Tôi vốn học trò người xứ Bắc
Theo nghiệp văn chương đã lâu năm
Khoa cử lận đận nên tuyền hỏng
Chỉ thói chơi ngông chẳng ai bằng.
Bởi ngông nên văn như có lửa
Tài hoa cũng chẳng phải tay vừa
Họa ra một khổ thơ bảy chữ
Lý Bạch đầu thai khóc như mưa.
Ngông quá nên thi mới trượt luôn
Lòng này cũng chẳng lấy làm buồn
Về vườn mắc võng nằm vắt vẻo
Thường họa thơ chơi giễu quan trường.
Một ngày đương dạo vườn vãn cảnh
Bỗng thấy cuối tường chiếc giếng xanh
Cây phủ bốn bề che kín miệng
Lá rơi như rót mật chung quanh.
Bèn vén cành lên ngó xuống sâu
Thấy dưới giếng cạn đất úa màu
Nhưng tuyệt không thấy một chiếc lá
Mà trên miệng giếng lá chen nhau.
Thấy thế chợt nghĩ chuyện không vui
Bao cuộc thi cử cũng chán rồi
Văn nhiều như lá quanh gốc giếng
Mà chẳng chiếc nào rớt trúng nơi.
Kẻ ngông lúc ấy chợt tủi hờn
Tay quơ lá được kín một ôm
Thả xuống hòng lấp đầy giếng cạn
Rồi một mạch đi thẳng khỏi vườn.
Đêm ấy lúc ngủ ở trong nhà
Thấy phòng mờ mịt tựa khói pha
Chợt mình bé lại bằng hạt gạo
Thấy một bầy tiên nữ bước ra.
Tiên rước lên một cỗ xe hoa
Chở xe là một con nhện già
Nhện đi khí chậm mà thường xóc
Chẳng nhớ bao núi đồi băng qua.
Trăng lên giữa ngọn mới đến nơi
Xứ tiên cũng nhà cửa như người
Ai nấy mặt mày đều tươi tỉnh
Lúc nào cũng ngỡ như đương vui.
Trước sân điện ngọc lính xếp hàng
Dẫn hai bên kiệu dáng nghiêm trang
Áo gươm giáp mũ đều màu đỏ
Nhìn quanh chẳng có kẻ liếc ngang.
Tôi được dong thẳng vào tiên tòa
Vua tiên ấy chừng mới bước ra
Diện mạo phương phi da đỏ sậm
Cầm tay đón khách dắt xuống nhà.
Vua gọi mấy lão công bộc già
Đưa tôi đi tắm nước sương sa
Sai dọn tiệc tiếp quan Giám Sát
Tiệc toàn mật bướm với nhụy hoa.
Tiệc có cả tiên nữ đệm đàn
Có tiên mặc áo cánh xênh xang
Vua nhằm lúc vui còn giữa cuộc
Hỏi tôi bao giờ mới làm quan?
Tôi chắp hai tay mà thưa rằng
Kẻ này mới học đặng viết văn
Mơ thì chỉ dám mơ quan nhỏ
Mà vẫn lênh đênh suốt bao năm.
Thực lòng tôi chỉ hận thân tôi
Chẳng thâm sâu được nổi như người
Còn nhiều bồng bột cùng ngang ngạnh
Khoa cử rồi thi nữa cũng rơi.
Vua nghe chuyện xong mới cả cười:
Cái thói ngông ấy dễ trị thôi
Nay ta cho thuốc mà sửa tính
Rồi chóng làm quan để giúp đời.
Bèn sai tiên nữ lấy thuốc vào
Vua cầm tận chén rót mà trao
Thuốc tiên nghe chừng cay đắng lắm
Uống xong người cứ thấy nôn nao.
Rượu tiên chừng đã ngấm quá rồi
Xin rời bàn tiệc về nghỉ ngơi
Vua đỡ chân ra ngoài cung điện
Ghé miệng vào tai dặn mấy lời:
“Xưa ngươi che gió cho muôn nơi
Vốn là thân núi đá dưới trời
Bởi có lòng tu được căn quả
Nên kiếp này mới được làm người.
Bây giờ vừa trị được tính ngông
Làm quan Giám Sát nhớ giữ lòng
Che chở cho người như núi cũ
Chớ để bùn nhơ tấm thân trong.
Ngươi được run rủi đến chốn đây
Âu cũng là duyên của kiếp này
Nhớ tránh quỷ thần đừng đụng chạm
Như vốc lá rơi sáng hôm nay.”
Vua trông lên nhác thấy nắng vàng
Vội đẩy tôi bước xuống dưới thang
Vì còn nôn nao nên ngã gục
Lát sau thức dậy vẫn mơ màng.
Thấy mình nằm trong lòng giếng cạn
Chung quanh kiến nhỏ chạy đầy tràn
Có con kiến chúa thân đỏ sậm
Vội vã tìm đường lẩn xuống hang.
Thấy cả kiến lửa đứng thành hàng
Như bầy lính cũ vẻ nghiêm trang
Thấy cả kiến cánh tha thướt áo
Như bầy tiên nọ múa họa đàn.
Sau khi trèo ra khỏi giếng rồi
Tuyệt nhiên không dám ghé lại chơi
Tính tình cũng dường như đổi nết
Học hành có nét trội hơn người.
Từ đó văn thanh như lụa phơi
Mềm như suối chảy nước sông trôi
Thầy khen bạn mến người hiền hậu
Quên kẻ ngông xưa cũng là tôi.
Phải đến năm sau tôi đỗ Trạng
Đem về được áo mão vua ban
Mới ra thăm lại bờ giếng cũ
Lại thấy vườn xưa độc đất vàng.
Bấy giờ mới ngộ sự lạ kỳ
Người nhà chẳng ai biết điều chi
Xưa nay trong vườn toàn đất phẳng
Cũng chẳng có vết lấp giếng đi.
***
Kẻ văn nọ vốn người xứ Bắc
Làm quan cũng được mấy chục năm
Được vua bổ làm đầu Giám Sát
Thanh liêm hết mực chẳng ai bằng.
Đến già lựa lúc sắp từ trần
Dẫn con dẫn cháu ra trước sân
Trỏ vào góc vườn nơi bụi cỏ
Dặn lấy đó làm chỗ mộ phần.
14 V 2013