Dịch giả Phạm Đình Nhân là Chủ tịch Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu LS&VHVN, hiện ở 110 Ngõ 158 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Năm nay bác đã trên 80 tuổi, thuộc vào lớp người "xưa nay hiếm". Hiếm vì là nhà thơ cao tuổi đã đành, nhưng hiếm nhất chính là vi bác thông hiểu Hán tự. Lớp người như bác đúng là càng ngày càng ít đi đối với đất nước chúng ta hiện nay. Vậy nên khi nhận được tập "108 BÀI THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH" của bác gửi tặng tôi nghĩ mình có trách nhiệm phải giới thiệu càng rộng rãi càng tốt tới mọi người yêu thơ - nhất là với những người yêu thích thơ luật Đường (TLĐ), hiện đang sinh hoạt ở rất nhiều Câu lạc bộ TLĐ trên toàn quốc. Cũng là góp phần nhỏ vào việc lưu giữ cho thế hệ sau một tài liệu tham khảo cho kho tàng thơ Đường thu thập được từ trước đến nay.
Tập thơ gồm 108 bài thơ chọn dịch, chia làm hai phần.
Phần thứ nhất gồm 50 bài thơ Đường của 30 nhà thơ Trung quốc xếp theo vần A-B-C, phần thứ hai gồm 58 bài thơ chữ Hán của 36 nhà thơ Việt Nam xếp theo thời gian.
Tuy Ngọc Châu có được học 6 năm Trung văn ở trường phổ thông nhưng từ ngày ấy đến nay ít dùng, tri thức về Hán học rất hạn chế nên chỉ mong muốn được giới thiệu tới nhiều độc giả mà không dám luận bình gì về các bản dịch. Phần này xin giành cho người đọc có những phẩm bình sau khi đọc tác phẩm thơ của dịch giả Phạm Đình Nhân (mail của bác Nhân: (phdinhnhan@gmail.com ), điện thoai: 04.37221708 – 0987552467
Do dung lượng tập thơ khá dài nên mỗi lần chỉ giới thiệu từ 1 đến 2 tác giả, Ngọc Châu cũng mạn phép làm theo người xưa là góp thêm một số bản dịch của mình chỉ để cho sự cảm nhận bài thơ nguyên tác được phong phú hơn mà thôi.
1. BẠCH CƯ DỊ
(772 – 846)
Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, sinh vào năm thứ 7 niên hiệu Đại Lịch đời Đường. Ông là nhà thơ nổi tiếng, dòng dõi tướng Bạch Khởi nhà Tần, người quê phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Sinh tại huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam. Đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi. Làm quan nhiều nơi, về kinh làm việc được phong Hàn lâm Học sĩ, rồi được phong chức Thái tử Tả tán thiên Đại phu. Bị kẻ xấu vu hại nên ông bị giáng làm Tư mã Giang Châu thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Sau đó được phục chức và đổi làm Thứ sử Hàng Châu thuộc tỉnh Triết Giang, rồi Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô. Ít lâu sau được phong làm Thái tử Thiếu phó, tước Phùng Dược hầu. Về hưu với hàm Thượng thư Bộ Hình, mất vào năm 846, thọ 75 tuổi. Tác phẩm để lại gồm 3.840 bài thơ văn.
1. ĐÔNG DẠ VĂN TRÙNG
Nguyên tác : 冬 夜 聞 蟲
蟲 聲 冬 思 苦 於 秋
不 解 愁 人 聞 亦 愁
我 是 老 翁 聽 不 畏
少 年 莫 聽 白 君 頭
Phiên âm : Đông dạ văn trùng
Trùng thanh đông tứ khổ ư thu,
Bất giải sầu nhân văn diệc sầu.
Ngã thị lão ông, thính bất úy,
Thiếu niên mạc thính, bạch quân đầu.
DỊCH THƠ
Bản gốc do bác Phạm Đình Nhân dịch năm 2003:
Đêm đông nghe tiếng dế
Dế than rên siết giữa đêm đông,
Kẻ chẳng buồn thêm nặng nỗi lòng.
Ta vốn lão ông, nghe chẳng sợ,
Trẻ nghe, đầu tóc bạc như bông.
|
Bản Ngọc Châu mới dịch thêm
Tiếng Dế đêm đông
Đêm đông tiếng dế kêu than
Không buồn cũng thấy lòng man mác buồn
Ta già chẳng chút hãi hơn
Trẻ nghe đầu tóc xạc sờn bạc ra.
|
2. CHU TRUNG DẠ VŨ
Nguyên tác : 舟 中 夜 雨
江 雲 黯 悠 悠
江 风 冷 修 修
夜 雨 擿 船 背
夜 浪 打 船 頭
船 中 有 病 客
左 降 向 江 州
Phiên âm : Chu trung dạ vũ
Giang vân ám du du,
Giang phong lãnh tu tu.
Dạ vũ trích thuyền bối,
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách,
Tả giáng hướng Giang Châu.
Dịch thơ :
Bản gốc do bác Phạm Đình Nhân dịch năm 2003:
Trong thuyền một đêm mưa
Mây sông tối âm u,
Gió sông lạnh vi vu.
Mưa đêm mái thuyền thấm,
Sóng đêm vỗ mạn thuyền.
Trong thuyền có người bệnh,
Bị giáng về Giang Châu.
|
Bản Ngọc Châu mới dịch thêm
Đêm mưa dưới thuyền
Âm u mây tối trên sông
Vi vu gió ướp lạnh đông sông dài
Mái thuyền thấm nước mưa dai
Sóng đêm nhóc nhách vỗ hoài mạn nghiêng
Trong thuyền người bệnh lặng im
Cách quan, lệnh giáng về miền Giang Châu.
|
3. XUÂN ĐỀ HỒ THƯỢNG
Nguyên tác : 春 題 胡 上
胡 上 春 来 似 畫 圖
亂 蜂 圍 嬈 水 平 鋪
松 排 山 面 千 重 翠
月 點 波 心 一 顆 珠
碧 毯 綫 頭 抽 早 稻
青 羅 裙 帯 展 新 蒲
未 能 拋 得 杭 州 去
一 半 勾 溜 是 此 湖
Phiên âm : Xuân đề hồ thượng
Hồ thượng xuân lai tự hoạ đồ,
Loạn phong vi nhiễu thuỷ bình phô
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy
Nguyệt điểm ba tâm nhất khoả châu
Bích thảm tuyến đầu trừu tảo đạo,
Thanh la quần đới triển tân bồ.
Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ,
Nhất bán câu lưu thị thử hồ.
Dịch thơ :
Bản gốc do bác Phạm Đình Nhân dịch năm 2007:
Đề thơ xuân trên hồ
Xuân đến mặt hồ tựa bức tranh,
Nước trong lặng lẽ núi vây quanh
Thông đan lưng núi, nghìn trùng thắm,
Trăng dọi mặt hồ, hạt ngọc xanh.
Lúa sớm đầu đường như trải thảm,
Cỏ non cuối bãi tựạ dăng mành.
Vì chưa dứt bỏ Hàng Châu được,
Một nửa hồ đây đi chẳng đành .
|
Bản Ngọc Châu mới dịch thêm:
Thơ xuân viết trên hồ
Hồ xuân đẹp tựa bức tranh
Nước trong lặng lẽ vây quanh núi đồi
Ngàn thông lưng núi rực ngời
Sáng trong trăng rọi châu rơi mặt hồ
Đầu đường lúa thảm nhấp nhô
Cỏ non cuối bãi lô xô dăng mành
Hàng Châu dứt bỏ không đành
Nửa hồ xuân mãi loanh quanh khó rời.
|
4. LÂM GIANG TỐNG HẠ CHIÊM
Nguyên tác : 臨 江 送 夏 瞻
悲 君 老 別 淚 沾 巾
七 十 無 家 萬 里 身
愁 見 舟 行 風 又 起
白 頭 浪 里 白 頭 人
Phiên âm : Lâm giang tống Hạ Chiêm
Bi quân, lão biệt, lệ triêm cân,
Thất thập vô gia vạn lý thân,
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi, Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
Dịch thơ : Bên sông tiễn Hạ Chiêm
1. Thương ông, lão tiễn lệ nhoà,
Bảy mươi không cửa không nhà độc thân,
Buồn theo thuyền lướt gió xuân,
Bạc đầu cùng với sóng ngân bạc đầu.
Dịch 2004
2. Thương ông lão tiễn lệ nhòa khăn
Đã bảy mươi mà vẫn độc thân
Gió nổi thuyền đi buồn tiễn biệt
Bạc đầu lẫn sóng bạc đầu ngân
Dịch 2011
5. TỲ BÀ HÀNH (1)
Nguyên tác : 琵 琶 行
潯 陽 江 頭 夜 送 客
楓 葉 荻 花 秋 瑟 瑟
主 人 下 馬 客 在 船
舉 酒 欲 飲 無 管 弦
醉 不 成 歡 慘 將 別
別 時 茫 茫 江 浸 月
忽 聞 水 上 琵 琶 聲
主 人 忘 歸 客 不 發
尋 聲 暗 問 彈 者 誰
琵 琶 聲 停 欲 語 遲
移 船 相 近 邀 相 見
添 酒 回 燈 重 開 宴
千 呼 萬 喚 始 出 來
猶 抱 琵 琶 半 遮 面
轉 軸 撥 弦 三 兩 聲
未 成 曲 調 先 有 情
弦 弦 掩 抑 聲 聲 思
似 訴 生 平 不 得 志
低 眉 信 手 續 續 彈
說 盡 心 中 無 限 事
輕 攏 慢 撚 抹 復 挑
初 為 霓 裳 後 六 么
大 弦 嘈 嘈 如 急 雨
小 弦 切 切 如 私 語
嘈 嘈 切 切 錯 雜 彈
大 珠 小 珠 落 玉 盤
閒 關 鶯 語 花 底 滑
幽 咽 流 景 水 下 灘
水 泉 冷 澀 弦 凝 絕
凝 絕 不 通 聲 漸 歇
別 有 幽 愁 暗 恨 生
此 時 無 聲 勝 有 聲
銀 瓶 乍 破 水 漿 迸
鐵 騎 突 出 刀 鎗 鳴
曲 終 收 撥 當 心 畫
四 弦 一 聲 如 裂 帛
東 船 西 舫 悄 無 言
惟 見 江 心 秋 月 白
沈 吟 放 撥 插 弦 中
整 頓 衣 裳 起 斂 容
自 言 本 是 京 城 女
家 在 蝦 蟆 陵 下 住
十 三 學 得 琵 琶 成
名 屬 教 坊 第 一 部
曲 罷 曾 教 善 才 服
妝 成 每 被 秋 娘 妒
五 陵 年 少 爭 纏 頭
一 曲 紅 綃 不 知 數
鈿 頭 銀 篦 擊 節 碎
血 色 羅 裙 翻 酒 污
今 年 歡 笑 復 明 年
秋 月 春 風 等 閒 度
弟 走 從 軍 阿 姨 死
暮 去 朝 來 顏 色 故
門 前 冷 落 車 馬 稀
老 大 嫁 作 商 人 婦
商 人 重 利 輕 別 離
前 月 浮 梁 買 茶 去
去 來 江 口 守 空 船
繞 船 明 月 江 水 寒
夜 深 忽 夢 少 年 事
夢 啼 妝 淚 紅 闌 干
我 聞 琵 琶 已 歎 息
又 聞 此 語 重 唧 唧
同 是 天 涯 淪 落 人
相 逢 何 必 曾 相 識
我 從 去 年 辭 帝 京
謫 居 臥 病 潯 陽 城
潯 陽 地 僻 無 音 樂
終 歲 不 聞 絲 竹 聲
往 近 湓 城 地 底 濕
黃 蘆 苦 竹 繞 宅 生
其 間 旦 暮 聞 何 物
杜 鵑 啼 血 猿 哀 鳴
春 江 花 朝 秋 月 夜
往 往 取 酒 還 獨 傾
豈 無 山 歌 與 村 笛
嘔 啞 嘲 哳 難 為 聽
今 夜 聞 君 琵 琶 語
如 聽 仙 樂 耳 暫 明
莫 辭 更 坐 彈 一 曲
為 君 翻 作 琵 琶 行
感 我 此 言 良 久 立
卻 坐 促 弦 弦 轉 急
淒 淒 不 似 向 前 聲
滿 座 重 聞 皆 掩 泣
座 中 泣 下 誰 最 多
江 州 司 馬 青 衫 濕
Phiên âm : Tỳ bà hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan, thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy ?
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh long mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi “Nghê thường”, hậu “Lục yêu”
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy hạ than
Thủy tiền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giáo Thiện Tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân bề kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ô
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân, a di tử
Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ ?
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
”Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn Giang địa đê thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Âu nha trào triết nan vi thính
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vi quân phiên tác tỳ bà hành
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền, huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?
Giang Châu tư mã thanh sam thấp
Dịch thơ : Khúc Tỳ Bà
Tầm Dương đưa khách canh thâu
Hơi thu hiu quạnh, lách lau tiêu điều
Người xuống ngựa, khách buông chèo
Rượu nồng muốn cạn, sáo diều lại không.
Muốn say ngại biệt nỗi lòng
Trăng soi ánh nước mênh mông giữa dòng
Tỳ bà chợt vẳng trên sông
Chủ nhân nán lại, khách không muốn về
Tiếng đàn theo gió não nề
Đàn ngưng như dục người đi tìm hình
Thuyền bơi theo tiếng đàn tình
Rượu thêm, đèn sáng, tiệc dành khách vui
Khách qua thuyền, thấy ngậm ngùi
Ôm đàn che khuất nửa người tài hoa
Tám dây đàn luyến dạo qua
Nàng đang đưa đẩy khúc hòa quyện bay
Buồn sao từ mấy đầu dây
Than thân trách phận bấy nay đã nhiều
Mày chau, tay gảy phiêu diêu
Nỗi lòng sau trước trăm điều sót sa
Tiếng khoan dìu dặt ngân nga
Nghê Thường đi trước, sau là Lục Yên
Tiếng như mưa đổ thác nghiêng
Lại như trò chuyện những điều nhỏ to
Tiếng cao, tiếng thấp, thăm dò
Hạt châu, mâm ngọc nhỏ to dãi dầu
Nghe như oanh ríu rít nhau
Nghe như tiếng suối chảy mau từ nguồn
Dòng suối lạnh, tiếng đàn ngưng
Ngưng đàn, im cả giọng nhung ngọt ngào
Đàn tình lắng đọng trăng sao
Không thanh mà thắng cao trào hữu thanh
Bình nước bạc vỡ tan tành
Ngựa sắt sô tiếng đao rành như tuôn
Cung dương lựa khúc u buồn
Bốn dây như sé như tuôn mưa sầu
Đông tây thuyền lặng dãi dầu
Chỉ vầng trăng sáng khúc đầu sông trong
Trầm ngâm đàn đã trình xong
Áo xiêm chỉnh đốn những mong tự tình
Rằng : “Xưa vốn kẻ thị thành
Quê hương vốn ở nội thành Hà Mô
Học đàn từ thuở mười ba
Sớm thành tên tuổi tài hoa giáo phường
Gã thiện tài phục cô nường
Thu Nương ghen tức, cả phường ngợi khen
Ngũ Lăng say đắm một phen
Mang bao the gấm chuốc khen tiếng đàn
Vành lược bạc gõ nhịp đàn
Rượu làm hoen ố quần đào nhiều phen
Bao năm vui bén giao duyên
Gió trăng quên cả xuân niên qua dần
Em đi lính, mẹ lìa trần
Sắc xuân biến đổi mất dần tuổi xanh
Cửa ngoài xe ngựa vắng tanh
Liền cùng với khách thương đành kết duyên
Khách buôn ham lợi hám tiền
Phú Lương nay đến mai liền nơi xa
Bên sông nước, một gái già
Trăng thanh, nước chảy biết là về đâu?
Đêm khuya, đơn lạnh u sầu
Phấn son nhòa lệ còn đâu hình hài”
- “Tỳ bà nghe những u hoài
Lại nghe rầu rĩ một hai tự tình
Cùng lận đận cõi u minh
Biết nhau trước đã sau thành quen nhau
Kinh kỳ ta sống bấy lâu
Tầm Dương dưỡng bệnh mong sau yên lành
Tầm Dương nhạc vốn không sành
Lâu nay chẳng có khúc hành nghe vui
Đất Bồn Giang vốn lấp vùi
Lau vàng, trúc mọc quanh vùng vươn cao
Mà nghe tiếng ở đâu đâu
Đỗ quyên ríu rít, cuốc sầu thâu đêm
Hoa Xuân sớm, ánh trăng êm
Một mình với chén rượu riêng một mình
Chẳng đàn ca, chẳng sáo tình
Muốn nghe tiếng nhạc thực tình có đâu
Đêm nay tiếng nhạc vui sao
Tưởng như tiên hát ngọt ngào bên tai.
Hãy ngồi lại trổ thêm tài
Ta vì nàng sẽ soạn bài cầm ca.”
Cảm hoài nàng tạ lời ta
Bèn ngồi so lại dây đà kịp ngân
Nghe u uất khác mọi lần
Tiệc hoa lệ rớt tuôn dần xuống mâm
Lệ sao chan chứa âm thầm
Giang Châu tư mã áo đầm châu xa
Dịch năm 2010
(Còn tiếp)
(1) Tỳ bà hành là một bài trường ca 88 câu của Bạch Cư Dị mượn câu chuyện nghe đàn Tỳ bà trên bến Tầm Dương để nói về nỗi lòng của mình khi bị giáng chức đi làm Tư mã Giang Châu ở huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây (Trung Quốc).