Phan Anh đã thêm một lần nữa xác quyết về sự tự phủ định chính mình của Nhất Linh trong hành trình sáng tạo khi ông cho rằng: “có thể quan niệm “Bướm trắng” là một lời nói không của chính tác giả trước những lối mòn của quá khứ. Nó thể hiện và đồng thời thực hiện một cuộc đoạn tuyệt với chính vũ trụ tiểu thuyết quen thuộc của tác giả”. (14) Thiển nghĩ cũng khó có lời nhận xét nào độc đáo hơn lời nhận xét này về quá trình sáng tạo của một nhà văn như Nhất Linh. Bởi đối với một nhà văn, không có giá trị nào lớn hơn sự vượt lên chính mình trong hành trình sáng tạo!?
Bên cạnh Nhất Linh, một nhà văn có những đóng góp không kém phần quan trọng trong vào sự tồn sinh của Tự lực văn đoàn cũng như trong nền văn học hiện đại của dân tộc đó là Khái Hưng. Có thể nói, nếu Nhất Linh là linh hồn, là thủ lĩnh của Tự lực văn đoàn thì Khái Hưng cũng là chỗ dựa vững chắc góp phần giữ vững vị trí của văn đoàn trước những biến động / bão giông của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, nếu định vị các nhà văn trong Tự lực văn đoàn thì Khái Hưng có lẽ chỉ đứng sau Nhất Linh. Và chính Khái Hưng bằng ngòi bút sáng tạo của mình đã góp phần hoàn thiện chân dung của Tự lực văn đoàn trong văn học sử. Vì vậy, khi đánh giá về Khái Hưng trong cái nhìn đối sánh với Nhất Linh, Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Đọc Nhất Linh dường như lúc nào ta cũng thấy ông chỉ phản ánh tâm hồn mình, kể lể những băn khoăn của mình, theo đuổi một giấc mộng của mình. Khái Hưng khác thế, là một cây viết đi nhặt nhạnh truyền người, một thứ gương pha lê hướng ra cuộc đời lắm vẻ và dung nạp một cách trung thực và khoan hóa những tâm tư và hình thái của cả một xã hội chung quanh ông”. (15) Còn Tam Ích trong Ý văn I (Lá Bối xuất bản, 1967) đã đánh giá rất cao vai trò của Khái Hưng và Hồn bướm mơ tiên trong văn học sử khi ông xác quyết: “Ba chục năm trước... có một nhà văn mới ra đời là đã có thế lực: Khái Hưng. Và có một cuốn tiểu thuyết mới ra đời đã chiếm đứt vị trí của Ngọc Lê Hiền và Tố Tâm: cuốn Hồn bướm mơ tiên”. (16) Như vậy, trong tâm thức của Tam Ích cuốn Hồn bướm mơ tiên là đỉnh cao trong văn nghiệp của Khái Hưng, có vị trí và tầm ảnh hưởng lớn trên văn đàn lúc bấy giờ.
Song khác với ý kiến của Tam Ích, Lê Huy Oanh trên Thời Tập số ra ngày 16/9/1974, tuy khẳng định tài năng của Khái Hưng nhưng lại phủ định giá trị của tác phẩm Hồn bướm mơ tiên. Theo Lê Huy Oanh: “Khái Hưng cũng là một cây bút viết tài nghệ rất cao của nhóm Tự lực văn đoàn... Cuốn Hồn bướm mơ tiên sở dĩ được coi là quan trọng vì là từ nhiều năm nay, nó nằm trong chương trình quốc văn của học sinh trung học tại xứ ta. Tuy nhiên nếu đem so nó với những tác phẩm khác cùng tác giả như Nửa chừng xuân, Trống mái, Hạnh, Tiếng suối reo... thì Hồn bướm mơ tiên là cuốn sách kém hơn cả, kém ở chỗ nội dung là một truyện thuộc ái tình lý tưởng hơi có vẻ lẩm cẩm và đặc vẻ tuồng cải lương. Cũng may là được phần hình thức gở lại. Văn pháp Hồn bướm mơ tiên khá trong sáng, vững vàng nhất là trong những đoạn tả cảnh”. (17)
Như vậy, sự đánh giá về Khái Hưng và những tác phẩm của ông trong lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam xét về một phương diện nào đó vẫn còn có những ý kiến khác nhau và đây là điều hoàn toàn bình thường trong tiếp nhận văn học. Nhưng có một vấn đề mà hầu hết các ý kiến đều đánh giá cao đó là văn tài và những hoạt động của Khái Hưng đã góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển của Tự lực văn đoàn.
Ngoài Nhất Linh và Khái Hưng, Hoàng Đạo cũng là nhà văn được các nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập đến. Song nếu ở Khái Hưng hay các nhà văn khác của văn đoàn thường được các nhà nghiên cứu chú ý đánh giá ở lĩnh vực sáng tác văn học thì ở Hoàng Đạo, người ta thường quan tâm đến những cải cách xã hội trong tư tưởng của ông qua cuốn Mười điều tâm niệm. Chính vì vậy, khi đánh giá về Hoàng Đạo, Thế Uyên cho rằng: “Hoàng Đạo là nhà văn hóa hơn là nhà văn – Nếu hiểu nhà văn là người sáng tác văn nghệ như truyện ngắn, truyện dài”. (18) Cũng trong xu hướng này khi nói về vai trò của Hoàng Đạo, trên tạp chí Giao Điểm số 1 ra ngày 15/1/1972, Dương Nghiễm Mậu cho rằng: “Hoàng Đạo đã viết Mười điều tâm niệm, một thứ tân ước cho lớp trí thức mới, ông đã kêu gọi thanh niên hành động bằng những tác phẩm như Bùn lầy nước đọng, Con đường sáng (...) Tất cả những tác phẩm này đều ở trong chiều hướng: phải đoạn tuyệt với nếp sống cũ, phải theo mới, phải phá bỏ những hủ tục, tự do cá nhân được đề cao, và sau đó là hướng đến một tranh đấu giải phóng dân tộc, cải tạo xã hội”. (19) Tất nhiên là sự cải tạo xã hội theo hướng cải lương chủ nghĩa kiểu Tự lực văn đoàn!?. Hay với sự đánh giá có tầm khái quát hơn, Phạm Thế Ngũ lại xem Hoàng Đạo là “người phát ngôn, nhà xã thuyết” (20) của Tự lực văn đoàn. Và có thể nói, đây cũng là những ý kiến của đa số các nhà lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam khi nhìn nhận về vai trò của Hoàng Đạo trong Tự lực văn đoàn.
Trong Tự lực văn đoàn, Thạch Lam tuy không nổi trội như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo về vai trò tổ chức để phát triển văn đoàn nhưng xét về mặt sáng tạo văn học, Thạch Lam là một nhà văn có vị trí đặc biệt, để lại dấu ấn sâu sắc và tỏa sáng nhất trong lòng người đọc. Vì vậy, ông cũng là nhà văn có số lượng bài viết khá nhiều trên sách, báo miền Nam. Vậy nên, Thế Uyên trong bài viết “Tìm kiếm Thạch Lam” trên Nguyên san Văn số 6 tháng 10/1968, đã khẳng định: “Thạch Lam là người viết văn hay hơn cả trong Tự lực văn đoàn. Đa số truyện ngắn của ông, gần đây tôi đọc còn thấy hay, xúc động trong khi tôi nhiều khi không thích thú khi đọc đa số truyện ngắn, truyện dài của Khái Hưng và Nhất Linh”. (21) Và để biện giải cho sự đánh giá của mình về cái hay hơn hẳn của văn chương Thạch Lam, Thế Uyên cho rằng: “có thể nói chất liệu văn chương Thạch Lam chỉ gồm có cuộc sống dĩ vãng và sự rung động của tâm hồn tác giả. Tưởng tượng chỉ giữ một vai trò nhỏ bé, khiêm nhường”. (22)
Cũng trong cảm hứng khẳng định giá trị tiềm ẩn trong những sáng tác và văn nghiệp của Thạch Lam, Dương Nghiễm Mậu trên tạp chí Giao Điểm (ngày 15/1/1972) đã thêm một lần xác quyết: “Thạch Lam là một nhà văn hạnh phúc, lúc đương thời cũng như nhiều năm tiếp theo, tác phẩm của Thạch Lam như một nhan sắc trầm chín, không trình diễn một bề mặt, không có son phấn, một nhan sắc không phô trương nơi phía tiền trường, đó là thứ nhan sắc tay ôm đàn che nửa mặt hoa khuất dấu ở hậu trường, ở buồng trong, nhưng là một thứ nhan sắc có thật, chịu đựng được thời gian và thứ ánh sáng soi bói lục lọi (...) Văn chương Thạch Lam là một cái gì toàn thể, nhưng bàn bạc nhẹ nhàng, nó không hề là những luận đề lớn lao, những tư tưởng kỳ lạ, ở Thạch Lam những cái gì còn để lại cho chúng ta, những tác phẩm ấy thường chỉ như một bức tranh thủy mạc với những nét chấm phá nhưng là những nét chấm phá chi li”. (23) Và điều làm cho Dương Nghiễm Mậu quí trọng đến ngạc nhiên về Thạch Lam là “tại sao Thạch Lam không bị lôi cuốn vào dòng văn chương Tự lực văn đoàn, hay nói khác đi, những tư tưởng về xã hội tranh đấu của những người như Nhất Linh, Hoàng Đạo sao không có ảnh hưởng tới Thạch Lam”. (24)
Điều nầy đã lý giải vì sao văn chương Thạch Lam lại có vị trí đặc biệt trong lòng người đọc so với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Và chính sự khác biệt nầy đã làm nên giá trị của văn nghiệp Thạch Lam, cũng như tạo nên sự vĩnh hằng cho tác phẩm của ông trong lòng người đọc. Bởi lẽ, qui luật giá trị của văn chương không bao giờ tồn tại trong lối tư duy minh họa, dù sự minh họa đó có nhân danh một lý tưởng nào đi nữa thì số phận của văn chương minh họa bao giờ cũng đoản mệnh. Và điều này đã góp phần lý giải vì sao những tiểu thuyết mang tính luận đề của văn chương Tự lực văn đoàn được viết bởi Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo lại không có được đời sống dài lâu là vì thế. Có lẽ, đây cũng là điểm hạn chế của Tự lực văn đoàn. Và chính điều này, thêm một lần nữa thức nhận trong chúng ta một cái nhìn khoa học và nhân bản hơn về giá trị của tác phẩm văn chương trong nền văn học của dân tộc.
Văn chương bao giờ cũng là văn chương của mọi thời chứ không phải là văn chương của một thời. Sự bất tử của những tác phẩm văn chương ở nước ta cũng như thế giới mà chúng ta biết đã xác tín cho chân lý này. Đó là những tác phẩm văn chương đã chạm đến những vấn đề sâu xa nhất, tế vi nhất của cõi nhân sinh. Nó vượt qua những giới hạn của bầu khí quyển giai cấp tính, dân tộc tính để vươn đến những giá trị nhân văn mang tầm nhân loại. Văn chương Thạch Lam phải chăng cũng là thứ văn chương mang những rung động thao thiết của phận người, thức nhận trong ta những phẩm chất Người qua “những lời thủ thỉ” (25) nhẹ nhàng mà day dứt trong sáng tác của ông.
Có thể nói, Thạch Lam là một trong không nhiều nhà văn của Tự lực văn đoàn viết khá toàn diện với nhiều thể loại từ truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết và phê bình văn học... Và ở lĩnh vực nào ông cũng có những thành công nhất định. Nhưng điều làm nên nhân cách văn hóa Thạch Lam, văn nghiệp Thạch Lam và dấu ấn Thạch Lam trong lòng người đọc và trên văn đàn, theo chúng tôi không chỉ là ở tài năng văn chương của ông mà cái chính là ở nỗi “đau đớn lòng” của ông trước “những điều trông thấy” (ý thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều) trước những dâu bể của cuộc đời. Để rồi ông luôn tự vấn lòng mình, luôn đấu tranh với chính mình trước cái ác, cái xấu, cái đê tiện, cái thấp hèn của con người mà nhiều khi ranh giới ấy chỉ mong manh như một “sợi tóc” (tên một truyện ngắn của TL). Chính vì vậy, theo Vũ Bằng thì Thạch Lam là một nhà tư tưởng, chứ không phải là một người hành động vì: “sống trong đám người đi lại bình thường, hồn nhiên nhưng quằn quại, nhục nhằn, đau khổ, Thạch Lam yêu họ như yêu mình. Một người như thế không thể là một nhà lý thuyết, cũng không thể là một người hành động, mà chỉ có thể là một nhà tư tưởng, như chim đường Nga kia đêm tăm bay mỏi, lấy mỏ rút ruột của mình ra để nuôi một đàn con đói”. (26)
Vâng! linh hồn của văn chương chính là tư tưởng, một thứ tư tưởng mang tầm cao triết học thấm đẫm chất nhân văn. Và cái làm nên giá trị của văn chương Thạch Lam cũng chính là tư tưởng trong các tác phẩm của ông. Đó là tư tưởng đầy tính nhân bản, không hề xu phụ cho một thứ chủ nghĩa nào, luận thuyết nào ngoài tấm lòng yêu thương những con người “quằn quại, nhục nhằn, đau khổ” và “Thạch Lam yêu họ như yêu mình” mà Vũ Bằng đã khẳng định. Có thể xem những đánh giá trên cũng là những ý kiến khá tiêu biểu cho sự thống nhất của lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam khi đánh giá về Thạch Lam và tác phẩm của ông.
Như vậy, khi nghiên cứu về từng tác giả, tác phẩm của Tự lực văn đoàn, các nhà lý luận - phê bình văn học ở miền Nam không những chỉ ra nét riêng của từng nhà văn, từng tác phẩm mà còn phân tích một cách sâu sắc, khách quan về những đóng góp độc đáo của mỗi người, để làm nên một văn đoàn đa dạng phong phú với những thành tựu đáng được ghi nhận, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền văn học và văn hóa dân tộc.
3. Lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 – 1975 là một nền lý luận - phê bình với nhiều khuynh hướng, nhiều trường phái khác nhau vô cùng đa dạng và phong phú. Điều đó cũng thể hiện khá rõ qua những công trình nghiên cứu của các nhà lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam về Tự lực văn đoàn được đăng tải trên rất nhiều sách, báo mà chúng tôi đã điểm qua trong bài viết. Đây cũng là điều khác biệt với cái nhìn khá thống nhất của các nhà lý luận - phê bình văn học ở miền Bắc trong cùng thời kỳ khi những nhà văn, những tác phẩm của Tự lực văn đoàn cũng như phong trào Thơ mới được / bị họ xem là những tác phẩm đồi trụy, phản động, buồn rơi, mộng rớt, bị loại khỏi đời sống văn học của dân tộc trong nhiều năm liền và chỉ thật sự được phục sinh từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới.
Vì vậy, dù còn có những ý kiến khác nhau và có những nhận định, đánh giá về Tự lực văn đoàn trong lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam cũng cần được xem xét lại một cách công tâm và khoa học. Nhưng phải thừa nhận rằng: Tự lực văn đoàn và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của trào lưu này đã thu hút sự quan tâm khá nhiều của các cây bút lý luận - phê bình văn học đô thị miền Nam. Và quan điểm của các nhà lý luận - phê bình văn học ở miền Nam đều có sự thống nhất cao trong việc khẳng định vị trí của Tự lực văn đoàn trong văn học sử. Đặc biệt là việc đóng góp của nó trong lĩnh vực văn học, báo chí, xuất bản, nhằm hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Những ý kiến ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và là những tư liệu quí gợi mở cho chúng ta nhiều vấn đề để tiếp tục nghiên cứu về hiện tượng văn học độc đáo này trong tiến trình văn học dân tộc.
Ngày nay, những tác phẩm của Tự lực văn đoàn không còn là vùng cấm. Không những thế nó còn liên tục được tái bản, được đưa vào giảng dạy, được hiện hữu trong các luận văn, luận án ở nhà trường. Điều đó đã là một minh chứng hùng hồn cho sức sống của trào lưu Tự lực văn đoàn với những giá trị mà nó đem đến cho văn học dân tộc đúng như Dương Nghiễm Mậu đã khẳng định: “Nhìn lại văn chương tiền chiến, cho đến nay những nhà phê bình văn học đều nói đến một chỗ đứng rất lớn lao của Tự lực văn đoàn, họ đã làm thành một biến cố, ghi dấu một thời đại, văn chương Tự lực văn đoàn thực đã là một giai đoạn có thật trong văn học sử” (27) nên không thể phủ nhận nó, vứt nó ra khỏi đời sống văn học dù với bất cứ lý do nào. Rõ ràng, hiện tượng Tự lực văn đoàn là một giá trị, một hiện hữu không thể phủ định. Vì từ điểm nhìn của mỹ học tiếp nhận, người đọc là người đồng sáng tạo với nhà văn. Tác phẩm văn học chỉ tồn sinh khi được người đọc tiếp nhận và sẽ mất đi khi người đọc quay lưng với nó.
Chân lý của mọi giá trị văn chương có lẽ cũng bắt đầu từ đó!?
Chú thích:
(1), (10), (15), (20) Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, văn học hiện đại (1862 - 1945), Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn 1962, tr.430, tr.497, tr.479, tr.423
(2), ( 3), (19), (23), (24), (27) Dương Nghiễm Mậu “Số chuyên đề về Thạch Lam”, Giao điểm số 1, ra ngày 15/01/1972, tr. 35, tr.35, tr.35, tr.34, tr.34, tr.35
(5), (11), (17) Lê Huy Oanh, Thời tập số ra ngày 16/9/1974, tr.16, tr.17, tr. 17
(6) Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam, nhà văn tiền chiến 1930-1945 (Nhận định văn học), Vàng son xuất bản, Sài Gòn 1974, tr 108.
(4), (18), (21), (22) Thế Uyên, “ Tìm kiếm Thạch Lam”, Nguyên san Văn uyển số 6 tháng 10/1968, tr.24, tr.80, tr.58, tr.59
(7) Nhiều tác giả, “Thảo luận về Văn nghệ Tiền chiến ở Việt Nam”, Sáng tạo số tháng 10/1960, tr.4
(8) Nguyễn Sĩ Tế, “Thảo luận về nhân vật trong tiểu thuyết”, Sáng tạo số1, tháng 7/1960, tr.15
(9) Nguyễn Văn Xuân, “Từ phong trào Duy Tân đến Tự lực văn đoàn”, Văn số 107 + 108 ra ngày 15/6/1968, tr.61
(12), (13), (14) Huỳnh Phan Anh, Đi tìm tác phẩm văn chương (tiểu luận phê bình), Đồng Tháp xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr 130, tr.130, tr.131,
( 16) Tam Ích, Ý văn I, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn,1967, tr.101
(25) Đào Trường Phúc, “Số chuyên đề về Thạch Lam”, Giao điểm số 1, ngày 15/01/1972, tr. 35
(26) Vũ Bằng, “Số chuyên đề về Thạch Lam”, Giao điểm số 1, ngày 15/01/1972, tr. 25
* Bài viết nhân 80 năm Tự lực Văn đoàn và phong trào Thơ mới ( 1932 – 2012)
Trần Hoài Anh
Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh
*Mọi thư từ liên lạc với tác giả xin gởi về địa chỉ: Trần Hoài Anh
NR: 71/781A Lê Đức Thọ, P.6, Quận Gò Vấp, TP. Hồ chí Minh