Mỹ học là khoa học của cái Đẹp. Cái định nghĩa truyền thống này thoạt nghe có vẻ đơn giản, thực tế nó bao hàm hai định đề: cái đẹp hiện hữu và bản chất nó thich hợp ứng xử với khoa học như thế nào.
Người ta không chứng minh mặt trời cũng như kết quả của từ lực mà chỉ quan sát. Tất cả các khoa học thực tiển đều có chức năng tìm hiểu đối tượng, và sự hiện hữu được bố trí theo kinh nghiệm; nhưng càng xa cách chất liệu thô kệch, sự hiện hữu của nó lại càng sáng tỏ.
Mỹ học là một môn học của xã hội sinh hoạt loài người, nó là thứ sinh hoạt vật chất và là cơ sở của sinh hoạt văn hóa tinh thần mà phát sinh. Cội nguồn của nó có thể truy tầm từ xã hội nô lệ cổ đại; những nhà tư tưởng cổ đại đối với vấn đề nghệ thuật và mỹ đều tìm kiếm ở trong triết học, đối với việc nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm nghệ thuật thực tiển, tức là sự manh nha và khơi nguồn của tư tưởng mỹ học.
Trong sinh hoạt xã hội con người xuất hiện ngay vấn đề Mỹ, nó phản ánh tính chất chủ quan đối với mỹ, tức mỹ cảm. Rồi theo đó mà phát triển, xuất hiện ý thức thẩm mỹ cái cơ sở nghệ thuật thực tiển tập trung biểu hiện nghệ thuật, về lâu về dài các cơ sở nghệ thuật thực tiển hình thành ra lý luận nghệ thuật. Trước tiên là lý luận của mỗi bộ môn nghệ thuật như âm nhạc có nhạc luận, hội họa có họa luận, thi ca có thi ca luận, vũ đạo có vũ đạo luận, thư pháp có thư pháp luận, vv…
Ở Trung Quốc cổ đại, nhạc luận đã đưa ra tư tưởng “hòa hài”; như trong sách Tả truyện nêu ra phạm trù Hòa và Đồng khác nhau, Đồng là đồng nhất, còn Hòa là hai yếu tố đối lập thống nhât với nhau. Như trong âm nhạc sự trong đục, lớn nhỏ, ngắn dài, mềm cứng,vv… đều tương phản tương thành.
Sách Nhạc ký của Trung quốc cổ đại đối với nguồn gốc âm nhạc, đặc trưng tác dụng đều có ghi thành hệ thống, như phần âm phát ra là do từ tâm sinh, sự xúc động của tâm đều do vật gây ra. Nhạc của Trung quốc đã có từ thời Chiến quốc; vể hội họa thì thời Đông Tấn đã có Cố Khởi Chi đề xuất lý luận “dĩ hình tả thần”. Về sau đời Nam Tề có Tạ Hách đưa ra Lục pháp, trong đó có lý luận “khí vận sinh động”. Như thế Trung Quốc cổ đại đã tổng kết được kinh nghiệm nghệ thuật.
Tư tưởng mỹ học của Tây phương cổ đại được hình thành và phát triển cùng lúc với Á châu, và liên hệ chặt chẽ với văn nghệ thực tiển. Tư tưởng mỹ học của Hy Lạp xưa như tác phẩm “Đối thoại lục” của Platon, “Thi hoc” và “Tu từ học” của Aristote, đều được xây dựng tổng kết trên cơ sở kinh nghiệm của văn nghệ thực tiển thời xưa. Không có thần thoại, điêu khắc, sử thi và bi kịch cồ Hy Lạp phồn vinh thì có thể không có tư tưởng mỹ học của Platon, Aristote. Những điều đo thuyết minh tư tưởng mỹ học cổ đại đã có rồi, tuy rằng thời đó mỹ học chưa thành môn học độc lập riêng rẻ.
Vấn đề mỹ học ở Trung Quốc cổ đại đã được bàn luận nhiều, như Khổng tử,Tuân tử đều đè cập đến mỹ; nhưng nhìn lại sự nhận thức về Mỹ của thời đó đối với Chân Thiện chưa có tách rời rõ ràng. Đáng chú ý nhất là tư tưởng mỹ học thời Tiên Tần vẫn còn bao hàm tư tưởng biện chứng thô sơ như Lão Tử từng nói:” Thiên hạ đều biết Mỹ là mỹ, thì đã có Xú (xấu) rồi”; cũng như mọi người đều biết Thiện lả thiện thì đã có sự bất thiện rồi.
Nói chung tư tưởng mỹ học đã phát sinh và hình thành rất sớm; nhưng mỹ học trở thành môn học độc lập thì chỉ mới gần đây thôi, thật ra mỹ là sản phẩm của khoa học phát triển gần dây. Thuật ngữ mỹ học được kể như là một môn học biệt lập, chỉ mới được ông cha đẻ của chủ nghĩa lý tính ở Đức là Baumgarten (1714-1762), ông là người kê thừa Worf Leibniz là nhà tư tưởng của chủ nghĩa lý tính, đồng thời tiến thêm một bước là hệ thống hóa. Ông ta phát hiện ra rằng thế hệ tri thức của con người chỉ mới nghiên cứu sự nhận thức về logic, về ý chí, và luân lý học mà không ngó ngàng gì đến nhận thức cảm tính, Và ông ta cho rằng phải đặt ngang việc nhận thức cảm tính thành đối tượng nghiên cứu khoa học. Do đó mà có sự thành lập môn khoa học mới là nghiên cứu nhận thức cảm tính, môn khoa học mới đó gọi là Aesthetic tức là mỹ học. Từ Aesthetic đối chiếu với nguyên nghĩa của Hy Lạp là “cảm giác học”.
Do đó mới thấy môn khoa học mới nầy là do nhận thức đề xuất, đối lập với luận lý học; thế là từ năm 1735 mới nêu ra “liên quan đến “trầm tư lục” của triết học là Thi học”, lần đầu mới sử dụng khái niệm mỹ học. Đến năm 1750 mới chính thức xuất bản quyển mỹ học đầu tiên là Aesthetic hay Esthetique, quy định thành nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu cứu một môn khoa học. Và Baumgarten, trong sự trước tác của ông, lúc đầu không phải là nhận thức cảm tính một cách đơn giản, mà là nói về nhận thức mỹ học, tức là nhận thức về mỹ cảm.
Về sau, Kant và Hegel trong trước tác của họ về mỹ học không dùng thuật ngữ đó nữa. Hegel từng nói: từ Esthetique về thực tại hoàn toàn không thích đáng, vì ý nghĩa tinh xác so ra là nghiên cứu cảm giác và khoa tình cảm.…Vì bản thân tên gọi đối với chúng ta không có mở rộng ra, mà nó chỉ là tên gọi do ngôn từ thông dụng, tức không cần phải duy trì. Trong triết học cổ điển của Đưc thì mỹ học được coi như một bộ phận mà thôi, một bộ môn đặc biệt.
Do khái niệm cơ bản của mỹ học có liên hệ với các bộ môn khác phải hệ thống hóa, khiến cho mỹ học thành hình thái lý luận và thể hệ hoàn chỉnh hơn; từ đó mỹ học mới thành một môn học độc lập.
Ở Trung Quốc, người tiếp thu mỹ học Tây phương sớm nhất là Vương Quốc Duy. Ông kế thừa quan điểm mỹ học của Kant, Schopenhauer, xiển minh phạm trù mỹ học mà bình luận tác phẩm Hồng Lâu Mộng.
Từ khi Baumgarten thiết lập mỹ học, vấn đề đối tượng mỹ học được đặt ra tranh luận có những ý bất đồng, chủ yếu có 4 ý kiến như sau:
1-Baumgarten cho rằng: đối tượng mỹ học là nghiên cứu cái Mỹ, tức là nghiên cứu sự nhận thức cảm tính hoàn mỹ, Ông bảo: đối tượng của mỹ học tức là cảm tính nhận thức hoàn mỹ (tức đơn phương bản thân nó nhìn thấy), cái đó là mỹ, còn ngược lại với cảm tính nhận thức không hoàn thiện thì đó là xấu (xú). Mỹ chỉ dạy rõ, dùng phương thức nào để tư duy về mỹ, dùng phương thức khoa học để nhận thức về Mỹ là phương thức thấp nhất. Nói như thế nhận thức mỹ học là nhận thức thấp, nhiệm vụ của nó là nghiên cứu hoàn thiện nhận thức cảm tính thì đó là Mỹ. Nhưng nhận thức cảm tính như thế nào là hoàn thiện? Ý kiến của vấn đề nầy có hai phương diện: Một phương diện là tính duy nhất trong tạp đa, toàn thể với bộ phận hợp lại thành ý tứ nhất trí. Phương diện hai là ý tựơng rõ ràng sinh động, nó rất đề cao tính cá biệt của đối tượng thẩm mỹ và tính hình ảnh cụ thể. Nó cho rằng một ý tượng bao hàm dược nội dung càng phong phú, càng cụ thể, càng rõ ràng, như thế là nó càng hoàn thiện, càng đáng là Mỹ.
Tuy nhiên, Baumgarten cho rằng Mỹ học là nghiên cứu cái Mỹ, nhưng vẫn không bài xích nghệ thuật; mà còn chú ý đến việc nghiên cứu nội dung nghệ thuật là chủ yếu. Ông nói: mỹ học là dùng phương thức mỹ mà tư duy nghệ thuật, mỹ là lý luận của nghệ thuật, việc nghiên cứu quy luật mỹ học có thể ứng dụng cho tất cả nghệ thuật; “đối với các thứ nghệ thuật nó như Bắc đẩu bội tinh”. Do đó mới thấy, nghệ thuật mà mỹ học nghiên cứu, là nghiên cứu vấn đề Mỹ trong nghệ thuật.
Thứ 2, là Hegel cho rằng, đối tượng của mỹ học là nghiên cứu cái mỹ của nghệ thuật. Ông bảo: đối tượng của mỹ học là lãnh vực rộng lớn của Mỹ, nói cho thật tinh xác, thì phạm vi của mỹ là nghệ thuật, hay nói ngăn gọn nghệ thuật là mỹ. Cái mỷ của ông ta không phải là hiện thực mỹ, ,mà là mỹ nghệ thuật. Ông cho rằng cái danh xưng chính đáng của mỹ học là “nghệ thuật triết học”, hay gọi cho chính xác hơn là “triết học của nghệ thuật là Mỹ”. Căn cứ theo tên gọi Mỹ học là triết học của nghệ thuật, tức là trong lãnh vực nghiên cứu mỹ học, thiên nhiên bị loại trừ hẳn. Thế nhưng trong mỹ học Hegel vẫn nghiên cứu cái mỹ của thiên nhiên, tại sao lại có chuyện ấy? Vì ông cho rằng “ tâm linh và cái mỹ của nghệ thuật cao hơn thiên nhiên, cái cao hơn ấy lại không phải là thứ tương đối hay là sự khác biệt của lượng. Chỉ có tâm linh là chân thực nhất, và chỉ tâm linh mới bao hàm tất cả. Cho nên tất cả cái mỹ phải tiếp cận với cảnh giới cao hơn mới sinh ra nghệ thuật chân chính. Theo ý nghĩa đó mà nói thì cái mỹ thiên nhiên chỉ là phản ánh cái mỹ của tâm linh, cái mà nó phản ánh chỉ là một thứ hình thái bất toàn không là Thiện. Do đó mới thấy sở dĩ ông nghiên cứu cái mỹ của thiên nhiên là vì cai mỹ đó là hình thái phản ánh cái mỹ của tâm linh tức cái mỹ của nghệ thuật. Hegel cho rằng đối tượng nghiên cứu của mỹ học chỉ là cái mỹ của nghệ thuật.
Thứ 3 là Chevignon, trong lúc phê phán phái mỹ học của Hegel, ông này nhấn mạnh việc nghiên cứu cái Mỹ hiện thực. Nhưng ông ta lại cho rằng đối tượng nghiên cứu không nên là mỹ mà là nghệ thuật. Ông ta trong khi lý luận về Thi học của Aristote, viết rằng: “ Đại để Mỹ học là gì? Không phải là một thứ nghệ thuật, đặc biệt là thể hệ nguyên tắc Thi học? Trong khi nghiên cứu nghệ thuật, nên bao hàm cái mỹ trong ý nghĩa mỹ học, nhưng không hạn hẹp ở Mỹ, vì nội dung của mỹ học là nghiên cứu nghệ thuật, phản ánh trong sinh hoạt tất cả sự vật khiến người ta cảm thấy thích thú.
Ông cho rằng, nếu chỉ nghiên cứu cái mỹ trong mỹ học, như thế giống như sùng thượng cái gì cao cả, vĩ đại, hoạt kê, vv… đều không tiến được. Ông nói rằng: “Ví như mỹ học liên quan đến khoa học Mỹ, như thế khi luận về sùng cao hay vĩ đại thì không thể liệt nó vào trong mỹ học; nhưng nếu coi mỹ học là có liên quan đến khoa học nghệ thuật, như thế mỹ học cũng nên thảo luận là vĩ đại, vì nghệ thuât có lúc cũng miêu tả những cai vĩ đại, như nghệ thuật miêu tả hoạt kê, miêu tả hành vi thiện, miêu tả trong sinh hoạt có thể đối với chúng ta rất có ý nghĩa. Ông ta cho rằng mỹ học tức là nghệ thuật quan, hay nghệ thuật là một thứ quy luật bao trùm nghiên cứu đối tượng lớn hơn mỹ, và bao quát toàn thể lý luận nghệ thuật.
Thứ 4 là cho rằng mỹ học là nghiên cứu thẩm mỹ tâm lý học. Mỹ học của phái nầy là thuộc thuyêt “Di tình” và “tâm lý cự ly”,vv…Phái nầy nghiêng hẳn vấn đề nghiên cứu là: Trong kinh nghiệm mỹ cảm, tâm lý chúng ta hoạt động như thế nào? Cũng như sự vật như thế nào mới gọi là Mỹ? Đó cũng là vấn đề bản chất của Mỹ. Vấn đề ấy người khác coi là hàng thứ yếu. Sự nghiên cưu nghiêng hẳn về mỹ học, trong kinh nghiệm mỹ cảm tâm lý chúng ta hoạt động như thế nào? Như thế kinh nghiệm mỹ cảm là cái gì? Kinh nghiệm mỹ cảm tức là chúng ta thưởng ngoạn cái mỹ thiên nhiên và đó là hoạt động tâm lý khi gặp nghệ thuật mỹ. Thí dụ khi nghiên cứu câu thơ “ cảm thời hoa tiển lệ, hận biệt điểu kinh tâm” dẫn chúng ta đến mỹ cảm. Điểm chính yếu không phải là nghiên cứu bản thân hoạt động đặc biệt của hoa, chim mà là nghiên cứu cái đặc điểm của hoạt động tâm lý (kinh tâm, tiển lệ) cho nên hoa, chim thành đối tượng thẩm mỹ, là do kết quả hoạt động tâm lý trong kinh nghiệm mỹ cảm. Do đó cái phái cho rằng điểm trọng yếu của nhiệm vụ mỹ học ở chỗ phân tích kinh nghiệm mỹ cảm. Đó là đối tượng nghiên cứu mỹ học chủ yếu của trường phái tâm lý học cận đại.
Trong việc thảo luận vấn đề đối tượng mỹ học vẫn chưa có ý kiến nhất trí, nên muốn có một định nghĩa chính xác về mỹ học cũng rất khó khăn. Cho nên ở đây chúng ta chỉ có thể giới thiệu sơ lược về đối tượng mỹ học ở trước mắt, một số nội dung chính liên quan đến sự nghiên cứu như sau:
1-Vấn đề mỹ bao gồm bản chất phổ biến trong việc nghiên cứu, tức quyết định các thứ sự vật mỹ thành nguyên nhân mỹ là gì? Trong cứu cánh nghiên cứu mỹ theo cơ sở triết học có phải chủ quan không? Hay là khách quan? Hay là thống nhất chủ khách, vv… Mỹ và chân thiện có liên hệ hay khác biệt gì không? Trong mỹ có quy luật khách quan. Có hay không tiêu chuẩn khách quan?
Tại sao lại thuyết minh trong hoạt động thẩm mỹ chỉ có vấn đề tương đối tính? Tính tương đối và tiêu chuẩn khách quan mỹ làm sao lý giải thống nhất,vv…
2-Vấn đề kinh nghiệm thẩm mỹ, hay ý thức thẩm mỹ; đặc điểm nghiên cứu thẩm mỹ không giống với nhận thức khoa học, và luân lý đạo đức.
Mối liên hệ và khác biệt giữa mỹ cảm và khoái cảm, các yếu tố trong tâm lý mỹ cảm như tri giác, tưởng tượng, tình cảm và lý tính đều có quan hệ với nhau; những yếu tố ấy đều thuộc tâm lý thẩm mỹ học, Giống như trong việc khảo sát về đá rừng trong địa chất học, và việc thưởng ngoạn đá rừng trong mỹ học có cái gì khác nhau? Theo góc độ thực dụng mà đánh giá một cây thông và thưởng ngoạn cái mỹ của cây thông có những gì khác nhau? Như một họa sư vẽ hình những con cá vàng trên giấy trắng mà người xem vẫn cảm thấy như cá đang bơi trong nước dù trên giấy chẳng vẽ một giọt nước nào; khán giả xem xong đầy mỹ cảm.
3-Vấn đề nghệ thuật. Về mặt nầy có hai tinh huống:
a/ Là đối với bản chất nghệ thuật sáng tác, thưởng ngoạn và phê bình, phải nghiên cứu toàn diện, tức là theo triết học phải nghiên cứu quy luật của nghệ thuật.
b/ tình huống thứ hai là phải nghiên cứu nghệ thuật mỹ. Cả hai tình huống đều là kết hợp mối liên hệ giữa hiện thực và nghệ thuật, đó là vấn đề cơ bản của mỹ học phải tiến hành nghiên cứu.
Trong việc nghiên cứu nghệ thuật có bao hàm đến việc nghiên cứu mỹ học các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội họa, điêu khắc, vũ đạo, điện ảnh,vv… Chủ yếu là nghiên cứu đặc trưng mỹ học của các ngành liên quan đến hiện thực và nghệ thuật, các đặc điểm nghệ thuật trong sự sáng tạo, thưởng ngoạn. Nghiên cứu mỹ học của các bộ môn, tuy bị giới hạn trong các phạm vi nhưng vẫn thâm nhập vào việc nghiên cứu cụ thể để từ tính đặc thù rút ra được tính phổ biến, đó mới là khoen quan trọng trong việc nghiên cứu mỹ học.
4- Mỹ là sáng tạo. Thật ra mỹ mang tính thần bí, như mặt người đẹp che nhiều mạng lưới, chỉ có bóc ra từng lớp may mới thấy được. Nó như gần như xa, nó gắn liền với sáng tạo, hay có duyên phận vói sáng tạo và để dễ cầm nắm nên gọi Mỹ là sáng tạo.
Đó cũng là quan điểm của Croce, ông này cho rằng: “Mỹ là biểu hiện sự hoạt động thắng lợi của con người”. Khi giảng giải về tư tưởng mỹ học của mình, ông nói rõ hơn là hoàn toàn căn cứ trong phạm vi hoạt động của tâm linh. Thế nhưng không nhìn qua sự vật thì không sao biểu hiện được; tuy nhiên không phải dựa vào sự kích thích của sự vật, mà chỉ dựa vào “ấn tượng”. Ấn tượng là do ngoại vật kích thich mà cảm thụ được, nhưng nó dừng lại ở trạng thái thiên nhiên, bị động, và vẫn thuộc ở giai đoạn vật chất; chỉ đến khi tâm linh quán chiếu vào thì ấn tượng mới đạt được hình thức, hoạt động tâm linh quán chiếu tức là trực giác. ấn tượng trải qua trực giác đạt được hình thúc, hay hình tượng tức là biểu hiện. Cho nên mỹ là một thứ sáng tạo của tâm linh, thứ sáng tạo ấy khiến cho vật chất đạt được hình tượng hay hình ảnh.
Đã hay mỹ học là một môn học còn trẻ, nhưng lại rất xa xưa. Kể từ Baumgarten thiết lập trở lại, lịch sử mỹ học chỉ mới được hơn 200 năm, mà sách vở tư liệu viết về mỹ học lại quá nhiều mênh mông, không sao đọc hết được; huống chi lại chỉ viết năm ba trang thật không thấm vào đâu. Hơn nữa kiến thức của tôi về mỹ học cũng chỉ là thứ vơ vét mót lượm rơi rớt trên nẻo đường mòn của thân phận nghèo nàn đói rách… Mục đích của bài viết “Mỹ học là gì” chỉ là gắng gỏi để đáp ứng giải tỏa nỗi thắc mắc của kẻ hèn khi bắt gặp nhan đề cuôn sách “Thơ như là mỹ học của cái khác”của nhà lý luận phê bình Đỗ Lai Thúy.
Cái thắc mắc trước tiên của tôi là không hiểu “cái khác của mỹ học là gì, thì được ông ĐLThúy giải thích là qua diễn trình của Khoa học, triết học và nghệ thuật, đã làm tỏ lộ cái khác như là động lực phát triển của văn học, một hình thức chủ đạo của nghệ thuật…(CT- chữ xiêng là nguyên văn của ĐLT) Đúng là sự sáng tạo độc nhất của ĐLThúy, không biết cội nguồn nó xuất xứ từ đâu. Nó hơi có bóng dáng trong tác phẩm “L’ecriture et la difference”của Derrida (Sự tả tác và khác biệt), nhưng không có nghĩa là “mỹ học của khác biệt” hay là “động lực phát triển của văn học”. Nội dung của tác phẩm ông nêu rõ: đó là những cái khác của Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Lê Dạt, Đặng Đình Hưng, Bùi Giáng.Mỗi người một mặt khoe bày được cái Khác của mình như một cách tân thơ táo bạo, mặt khác kết hợp với những cái khác của người khác, đưa thơ Việt đi từ tiền hiện đại, qua hiện đại cập bến hậu hiện đại, nhịp bước cùng thế giới đương đại.
Về “mỹ học của cái Khác” có thể do sự dốt nát của tôi chưa biết đến; nhưng về những nhân vật Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi….đến Bùi Giáng thì tôi biết rõ. Họ là những người hấp thu được cái tàn tích văn học nghệ thuật nô lệ của thực dân Pháp, ít nhiều chịu ảnh hưởng của các trường phái tư tưởng văn nghệ tượng trưng, siêu thực… của Baudelaire, Mallarme, Rimbaud, Valery, Breton, Claudel vv…; nên cố tìm cho mình một đường lối cách tân thơ văn. Khoảng năm 1940-1941, nhóm Xuân Thu Nhã Tập ra đời với lý thuyêt Âm - Dương, Đạo -Đời… đủ thứ, thực tế họ cũng chưa biết mỹ học là gì. Và rồi do hoàn cảnh thời cuộc sự canh tân của họ cũng không đi đến đâu, có khi còn sụt lùi trở lại thời miêu tả hiện thực cổ lổ sĩ. Phần văn học trong Nam sau I955 thì có lớp trẻ như Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, Nhã Ca… có điều kiện tự do hơn được giao lưu với văn học nước ngoài, nên sự cách tân nở rộ…. Nhưng vẫn là những học đòi theo các bậc đàn anh trên thế giới, chứ làm gì có chuyện “đưa thơ Việt đi từ tiền hiện đại, qua hiện đại, cập bến hậu hiện đại, nhịp bước cùng thế giới đương đại” như ĐLT huênh hoang.
Khổ nổi vì sự huênh hoang đó mới ló đuôi chồn là Đỗ Lai Thúy không hề tiếp xúc với văn học nước ngoài; như thế chắc ông cũng không nắm được gì nhiều về kiến thức mỹ học.
Trước khi kết luận cho bài viết, tôi chỉ nói thêm một chút về cái tài của ĐLThúy là hay đặt chữ mới như “con vật lưỡng thê”, “mắt thơ”. Con vật lưỡng thê còn dễ hiểu, chứ từ “mắt thơ”, bản thân tôi cũng loạng quạng; tất nhiên không phải là Nhãn tự rồi, vậy chắc là lấy từ “Huệ hay Tuệ nhãn”, nhãn là mắt thì đúng, nhưng Huệ hay Tuệ đâu phải là Thơ, nó là cái tâm thuần thành giác ngộ, nó vượt lên trên mọi nhận thức trần tục. nó vô cùng sâu xa, muốn hiểu thấu đáo hãy chịu khó tra cứu trong Từ điển Phật giáo, không nên đặt bày bừa bãi. Văn học nghệ thuật Việt Nam cho đến nay vẫn chưa tiến được chút nào là do những cây đa cây đề như ĐLT vậy.