Lời thưa: NXB Hội nhà văn & TTVHNN Đông Tây vừa cho ra mắt cuốn “Sóng hận sông Lô” của Vũ Ngọc Tiến. Đây là lần đầu tác giả thử nghiệm loại hình “Tiểu thuyết giáo trình” lịch sử thời Lê sơ, kết hợp với cách viết kiểu W. Faulkner nên nhiều “sự” mà ít “chuyện”, đậm đặc các mảng suy nghĩ, độc thoại, hồi ức đan xen vào miêu tả và rất ít khi xuống dòng. Thiển nghĩ, đã là thử nghiệm sách sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu xót. Tác giả cậy nhờ chủ Web lần lượt trích giới thiệu phần Vào sách và Chương 3, chương 12 của tác phẩm. Mong nhận được sự quan tâm góp ý của bạn viết, bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
(TTVHNN Đông Tây & NXB Hội nhà văn ấn hành tháng 7/2013)
THAY LỜI VÀO SÁCH
Hắn thấy trong người gây gây sốt, toàn thân như có dòng điện chạy qua. Thân xác hắn cứ bung biêng giữa không gian trong trạng thái không trọng lượng. Chợt một tia chớp màu xanh lóe sáng ở nơi vầng trán có huyệt Thiên Mục. Kế sau đó là ba tiếng sét nổ đanh, vang vọng trên đỉnh đầu, chỗ huyệt Bách Hội. Hắn lại trở về trạng thái có trọng lượng, rơi bịch xuống mặt đất và bừng tỉnh, nhận ra mình đang ngồi tọa thiền giữa Đại Hùng Bửu Điện của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Ai đưa hắn đến chốn này?... Vì sao hắn lại biết tọa thiền?... Trưa hôm trước hắn còn ngồi uống rượu trong lễ mừng thọ của Trần Long ở bến Kim Xuyên, cách nơi này gần ba mươi cây số đường núi?... Long là thằng bạn thân đang học khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thì đi bộ đội năm 1979, bị thương cụt mất một chân năm 1984 ở trận Lão Sơn, trên đất Hà Giang. Quê nó ở xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, nhưng lên xã Hồng Lạc, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang lập nghiệp đã mấy chục năm. Hắn hỏi: “Sao mày đang làm việc ở Viện Sử dưới Hà Nội lại điên khùng mò mẫm lên tận đây làm ăn?” Nó tỉnh bơ đáp: “Thời buổi này làm thằng trí thức nghèo thì nhục chứ sướng gì. Tổ tiên tao là cụ Trần Doãn Hữu, con trai cả của Đức ông Trần Nguyên Hãn đã từng lên bến Kim Xuyên lập nghiệp, giữa chừng gặp đại nạn. Cha chết ôm hận giữa dòng Lô, còn mẹ đưa cụ tổ trốn tránh ở rừng Thần bên kia sông, sau mới về lại Sơn Đông lập nên nhánh họ Trần truyền đến đời tao. Nay tao thử lên đây, đánh đu với số phận thêm lần nữa, thế thôi!” Trời - Phật thương nó nửa đời khốn khó, đầy mình thương tật. Sông Lô ban cho nó bãi cát vàng mênh mông hàng chục triệu mét khối. Long lập dự án vay tiền ngân hàng đầu tư thiết bị, thuê người múc cát vào xà lan chở về xuôi thu bộn tiền, trở thành đại gia nổi tiếng khắp vùng. Có tiền, nó đầu tư thêm bốn chiếc phà ở bến Kim Xuyên, thu cước phí qua phà của khách và các xe chở mía cho nhà máy đường, mỗi ngày hàng trăm triệu. Năm nay Long 49 tuổi, tính cả tuổi mụ là 50 tròn, còn lâu mới đến tuổi nhập thọ. Nó bảo, thủy tổ Trần Nguyên Hãn cũng chết tức tưởi, oan khuất giữa dòng Lô đúng vào tuổi ấy nên từ bao đời nay, đàn ông trong họ tộc đều làm lễ mừng thọ sớm trước 10 năm, cúng tế Đức ông Nguyên Hãn để Ngài phù hộ cho qua cái hạn “49 chưa qua 53 đã tới”, trường thọ mà hưởng lộc… Hôm ấy uống rượu mừng thọ xong, Long dẫn hắn lên mỏm núi nhô ra lòng sông ở bến Kim Xuyên ngắm nhìn hoàng hôn đỏ như màu huyết hắt xuống lòng sông, giữa đôi bờ bát ngát một màu xanh thơ mộng, huyền ảo. Trong ánh hoàng hôn bảng lảng sương khói, hắn nhìn thấy thấp thoáng bóng hình một ông lão mặc đồ cổ trang, vóc người vạm vỡ, gương mặt quắc thước, bộ râu dài phất phơ trước ngực. Đứng bên cạnh ông là người thiếu phụ trẻ đẹp đang mang bầu, sắp đến ngày lâm bồn. Cả hai bóng hình khi mờ khi tỏ, lúc chập chờn ở xa tận cuối chân trời, lúc lại xuất hiện rất gần, bồng bềnh trên sóng nước dòng Lô. Hắn cảm thấy tức ngực, hoa mắt, váng đầu khiến Long hoảng hốt dẫn bạn về nhà, gọi người cạo gió. Hắn uống hết bát nước gừng, lên giường nằm và thiếp đi. Nửa đêm hắn nghe có tiếng người gọi thầm bên tai liền vùng dậy và một bàn tay vô hình dẫn dắt hắn đi, đi miết. Từ bến Kim Xuyên, hắn như người mộng du lần theo đường cái quan ra thị trấn Sơn Nam, ven quốc lộ 2C rồi tắt ngang qua những con đường làng của xã Ninh Giang, tới ngã ba Đạo Trù thì hắn ngơ ngác không biết đi về đâu: một lối dẫn về trại giam của tỉnh Vĩnh Phúc; một lối qua cầu Chang bắc qua sông Phó Đáy, đi về phía trụ sở Huyện ủy huyện Lập Thạch; một lối ngược dốc núi Tam Đảo, đi về Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Đêm chìm vào sâu. Không gian bốn bề tĩnh mịch. Sương rơi mỗi lúc một dày thêm. Hắn đang hoang mang, bối rối chợt nghe trong tâm thức văng vẳng tiếng người: “Hãy theo ta lên núi, còn chần chừ gì nữa!” Bóng ông lão có bộ râu đẹp và người thiếu phụ trẻ mang bầu lúc chiều lại lờ mờ xuất hiện, đi trước dẫn đường. Bàn chân hắn bước đi cứ nhẹ tênh, lướt nhanh trên ngọn cỏ ven đường. Đến cổng Tam Quan bằng đá của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, hai bóng người kia biến mất, Thiền sư trụ trì mở cửa bước ra, nhìn hắn mỉm cười trìu mến, nói: “Nhà chùa đợi thí chủ lâu rồi…” Trong bóng đêm, đôi mắt của Thiền sư rực sáng, có sức thôi miên mãnh liệt, dẫn dụ hắn bước vào khuôn viên của chùa, đi thăm hết lượt qua Lầu Chuông, Lầu Trống, Đại Hùng Bửu Điện, Nhà Tổ, Nội Viện, Tăng Đường, Trai Đường… Vừa đi, hắn vừa nghe Thiền sư giảng giải rằng, nơi đây vốn là nền cũ của chùa Thiên Ân năm xưa do Thiền sư Cúc Khê tạo dựng, đã bị giặc Minh tàn phá. Đức ông Nguyên Hãn từng là học trò của thầy Cúc Khê từ năm 10 tuổi, đến năm 30 tuổi mới được thầy cho xuống núi nhập thế giúp đời. Nhà chùa nhận được tín hiệu từ trong cõi giới vô hình chờ đón thí chủ đêm nay đến đây tĩnh tâm tọa thiền để khai mở luân xa, lãng du vào miền quá vãng của lịch sử, gặp gỡ nhân chứng trong vụ án oan trên sông Lô 600 năm về trước. Thiền là giải pháp hữu hiệu mang đến cho hành giả một sức mạnh nội tâm hay nội lực. Thí chủ học phép tọa thiền là để an định cái tâm cho mình sau những tháng ngày vật lộn giữa cuộc mưu sinh, đầy rẫy sự bất an, vọng động. Khi tâm an định thì trí tuệ sáng suốt, đó là quy luật tất yếu trong mối tương quan giữa tâm và trí. Chư vị sư tổ nhờ thiền mà tâm an định sâu, chứng ngộ đạo quả, có trí tuệ siêu việt, thấy được chân lý của vạn hữu. Trong con người ta ai cũng có 7 luân xa ở tại những huyệt đạo có vị trí khác nhau cần được khai mở, nhưng quan trọng nhất là luân xa số 6 còn gọi là Thiên Mục, nằm ở giữa trán và luân xa số 7 tại huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu. Mở được hai luân xa này thì các luân xa còn lại không khó nữa. Lẽ ra học thiền phải rất công phu luyện tập trong nhiều năm, nhưng nếu cơ duyên nhà Phật cho thí chủ nương tựa vào Hồng ân tam bảo mà mở được luân xa trong đêm nay thì linh hồn sẽ có thể vượt qua biên giới của không gian, thời gian, may ra gặp được các nhân chứng lịch sử làm sáng tỏ nỗi oan của Đức ông Nguyên Hãn cũng nên. Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật! Nam mô Quán thế âm Bồ Tát!... Hắn ngoan ngoãn chắp tay trước ngực, nối gót Thiền sư bước vào Đại Hùng Bửu Điện, thắp nhang lễ Phật. Sau đó, theo lời chỉ dẫn của Thiền sư, hắn ngồi xuống sàn trong tư thế kiết già, khép hờ đôi mắt, luyện cho đường vận khí chạy đều trong mối tương quan giữa mạch Nhâm và mạch Đốc, điều tiết sao cho các đường kinh âm - dương kết hợp, nương tựa và chuyển hóa đều đặn qua nhau… Cảnh vật xung quanh thanh tịnh đến lạ lùng, chỉ nghe tiếng suối Tây Thiên róc rách, tiếng thông reo, gió thổi, ru hắn vào miền cực lạc, tâm hồn siêu thoát, ngộ ra cái lẽ vô thường của tạo hóa và cõi nhân sinh, rũ bỏ mọi ưu tư, phiền muộn. Hồi lâu, một tia chớp màu xanh lóe sáng ở nơi vầng trán có huyệt Thiên Mục. Kế sau đó là ba tiếng sét nổ đanh, vang vọng trên đỉnh đầu, chỗ huyệt Bách Hội. Một sức mạnh kỳ bí nâng bổng hắn lên cao, bay vút vào không gian giữa các vì sao trong dải ngân hà, nhập vào thế giới của các linh hồn đi mây về gió. Ở thế giới ấy, hắn chỉ cần nghĩ trong đầu một cái tên nào đó trong sách sử thời Lê sơ là lập tức linh hồn xuất hiện, kể vanh vách những mảng hồi ức, chẳng hề giấu giếm mọi âm mưu, tội lỗi đã từng xẩy ra trong quãng đời trần tục của mình…
Bạn đọc thân mến! Hắn chính là tác giả cuốn “Sóng hận sông Lô” mà các bạn đang cầm trên tay. Nó là truyện mà lại không phải truyện, chỉ là những ghi chép từng mảng suy nghĩ, độc thoại, hồi ức đan xen vào trong lời kể của nhân vật, được tác giả khâu nối lại để các bạn phần nào mường tượng ra sự thật lịch sử thời Lê sơ quanh số phận và cái chết oan ức, tức tưởi của Trần Nguyên Hãn trên sông Lô, giữa vòng xoáy tranh đoạt quyền lực muôn thủa ở cõi người. Và vì thế, hắn gọi những điều mình viết ra là “ký vãng lịch sử” mà sau buổi tọa thiền, gặp lại nhân chứng trong cõi giới vô hình, hắn về nhà đóng cửa phòng văn, miệt mài ghi chép lại. Nhân vật của hắn – những linh hồn trong quá vãng nhớ và nghĩ nhiều, nói ít. Cuốn sách nhiều sự, ít chuyện. Hắn cậy nhờ và vô cùng biết ơn bạn đọc mỗi người một vẻ, tiếp tục suy ngẫm và tưởng tượng thêm cái phần chuyện mà hắn bất tài, lười nhác đang còn bỏ dở…
Kỳ 2: TRÍCH CHƯƠNG 3 CUỐN “SÓNG HẬN SÔNG LÔ”
(TTVHNN Đông Tây & NXB Hội nhà văn ấn hành tháng 7/2013)
3. ĐÊM TRƯỚC HỘI THỀ
Nguyễn Trãi ngồi trong thư phòng trầm tư suy ngẫm. Sắp vào Đông Quan, lòng ông lại bồi hồi xao xuyến nhớ về hình ảnh người đẹp Nguyễn Thị Lộ năm nào gặp gỡ bên hồ Tây. Ông đâu phải kẻ phong tình gặp đàn bà con gái là ve vãn, tán tỉnh. Hồi đó, sau nhiều năm lưu lạc trên đất Quảng Tây của nhà Minh, ông tìm đường về nước, qua ải Nam Quan thì bị bắt giữ. Trương Phụ biết ông là người tài, có uy tín trong giới sĩ phu Bắc Hà nên dụ dỗ, ép buộc ông làm việc cho hắn không được, nhưng chưa muốn giết, đem giam lỏng tại một nơi vắng vẻ gần hồ Tây, hàng ngày cho ăn uống tử tế để suy nghĩ tiếp. Ông được phép đi dạo quanh nơi giam giữ, có hai lính nhà Minh đi theo kèm chặt. Tình cảnh ông lúc đó thật cô đơn, buồn tẻ. Cha bị đi đầy biệt xứ đã đành một nhẽ, nhưng không biết vợ con giờ đang ở Côn Sơn hay ly tán nơi nào, sống chết ra sao. Thế rồi một chiều, ông lững thững dạo chơi bên hồ, thả hồn vào những vần thơ cảm hoài về nỗi nước mất, nhà tan. Vô tình ông gặp nàng Lộ đi bán chiếu ở chợ trong kinh thành về, chủ động bắt chuyện với ông. Lạ thay! Cô gái tuổi mới vừa tròn trăng ấy lại làu thông kinh sách, thơ văn trác tuyệt, khiến lòng ông mê đắm. Hỏi ra mới biết nàng là con một của vị danh sĩ Bắc Hà, chán cảnh triều Trần mục nát, nhà Hồ cướp ngôi nên không chịu dự vào khoa bảng, sống thanh bần trong xóm nhỏ ven hồ, gần nơi ông bị giam lỏng. Nàng nghe tiếng ông từ lâu, chưa có cơ hội trò chuyện. Từ đó, mỗi lần đi chợ về, nàng Lộ lại ghé vào thăm, tiếp tế đồ ăn thức uống và giấy mực, cùng ông đàm đạo thơ văn. Nét chữ của nàng mềm mại, thanh tao, mỗi chữ giống như một bức tranh thủy mạc tuyệt mỹ của Tô Đông Pha đời Tống bên Tàu. Thơ nàng tinh tế, hàm súc, ý tại ngôn ngoại. Trong đời ông, gặp người tri kỷ như thế cũng bõ một đời văn. Nàng cũng bảo với ông, nàng không câu nệ tuổi tác, không chê phận làm lẽ mọn, miễn sao được sống bên người mình yêu là nàng mãn nguyện. Cái đêm đi trốn, ông lừa chuốc rượu cho lính canh, trốn khỏi nơi giam lỏng nên không tìm gặp nàng được. Bao năm xa cách, giờ nàng còn nhớ ta chăng? Lòng ông day dứt buồn... Bà vợ bé Phạm Thị Mẫn biết ý ông khi đã ngồi vào bàn không muốn ai quấy rầy nên pha sẵn cho ông một bình trà hoa cúc rồi nhẹ nhàng lui vào phòng trong với con trai. Lúc này đã nửa đêm, gần sang giờ Tý, cảnh vật bốn bề yên tĩnh, chỉ nghe tiếng côn trùng trong các bờ bụi, ao đầm của làng Bồ Đề kêu râm ran. Gió từ sông Cái thổi vào lồng lộng, mang theo cái rét tê tái da thịt. Cậu con trai Nguyễn Anh Vũ do bà Mẫn sinh ở Lỗi Giang mới ba tuổi, đang ngủ say trong lòng mẹ. Duyên số ông kể cũng lạ vì hai bà vợ đều do hai vị vua đầu triều đích thân làm ông mối xe tơ. Bà Trần Thị Bưởi làm vợ đầu của ông trớ trêu thay lại do chính vua Hồ Quý Ly lựa chọn, tìm trong gia quyến Trần Nghệ Tông một bà phi trẻ, còn sót lại đứa con gái đầu lòng xinh đẹp, nết na, tác thành cho Nguyễn Trãi, sau khi ông đậu Thái học sinh khoa thi năm Canh Thìn (1400) dưới triều nhà Hồ. Bà Phạm Thị Mẫn là em họ tướng Phạm Vấn cũng do đích thân Lê Lợi tác thành ở Lỗi Giang. Hồi đó, Bình định vương sau khi nghe ông trình bầy “Bình Ngô sách” đã rất tâm đắc, muốn thu phục hai anh em ông tận tụy với mình nên đã chọn vợ cho ông và Trần Nguyên Hãn. Gia cảnh bà Mẫn không được như bà cả, nhưng bù lại Nguyễn Trãi được người vợ thật thà, đảm đang lo toan mọi việc, giúp ông rảnh tay soạn thảo thư từ, bầy mưu tính kế cho chủ soái. Trên đường vào xứ Nghệ hay ra Bắc Hà ông có người vợ trẻ bầu bạn, đưa ông vào giấc mộng thiên thai, trong những đêm buồn nhớ quê, lo toan việc nước. Ông thầm cám ơn và nể phục Lê Lợi xứng đáng là đấng minh chủ để mình phò tá. Làm thủ lĩnh phải biết dùng người đúng với sở trường, sở đoản của thuộc hạ, biết quan tâm tới họ từ việc nhỏ đến việc lớn một cách tinh tế, kín kẽ. Về điểm này, ông thấy Lê Lợi là bậc siêu phàm, hiếm gặp trên đời. Song cũng có lúc ông hoang mang, chợn gợn vì không rõ ngoài vẻ mặt lúc tươi cười hay giận dữ thì bên trong chủ soái nghĩ gì. Vẫn biết trong vô vàn việc phức tạp ở đời thì việc dò lòng người là khó nhất, nhưng với Lê Lợi có lẽ là cực khó. Ví như cái việc ông ấy lớn tiếng mắng Lê Ngân, Phạm Vấn nghi ngờ Trần Nguyên Hãn ở xứ Nghệ, khi ông cử chú Hãn và Lê Sát chỉ huy chiến dịch bình định phương Nam, sau đó lui vào phòng trong thì thầm với cháu ruột Lê Khôi những gì không rõ, làm ta hôm ấy sởn gai ốc. Nhìn vẻ ngoài rõ là chủ soái tin dùng người đúng với tài năng của họ. Trên thực tế có thể người ít học như Lê Ngân, Phạm Vấn không biết, nhưng ta thì rõ lắm. Lê Lợi cho chú Hãn luồn sâu vào tận đèo Hải Vân để từ trong đánh ra Thuận Hóa quả là biết tài của Hãn và cũng rõ dưới trướng chú ấy có hai bộ tướng người Tày giúp việc thì lo gì thiếu thức ăn khi luồn rừng lội suối. Thật ra, diễn biến của chiến dịch lại cho ta lờ mờ cảm nhận vai trò của Lê Sát vừa là giải phóng phần lãnh thổ rộng lớn, giàu có từ bờ Nam sông Lam đến sông Linh Giang ở thành Tân Bình, vừa là tướng giám chiến đối với mọi biểu hiện bất thường của chú Hãn. Tuyệt chiêu này của chủ soái vừa làm ta phục lại vừa làm ta sợ. Đó là chưa kể đến việc Lê Lợi thừa biết Hãn và Sát không hợp nhau, bằng mặt mà không bằng lòng nên dùng kế khích tướng để hai người tự ganh đua nhau mà gắng sức trong chiến dịch cực kỳ khó khăn của nghĩa quân lúc ấy. Lại nhớ cái hôm Lê Lợi điều binh khiển tướng ra Bắc cũng là một tuyệt chiêu đáng nể sợ nữa của bậc minh chủ. Việc điều động Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái sang giúp Lê Tư Tề đi gọi hàng Đèo Cát Hãn là biết rất rõ sở trường, sở đoản của hai tướng người Tày không giỏi thủy chiến, chỉ tài đi rừng và có thể giúp con trai cả của chủ soái giao thiệp, đàm phán và thuyết phục cái gã chúa tể rừng xanh người Thái. Thế nhưng biết đâu trong bụng của Bình định vương còn có thâm ý tách họ ra khỏi chú Hãn để giảm bớt mối lo sau này thì sao? Chú Hãn là con nhà võ, cương trực, khẳng khái chắc không hề bợn lên suy nghĩ khác, nhưng ta thì gờn gợn nỗi lo xa xôi… Cái sự lo xa ấy dường như đang dần hé mở khi Nguyễn Trãi trong đoàn tháp tùng Lê Lợi từ xứ Thanh ra vây Đông Đô, đóng đại bản doanh ở làng Bồ Đề này. Tiền quân của Lê Sát có đội tượng binh của Phạm Hoành làm tướng tiên phong mở đường thị uy với giặc là ý tưởng độc đáo của chủ soái Lê Lợi. Nhờ thế Lê Sát đi đến đâu giặc Minh sợ tượng binh đến vỡ mật, quân chạy như đàn vịt, tướng như con chó con bị nhúng nước run lẩy bẩy. Hậu quân hộ tống Bình định vương đi đến đâu dân chúng nô nức ra đường bầy hương án đón rước chủ soái, khao đãi ba quân. Nguyễn Trãi nhớ như in ngày ông cùng chủ soái và đoàn tùy tùng, theo hướng Lê Sát đi trước mở đường nên đến huyên Duy Tiên thì tách khỏi đường thiên lý Bắc - Nam, vượt sông Cái qua phủ Hưng Yên. Vì vượt sông là việc khó với rất đông gia quyến các tướng lĩnh đi theo Lê Lợi nên Lê Sát đã cẩn thận cử người ở lại lo liệu chỗ ăn nghỉ cho các bà và trẻ nhỏ. Lê Lợi trong lúc chờ đợi đi tiếp đã dẫn theo Nguyễn Trãi và các mưu sĩ đi thăm thú cảnh vật, úy lạo dân chúng. Đến địa phận làng Hiến, Bình định vương vô cùng thích thú trước cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập như cái chợ nổi trên sông. Nguyễn Trãi hỏi dân mới biết và bẩm trình với Lê Lợi rằng, vì Đông Đô có chiến sự nên các thuyền buôn dạt hết về bến sông làng Hiến. Khách buôn không chỉ có người Việt mà có cả người Hoa, người Hồi Bột ở một nước Man Miến rất xa cũng kéo sang theo hướng Vân Nam của nhà Minh. Họ xuôi theo dòng Lô Giang và Thao Giang mang các vị thuốc quý, đá ngọc, nông cụ sang Đại Việt, đổi lấy lúa gạo, muối, nhất là đồ sứ mỹ nghệ của làng Bát Tràng, gần thành Đông Đô, nằm trong địa bàn có các trại binh của tướng quân Lê Sát mọc san sát từ làng Thượng Cát, Bồ Đề xuống tận các làng ở phủ Khoái Châu. Lê Lợi nghe xong mặt ngời rạng rỡ, vẫy mọi người theo vào con đường trục chính của làng Hiến càng thấy ngỡ ngàng, thích thú vì cửa hàng, cửa hiệu mọc lên san sát, sầm uất giống như dãy phố ở kinh thành Thăng Long xưa vậy. Bình định vượng chợt thốt lên rằng, đây không còn là làng Hiến nữa mà là phố Hiến mới đúng. Dọc đường về nơi nghỉ trưa, Lê Lợi đăm chiêu suy nghĩ rất lung. Trước bữa ăn ông gọi riêng Nguyễn Trãi vào buồng, bảo ông mở tấm địa đồ chiến dịch Đông Quan ra cùng xem. Bất ngờ, Bình định vương lấy bút lông khuyên tròn ba nơi: bến làng Hiến ở sông Cái, bến Kim Xuyên ở sông Lô và bến làng Thứa ở Lục Đầu Giang. Đương khi Nguyễn Trãi còn ngơ ngác chưa biết ý định quân sự gì của chủ soái thì Bình định vương ngả người cười rất to, đầy phấn khích. Có lẽ đến hết đời, Nguyễn Trãi không thể quên cái ấn tượng sâu sắc về những lời gan ruột của Lê Lợi tại làng Hiến hôm đó: “Ơ kìa ông Trãi, sao lại ngẩn tò te ra thế? Ta có bàn việc quân đâu, ta bàn việc kiến quốc nay mai đấy, ông có hiểu không? Ta vừa chợt nảy ra ý định biến ba nơi đã khuyên tròn này thành ba khu phố thúc đẩy giao thương khi nước nhà sạch bóng giặc Minh. Kinh đô sau này tất phải là Đông Đô chứ không thể là Tây Đô trong xứ Thanh. Nếu bao quanh kinh đô có ba nơi như ba khu phố kia làm thế chân kiềng, hỗ trợ cho việc khuyến nông, khuyến công, khuyến thương của triều đình tất dân giàu nước mạnh. Ta cũng đã luống tuổi rồi mà ông Trãi, ông Hãn còn hơn ta dăm tuổi. Cánh già chúng ta ngay từ bây giờ phải nghĩ kế dài lâu cho hậu thế là vừa. Ta nay thấy trong mình nhiều thứ bệnh, chẳng sống được lâu, còn hai ông cũng chẳng mấy chốc cáo lão về quê. Ông Hãn sinh ở Sơn Đông, gần bến Kim Xuyên trên Lô Giang; còn ông Trãi quê ngoại ở Côn Sơn, gần bến Thứa trên mạn Lục Đầu Giang. Vậy mai kia ắt ta phải cậy nhờ hai ông gây dựng hai nơi ấy thành nơi buôn bán tấp nập như phố Hiến. Hay! Haha, hay thiệt là hay…haha!...” Nguyễn Trãi nghe như nuốt từng lời, vừa mừng vừa lo, mồ hôi toát ra, tay chân lạnh cóng. Mừng vì chúa công quả thực là vị chân chúa, không hổ danh sẽ là vua nước Đại Việt, biết nhìn xa, trông rộng cho quốc kế dân sinh. Sợ và lo vì chúa công đã khéo gợi ý xa xôi rằng hai anh em ngươi nên sớm về quê. Chao ơi, sao mà chua chát, đắng cay! Đại nghiệp sắp thành mà minh chủ đã tính sẵn cách ruồng rẫy bọn đầy tớ trung thành, nhiệt huyết như ta và chú Hãn một cách tài tình không thể không bái phục, dù lòng ấm ức. Đời là thế chăng? Tình người muôn thủa là thế chăng?!... Người xưa bảo gần vua như gần cọp đâu có sai. Ý vua là ý Trời. Vua đã không muốn dùng thì bầy tôi phải chết, công càng to càng mau chết. Ta thì thế nào cũng được bởi ở quê ngoại bà Bưởi đã sinh được ba đứa: Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù. Giờ chúng cũng đã trưởng thành, có người nối dõi. Nàng Mẫn cũng đã kịp sinh được thêm bé trai Nguyễn Anh Vũ, đang ở gần bên ta. Chỉ thương chú Hãn, công lớn, binh quyền to, nếu có mệnh hệ gì trở tay không kịp. Cô Đào và cháu Trần Doãn Hữu vẫn mờ mịt tin tức; còn cô Tuyến cùng hai cháu nhỏ thì ở xa trong Lỗi Giang khó mà đoán biết được số phận, ta phải giục chú Hãn đón nhanh ra Đông Đô nay mai. Nói là nói vậy thôi, chứ tin tức bà Bưởi với ba thằng con trai ta cũng chưa rõ lắm. Chỉ nghe chú Hãn kể rằng đã về thắp nhang lên phần mộ cụ tổ Trần Nguyên Đán. Cụ Trần Thị Thái mẹ ta đã khuất núi vì tuổi già. Chú Phi Hùng em ta bị thất lạc trong một lần chạy loạn. Bà con xóm giềng bảo với chú Hãn rằng, mẹ con bà Bưởi lúc đầu chạy loạn về gần động Thanh Hư, sau đi đâu không rõ. Dẫu sao thì ta vẫn còn nhiều hy vọng tìm kiếm hơn chú Hãn tìm mẹ con cô Đào ở Tam Đảo rất nhiều. Chúa công ở trên lầu, Trãi ở tầng dưới, trong cùng căn nhà gỗ làm đại bản doanh mà sao đêm nay cách xa vời vợi thế này?!... Nguyễn Trãi mệt mỏi, gục đầu bên chồng giấy tờ, thư từ trao đổi với quân Minh, thiếp đi hồi lâu. Chợt ông bừng tỉnh, sực nhớ phải xem lại lần cuối các điều khoản thỏa ước trong Hội thề sáng mai, bẩm trình lên chúa công trước giờ đôi bên ký kết. Kể từ mùa đông năm Đinh Mùi (1427), sau trận Tốt Động, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi thảo 6 lá thư khuyên nhủ Vương Thông chấp nhận lui quân về nước sẽ được quân dân Đại Việt tha mạng và giúp đỡ, nhưng y vẫn ngoan cố trả lời lấp lửng nước đôi để chờ viện binh. Chỉ đến khi Trần Nguyên Hãn phá tan thành Xương Giang; Lê Sát chém đầu Liễu Thăng và sau đó hai người đại thắng quân Minh trên cánh đồng ngoài thành Xương Giang, bắt được Thượng thư Hoàng Phúc, giết chết Tổng binh Thôi Tụ… thì Vương Thông mới thôi giở trò câu giờ. Cái năm Đinh Mùi (1427) này sẽ là bài học nhớ đời cho Minh Tuyên Tông và lũ cướp nước Vương Thông. Tuy thế, sau lá thư thứ bẩy ông gửi đi, hắn vẫn đưa ra nhiều yêu cầu quá quắt, khiến có lúc Bình định vương cùng chư tướng quắc mắt chửi thề lũ giặc con trời phương Bắc. Nguyễn Trãi đã phải cố thuyết phục Lê Lợi chấp nhận cho người tìm Trần Cảo làm ông vua bù nhìn dăm bữa nửa tháng cho xong chuyện. Miễn sao nước ta được độc lập tự chủ, còn vua tôi nhà Minh có được chút thể diện. Riêng điều khoản thời gian rút quân thì hai bên vẫn găng nhau mấy ngày, Thông đòi một tháng chuẩn bị, còn bên ta chỉ đồng ý nửa tuần trăng là 15 ngày. Đôi bên sai người làm con thoi nói qua nói lại, cuối cùng Nguyễn Trãi phải ép Hoàng Phúc, Thái Phúc, Cầm Bành viết ba lá thư khuyên nhủ, Thông mới chịu thỏa thuận thời gian chuẩn bị rút quân như ta ấn định. Nguyễn Trãi đọc qua một lượt văn bản, khẽ mỉm cười đắc ý. Ông thầm nhủ, bọn Thông lì lợm kia, Trãi này biết tỏng âm mưu của mi lắm lắm! Thời gian càng dài càng sinh lắm chuyện, chúng bay kéo dài thêm ngày nào ta phải nuôi ăn ngày đó. Hơn nữa, ta thừa biết chúng bay đang cài đặt mạng lưới do thám để gây rắc rối cho Đại Việt sau này nên mới cần thời gian dài, chứ thâm tâm đứa giặc Minh nào cũng muốn về nước càng nhanh càng tốt. Và Nguyễn Trãi lại chợt giật mình khi trong danh sách tham dự Hội thề của quân Lam Sơn vẫn thấy Trần Nguyên Hãn đứng thứ hai, chỉ sau Lê Lợi. Ông đã thỉnh cầu chúa công đưa Hãn xuống hàng thứ ba hoặc tư sau Lê Sát, Lê Ngân, nhưng Lê Lợi không nghe, sai Bùi Ư Đài khi chép lại văn bản do ông soạn, lại giữ nguyên như cũ nên mới oái oăm thế này. Ông nghĩ, ta thừa biết công lao của chú Hãn trên Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn, sẽ không một người lính nào trong số 15 vạn nghĩa quân phản đối, nhưng các tướng tự cho mình từng dự Hội thề Lũng Nhai không phải ai cũng cam lòng. Khổ nỗi, cái danh hờ ấy cũng làm chú Hãn hớn hở ra mặt. Ta vừa gặp Hãn lúc chiều, bảo chú ấy tự mình lên xin chúa công điều chỉnh mà chú ấy không chịu nghe lời. Nỗi ám ảnh ở phố Hiến hôm nào luôn nhắc ta phải thận trọng, nhưng nói ra với chú Hãn lúc này chưa tiện. Ông Sát là người háo danh, hiếu sắc lại hay so bì hơn kém với người khác. Ở trận Xương Giang chú Hãn về kể, Sát và bộ hạ vào được trong thành là háo hức sục sạo tìm gái đẹp trong số các nàng hầu của tướng giặc, thay nhau đè ngửa ra hãm hiếp, còn vàng bạc, châu báu cũng thi nhau vơ vét đầy túi. Chú Hãn nổi đóa, đòi thu lại tất cả chiến lợi phẩm, đàn bà con gái tha tất nên hai người cự cãi nhau kịch liệt. May nhờ Bình định vương dự đoán được trước tình hình, truyền lệnh gấp cho ông Sát cùng Lưu Nhân Chú đi đón đánh viện binh ở Chi Lăng gấp, để chú Hãn ở lại giữ thành. Đây cũng là đề xuất của chú Hãn với cương vị tổng chi huy trận phá thành Xương Giang, nhưng lúc đầu ông Sát chưa chịu. Ta lại một lần nữa chứng kiến tài dùng tướng của chúa công vì Lê Sát có biệt tài đánh vận động chiến, Trần Nguyên Hãn có biệt tài đánh công kiên chiến. Thế là chú Hãn phá được thành, còn Lê Sát chém được Liễu Thăng, công tích chia đôi, lại kịp thời giàn hòa mâu thuẫn giữa hai viên đại tướng… Gần sáng, Nguyễn Trãi vào phòng trong, nhìn bé Anh Vũ đang ngủ ngon, thở đều. Ông lại nằm bên mép giường, đẩy con vào sát tường, choàng tay ôm lấy vợ hít hà. Nàng tỉnh giấc nét mặt rạng ngời, nhìn ông say đắm. Tay nàng vén áo, kéo ông úp mặt vào đôi bầu vú. Họ xoắn vào nhau, đắm chìm trong hạnh phúc ái ân. Thây kệ sự đời. Thây kệ số phận. Thây kệ những mưu toan tranh đoạt. Thây kệ ngoài trời đêm mưa lạnh, gió gào. Chỉ có ông và nàng…, chỉ có ông và nàng… Có một điều rất lạ về sự “đồng sàng dị mộng” vì khi nàng Mẫn đã ngủ say ông vẫn còn thao thức. Nguyễn Trãi trân trọng cuộc hôn nhân do chủ soái Lê Lợi sắp đặt. Ông thầm nghĩ, ta biết ơn nàng Mẫn đã xoa dịu nỗi cô đơn trên bước đường chinh chiến, lại đã sinh cho mình đứa bé Anh Vũ bụ bẫm dễ thương. Nhưng sao lúc này ta bỗng nôn nao nhớ Nguyễn Thị Lộ. Nàng đang ở đâu?... Đêm nay, đêm trước Hội thề chỉ vài bữa nữa thôi ta sẽ vào Đông Quan, nàng có nghĩ về ta, có còn chờ đợi ta?...
***
Nguyễn Trãi không thể ngờ, ở trên lầu, Bình định vương lầm rầm chuyện trò với Đinh Liệt từ chập tối đến nửa đêm chưa dứt. Cơm chiều xong, Lê Lợi sai người sang trại, gọi cháu mình đến, dặn rằng tuyệt đối giữ kín, không nói với nàng Minh Nguyệt hay bất kỳ ai. Lính hầu đưa thư cũng chỉ biết đại bản doanh gọi Đinh Liệt vì việc quân khẩn cấp. Minh Nguyệt nháo nhác chạy quanh, lo chỉnh đốn binh phục và khí giới cho chồng rồi giục chồng đi nhanh, việc quân đang đợi. Chàng đến đại bản doanh, leo lên lầu, hớt hải thưa: “Bẩm, chúa công cho gọi thần có việc gì?”. Ông khẽ mỉm cười, kéo chàng lại gần, vỗ nhẹ tấm lưng to như cánh phản, ôn tồn nói: “Người trong nhà không cần ra lễ, cứ gọi cậu, xưng cháu được rồi.” Đinh Liệt cảm động, gục đầu vào bờ vai ông. Hơi ấm của chủ soái phả lên gò má khiến tim chàng đập mạnh. Hồi lâu ông khẽ đẩy đứa cháu ra, bảo chàng cởi bỏ giáp trụ, thay bằng bộ đồ trong nhà do chính tay bà Nghiêu vừa may xong làm quà tặng cho cháu của bà mợ đảm đang, nhân hậu. Hai cậu cháu ngồi uống trà, đợi bà Nghiêu thu xếp chăn màn với chiếc gối nhồi hoa cúc rồi lui ra, kín đáo khép cửa. Thoạt đầu, ông hỏi thăm đôi vợ chồng trẻ sống ra sao, Minh Nguyệt đã có gì chưa. Ông cũng thoáng buồn vì trong hai đứa con của bà chị thì Đinh Lễ không may tử trận trong đợt công kích thành Đông Quan năm ngoái, giờ đã vừa làm giỗ đầu nên hết lời động viên Đinh Liệt. Ông cũng hỏi qua dư luận chư tướng về việc xếp Trần Nguyên Hãn đứng thứ hai, sau ông trên bảng danh sách do Bùi Ư Đài chép lại từ bản thảo của Nguyễn Trãi. Ông hỏi là hỏi thêm cho biết chứ lúc chiều viên cận vệ tâm phúc đã bẩm trình: các tướng gốc quê ngoài Bắc Hà đua nhau đến trại chúc mừng ông Hãn; các tướng gốc quê Thanh Nghệ thì không phục, ấm ức ra mặt, riêng có mấy vị Nguyễn Chích, Trịnh Khả, Đỗ Bí thì không thấy có phản ứng gì. Ông chỉ lưu ý lời nhận xét của cháu mình về Lê Sát, Lê Ngân không mấy tốt đẹp. Cậu cháu chuyện vãn chừng nửa canh giờ, ông bảo Đinh Liệt tắt đèn để hai người ngủ chung một đêm. Nằm bên chủ soái chàng mới giật mình thảng thốt thấy cậu ruột mình gầy yếu đi nhiều, đau nhức đầu gối và hay khúng khắng ho khan. Lê Lợi định nói thì chợt ho. Tiếng ho nghe gằn và kéo dài, như có gì mắc trong cổ họng làm ông giàn giụa nước mắt. Đinh Liệt vội vàng xoa ngực, muốn gọi người hầu hay bà Nghiêu mang thuốc vào, nhưng ông xua tay gạt đi. Ông bảo, chuyện đêm nay không ai được biết cháu đến ngủ cùng ta. Mai sẽ khai Hội thề với bọn Vương Thông. Ta muốn nhanh kết thúc cuộc chiến mà tốn ít máu xương con dân nước Việt nên chấp nhận mở Hội thề này cho chúng một chút thể diện, nếu là nước lớn đầu hàng nước nhỏ thì nhục quá! Trong bản thỏa ước, ta miễn cưỡng để cho một gã ất ơ tên là Trần Cảo làm vua cho tên Hoàng đế trẻ ranh Minh Tuyên Tông ban chiếu thừa nhận, còn mình lui xuống làm Quốc Công nào có mất mát gì. Giặc cút đi rồi, đợi Trần Cảo hưởng phú quý dăm bữa nửa tháng rồi cho hắn uống một chén thuốc độc, giống như theo lệ thì thằng tử tù nào cũng được con gà và đĩa xôi trước lúc ra pháp trường vậy. Sau hội thề, ta sẽ chính thức lên ngôi, bình công phong thưởng, mở ra một triều đại mới, nhất thiết phải vững mạnh, bền lâu hơn các triều vua trước thì ta mới hả lòng, cháu có hiểu không? Nhớ lần ta đi thị sát thành Tây Đô có ghé qua Vĩnh Lộc, trèo lên núi Sóc thì mơ gặp vua Lê Đại Hành báo mộng. Thần nhân nói ít hiểu nhiều. Ngài là dân gốc xứ Thanh, bố dỡ đó mẹ xó chùa, may nhờ theo cờ nghĩa của Đinh Tiên Hoàng mà sau làm vua nước Việt. Ngẫm lời trong mộng mà xét đoán thì ta nay đã già, sức lực giảm sút, chẳng sống bao lâu nữa. Sau khi ta chết, có lẽ triều đình gặp rối ren mất nhiều năm. Giành được nước, lên ngôi vua đã khó, nhưng giữ ngôi vua truyền mãi dài lâu mà nước giàu dân mạnh càng khó lắm thay! Cứ nghĩ đến giấc mộng ấy ta lại trăn trở, không đêm nào ngủ ngon giấc… Lê Lợi chợt lặng đi. Đinh Lễ vội nói: “Cậu ơi! Cháu nghĩ chẳng qua tại cậu lao tâm khổ tứ vì việc nước, việc binh nên thành ra mộng mị. Cháu xin cậu bình tâm kẻo lỡ có bề gì thì con cháu trong nhà, triều đình và con dân trăm họ biết trông cậy vào đâu!...” Không, lời thần nhân nói là ý Trời. Đã là mệnh Trời vận nước thì khó cưỡng. Ta chỉ có thể đón nhận, cốt sao cho điềm lành thì việc tốt hơn, điềm gở thì việc bớt xâu thôi. Đêm nay chỉ mình ta nói, cháu chỉ nghe và không được ngắt lời. Mỗi lời ta nói, cháu phải ghi tâm khắc cốt, đào sâu chôn chặt suốt đời. Cháu hiểu không?.. Trước hết, ta nói việc trong nhà. Gia tộc ta tổ phụ hiếm muộn nên chỉ sinh được ông Học, ông Trừ, bà Nhu với ta thôi. Ông Học không may chết sớm. Bác Lê Trừ của cháu hiền lành, ốm yếu, cũng vừa qua đời năm ngoái, may được cháu Lê Khôi trưởng thành, theo nghĩa quân lập được chút công lao, nhưng tài năng, tư chất bình thường. Khôi giỏi lắm cũng chỉ có thể giao cho trấn giữ thành Nghệ An gần quê hương Lam Sơn hoặc giao cho nó phụ trách quân ngự lâm bảo vệ hoàng cung thì ta tuyệt đối an tâm, tin tưởng. Ta chỉ buồn một nỗi thương ông Trừ vừa mới qua đời được hai năm, chưa hưởng phú quý lấy một ngày sau khi ta lên ngôi. Mẹ Lê Thị Nhu của cháu sinh được hai anh em văn võ song toàn, phong lưu đĩnh đạc làm ta rất mừng. Tiếc là cháu Lễ và tướng Lý Triện không may tử trận vào lúc chiến tranh sắp kết thúc như nước cờ tàn lỡ mất quân pháo, dù thắng vẫn khiến ta đau xót trong lòng. Nay ta ngoài mấy mụn con chỉ còn có cháu là tin tưởng yêu quý nhất. Nguyễn Trãi cũng nhiều lần nhận xét về cháu rất tốt, muốn bồi dưỡng cháu thành lương đống trụ cột lâu dài của triều đình. Cháu còn trẻ, tài cao, đức hạnh lại chịu khó đọc sách là điều đám tướng sĩ Lam Sơn gốc gác tiện dân không mấy ai làm nổi. Đêm trước Hội thề, ta muốn ngủ với cháu một đêm vì mai kia làm vua luật tục phiền phức, không dễ gì có cơ hội cậu cháu gác chân nhau, nằm chung giường thế này. Muốn cháu trở thành đại thần trụ cột ngay không dễ vì cháu còn quá trẻ. Cứ xem thái độ của các công thần phản ứng về bản danh sách dự Hội thề chiều nay thì cháu cũng rõ. Họ vốn ngộ nhận về mình, luôn coi thường cháu trẻ con, miệng còn hơi sữa, không chịu ngồi chung bàn đâu, nói chi việc chấp nhận cháu ngồi trên đầu họ. Cái khó của bậc vua chúa hay đại thần trụ cột là biết tính kỹ việc gần, đoán trúng và lo trước việc xa. Đối với quan lại trong triều phải có uy mà không cách bức, có nhân mà vẫn nghiêm khắc, không mềm nắn rắn buông mà cương nhu tùy lúc. Trong số họ ta phải nắm biết sở trường sở đoản, tin nhiều hay ít thậm chí không tin vẫn phải giữ kín trong lòng, ngoài mặt nồng ấm mà bên trong lạnh lùng, khi cần phải tàn nhẫn. Kẻ nào đáng giết thì giết, tha được thì tha. Lại có kẻ chỉ dùng lúc này còn lúc khác bỏ rơi hay thẳng tay tiêu diệt. Ta nói với cháu tất cả những điều trên là để lát nữa sẽ đi vào chi tiết từng việc, từng người mà căn dặn. Lỡ khi ta đột ngột qua đời, cháu phải là trụ cột của xã tắc, chỗ dựa tin cậy của các đời vua tiếp theo. Vị trí ấy không ai có thể tranh đoạt, còn tạm thời bây giờ vừa mới lập nước, công thần giành miếng tranh ghế đang nhiều nên cháu hãy nép mình trong bóng tối mà chờ lệnh của cậu. Anh hùng hay gian hùng chỉ khác nhau ở mục đích, còn hành xử cũng có chỗ giống nhau đấy. Ta tin cháu cũng là bậc anh hùng… Lê Lợi vừa nói vừa thở dốc, mắt trừng nhìn sâu vào bóng đêm. Ngoài sông gió mùa đông bắc thổi về lạnh cóng, lồng lộng và hung dữ như bầy sói hú trên ngọn cây, mái nhà. Sau vườn, tiếng côn trùng nổi lên eo óc, nỉ non như điệu kèn bát âm dài lê thê. Đinh Liệt nằm giữa chăm ấm, nệm êm mà sao thấy bên trong người lạnh đến thót tim. Chàng chờ Lê Lợi đỡ ho, nằm trầm tư liền gợi hỏi: “Chắc cậu đang suy nghĩ về việc lập Thái tử?” Điều ấy đương làm ta nát óc. Ta có bốn bà vợ, nhưng vì cuộc chiến gian khổ chỉ còn lại hai bà và ba đứa con, hai trai, một gái. Tư Tề đã trưởng thành, lập không ít công lao, được nghĩa quân yêu mến, nhưng nó lại quá nhân từ. Làm vua phải có máu lạnh, hiền quá cũng dở, ác quá cũng không nên. Điều làm ta ngại nhất là nó quá sủng ái ông Hãn, ông Trãi. Gia tộc ta, tổ phụ không đến mức là kẻ tiện dân như các ông Sát, Ngân, Vấn, Hoành, nhưng cũng chẳng cao sang, danh giá, chữ nghĩa nhiều đời chỉ lõm bõm. Ta sinh ở xó rừng Lam Sơn, nhờ bôn ba tự học thêm mà thành nghiệp lớn, chứ hồi nhỏ cũng cởi truồng chạy rông trong làng như con nhà tiện dân cả thôi. Hai ông ấy là dòng dõi tôn quý, được tất cả văn quan, võ tướng trong giới sĩ phu nể trọng. Nếu Tư Tề nối ngôi chắc sẽ dùng họ làm tả, hữu thừa tướng thì ta e quan, dân trăm họ sau này chỉ biết đến Trãi và Hãn, không biết đến vua. Ngặt vì bà Lữ là vợ cả, công lao nhiều và lớn, nghĩa tình với ta cũng thật sâu nặng. Không lập con bà ấy làm Thái tử thì ta có phần phụ bạc. Trong đám công thần gốc Thanh - Nghệ cũng có các ông Trịnh Khả, Đỗ Bí, Nguyễn Chích có tình cảm nhiều với Tư Tề. Lại nói về Nguyên Long, nó còn quá nhỏ dại, nếu lập làm Thái tử thì mai đây ai làm người phụ chính? Dùng ông Sát, ông Vấn, ông Ngân dễ hỏng việc, mà dùng hai ông Trãi, Hãn ta không muốn, vả chăng họ cũng không ủng hộ Nguyên Long làm Thái tử. Ngặt vì ở xứ Nghệ, lúc tế thần sông Cả, trước mặt bá quan ta đã hứa với nàng Ngọc Trần, lời vua không thể nói chơi, biết làm sao bây giờ?... Nói về việc trị nước an dân, có rất nhiều điều làm ta đau đầu, nhức óc. Thời bình cần những quan văn giỏi việc kiến quốc, nhưng đám sĩ phu nhiều chữ nghĩa lại không do ta đào tạo lên bằng khoa bảng. Trong tâm can họ đang còn vướng vất thời hoàng kim của hai triều Lý - Trần, coi ta chỉ là thứ “bạch ốc phát quân vương”, nghĩa là từ dân khố rách mà lên thì ngôi vị chẳng bền. Phải làm sao nhanh chóng mở khoa thi kén người giỏi do chính vua Lê đương triều sai người rọc phách chấm bài. Thời thịnh trị của Lý - Trần lấy Tam giáo đồng nguyên làm tiêu chuẩn người hiền tài, ta nay không muốn. Đạo Lão quá phóng túng, chỉ biết có vũ trụ, trời đất, không biết có vua, rất là nguy hại vì đạo trời thì mênh mông lắm. Đạo Phật lại khuyên người ta hiền lành, tốt bụng mà thói người thì “nhân dĩ hiếu đấu, dữ cầm thú đồng”, nghĩa là giống người vốn dĩ chỉ thích tranh giành, xâu xé như loài cầm thú cả thôi. Dùng đạo Phật cho dân gian theo để họ lành hiền mà ngoan ngoãn phục tùng, chứ đạo vua quan thì không thể hiền. Đọc sách Khổng - Mạnh ta không thích vì Mạnh Tử thường nói: “Dân trọng, Quân khinh.” Chỉ có đạo Nho đời Tống bên Tàu là dạy người ta rằng, khắp gầm trời đều là đất của vua, thân xác mình cũng là của vua, cha mẹ mình cũng là của vua. Ta muốn chỉ dùng một thứ đạo ấy để đám sĩ phu sau này chỉ biết sống chết thờ vua Lê, không cho bất cứ loại học thuyết nào xen vào đạo chính thống ấy. Muốn làm được như thế phải có thời gian, không thể ngày một ngày hai. Vì thế lúc đầu hãy tạm sử dụng đám sĩ phu có học cũ rồi loại bỏ dần, thay vào đó là những kẻ có chữ nghĩa do triều Lê ta nhồi sọ chỉ có một thứ đạo mà thôi, tất sẽ tuyệt đối trung thành, bắt chết phải chết, lấy đất phải nghe, bỏ cả cha mẹ cũng phải bỏ. Nước nhà vừa qua binh lửa, công thần nhiều, nhao nhao đòi hưởng quyền cao, chức trọng, bổng lộc của vua mà chức quan có ít. Để dẹp dần đám này phải có cách sao cho họ xâu xé, tranh giành mà hại lẫn nhau mới tránh được miệng thế chê cười, cũng qua đó chọn ra người ưng ý mà dùng tiếp. Ta đơn cử việc vây đánh thành Xương Giang làm bài học để cháu nghe, áp dụng sau này. Ông Hãn là nhân tài xuất chúng, không ai phải bàn cãi, nhưng ta chưa lúc nào yên tâm về lai lịch. Chẳng những ông ta xuất thân dòng dõi tôn thất nhà Trần, miêu duệ của Thái sư Trần Quang Khải, chắc gì chịu thần phục ta lâu dài, con một đầu mục quèn ở xứ Mường khỉ ho cò gáy và còn vì nhiều lẽ khác nữa. Ông nội Hãn kết thông gia với họ Hồ, con cái làm quan cho họ Hồ, nhưng ta nghe phong thanh rằng tâm địa họ luôn mưu đồ phục Trần diệt Hồ. Ta đã cố mai mối ông ta lấy một cô gái xứ Thanh làm thiếp, nhưng sinh hoạt của vợ con Hãn ở Lỗi Giang luôn gò theo kiểu cách con nhà dòng dõi cao sang, xét nét từng lời thưa gửi, mời chào, nết ăn, nếp ngủ chứ không chịu hòa mình theo dân bản địa. Bởi thế nên việc nào khó phải dùng đến Hãn ta đều cho Sát canh chừng. Đến trận Xương Giang, ta tìm cách chia việc cho mỗi người lập công ngang nhau, khi lập bảng danh sách dự Hội thề lại cho Hãn ngồi lên trên Lê Sát. Vì sao phải vậy? Chính là vì khai xong Hội thề, non nước thái bình mà để ông Hãn tiếp tục giữ binh quyền không lợi. Dùng Sát hằn học, ganh tỵ với Hãn lúc này là thượng sách, cháu cứ đợi mà xem. Với ông Hãn, nếu ta ra mặt loại bỏ sớm, lòng người sẽ ly tán vì ông ấy công lớn và trong sạch quá… Với đám võ biền, mỏng học như Sát, Ngân, Vấn, Hoành đơn giản hơn, trao quyền thật to, nhưng theo dõi thật gắt. Quyền thường đi với tiền và gái đẹp. Gã nào hư đốn sớm thì loại trước. Kẻ nào tội đã rõ rồi thì cỡ như cháu đứng ra vận động các công thần loại bỏ cũng không khó nữa. Trong số các công thần ta còn lo một người chính là Nguyễn Chích. Người này rất kín kẽ, thâm trầm, ít nói đến ta cũng khó dò nên cháu phải lưu tâm sau này. Chích người huyện Đông Sơn, tự mình khởi binh chống giặc Minh từ năm Quý Tỵ (1413), trước cả ta vài năm, lúc đầu lập căn cứ ở Vạn Lộc, sau kéo sang núi Hoàng và núi Nghiêu là nơi giáp ranh ba huyện Đông Sơn, Triệu Sơn và Nông Cống, có lúc đánh cả vào vùng đất phía Bắc của Nghệ An. Ta thấy thế lực ông ấy khá lớn nên cho người đi tìm căn cứ ở núi Hoàng, mời tham gia nghĩa quân Lam Sơn, Chích nhận lời nhưng chưa chịu sáp nhập quân với ta, vẫn đóng ở núi Hoàng ra chiều lưỡng lự. Đó là điểm ngờ thứ nhất. Cái sự ông Chích năm Canh Tý (1420) chính thức về với ta lúc đó đang khốn khó ở đất Mường Nanh, bằng việc ông ta tự mình mang quân ra đánh tướng giặc Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô làm quà ra mắt nghĩa quân khiến ta vui mừng, nhưng có chút khó chịu là điểm ngờ thứ hai. Công lớn của Chích là dâng kế đánh vào xứ Nghệ tạo bước ngoặt cho sự phát triển nghĩa quân Lam Sơn, nhưng thật ra khi đánh các trận Đa Căng, Trà Lân, Khả Lưu, Bồ Ải, nếu quân ta không có kế sách của ông Trãi ồ ạt giải phóng làng quê rộng lớn trước, phá thành sau sẽ không thắng nhanh và gọn đến thế. Sau việc này, ông Chích và ông Trãi thành bạn thân của nhau cũng làm ta có phần e ngại. Gần đây, mâu thuẫn nổi lên giữa hai nhóm công thần gốc Thanh - Nghệ và gốc Bắc Hà, ta thấy các ông Nguyễn Chích, Đỗ Bí, Trịnh Khả giữ im lặng đủ thấy họ dẫu sao vẫn là những người cẩn trọng, không kéo bè kết đảng nên có thể yên tâm giữ lại, nhưng phải cho họ trồi lên trụt xuống vài phen để dằn mặt rồi mới từ từ đưa họ nắm các chức vụ quan trọng mới bền chắc. Đó cũng là phép dùng người của vua và đại thần trụ cột, cháu nên nhớ kỹ mà chiêm nghiệm, thực hành. Lại nói riêng về nhóm công thần gốc sĩ phu Bắc Hà, các ông võ tướng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú nên loại bỏ sớm, còn như Nguyễn Trãi, Bùi Cầm Hổ, Bùi Ư Đài là quan văn ít nguy hiểm nên giữ lại dùng vào việc kiến quốc một thời gian, chờ khi triều đình nhà Lê ta trực tiếp đào tạo, kén chọn được lớp người sĩ phu kiểu mới, chỉ biết có Lê Lợi và triều Lê như đã nói khi nãy thì cho các ông ấy cáo lão về quê. Việc này, trên đường ra Bắc khi dừng lại ở bến sông làng Hiến, ta đã gợi ý xa xôi, người như ông Trãi hẳn sẽ ngầm hiểu và tự xử… Lê Lợi nói đến đây chừng thấm mệt. Ông khúng khắng ho rồi chìm vào giấc ngủ. Đinh Liệt nghe xong không sao chợp mắt được. Chàng cảm thấy hoang mang trước trọng trách vô cùng lớn lao do cậu ruột giao phó, thật rắc rối và có phần tàn nhẫn với riêng thầy mình là Nguyễn Trãi. Chàng không nhận cũng không được và hơn nữa thực hiện kế sách của Bình định vương cũng không đơn giản, dễ dàng…
***
Cũng trong đêm trước Hội thề, Vương Thông đang ngồi trầm mặc bên án thư, giữa cung điện nguy nga của hoàng thành Thăng Long cũ, giờ được đổi tên là Đông Quan. Tiếng là phiên soái ở xa, nhưng Thông được hưởng lạc có thua gì vua một nước. Hắn cay cú thầm nghĩ, ở đây lầu son gác tía, của ngon vật lạ, lụa là, gái đẹp đâu có thua gì Hoàng đế Minh Tuyên Tông, sao số ta hẩm hưu, gặp đối thủ khó chơi của xứ Nam Man này. Đại Việt gì chúng nó, trong con mắt của Hoàng đế nước ta, tất thảy các lân quốc đều là Man quốc, dân họ đều là Man di. Ta không ngờ ở xứ Nam Man lúc này cũng lắm người tài giỏi, ngoài Lê Lợi còn có vô khối người khác như văn có Nguyễn Trãi, võ có Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Trịnh Khả, Lưu Nhân Chú… Trương Phụ khi xưa đâu có hơn gì ta, chỉ gặp thời mà nên công tích thôi. Hồi ấy, Phụ dẫn 10 vạn quân sang, chưa đến Xương Giang thì cha con Hồ Quý Ly đã tháo chạy về hệ thống chiến lũy Đa Bang phòng thủ. Mấy năm trước đó, cha con họ Hồ đã dùng thuật đánh võ mồm, khoa trương lên rằng đã tập hợp được một đội quân đông đến 100 vạn người. Cả xứ Nam Man khi đó ước chừng vài trăm vạn dân, dẫu vét sạch trai tráng và đàn ông luống tuổi cũng chỉ đạt 50 vạn quân. Hồ Quý Ly xảo ngôn như thế càng lòi ra cái ý sợ Đại Minh ta binh hùng tướng mạnh mà thôi. Hắn quên rằng người Đại Minh ta là bậc thầy của chúng về thuật xảo ngôn nên Hoàng đế Chu Đệ trong chiếu ra quân cũng đã té nước theo mưa, tuyên chỉ cử 80 vạn quân chinh thảo Nam Man chứ thực chất Trương Phụ chỉ đem theo có 10 vạn quân. Vài chục vạn binh đối địch với 10 vạn binh của Trương Phụ mà cha con họ Hồ sớm tính chuyện phòng thủ ở Đa Bang thì quả sai lầm về binh pháp, chưa đánh đã run, lòng dân không thuận. Quý Ly đã cho chuẩn bị và có nhiều cải tiến quan trọng trong việc đúc súng thần công và đóng thuyền chiến. Việc quan trọng ấy được giao cho Tả tướng quân Hồ Nguyên Trừng đảm nhiệm. Cha con họ Hồ đã lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang ở chân núi Ba Vì, kéo dài theo bờ nam sông Đà, sông Hồng đến sông Ninh ở huyện Duy Tiên rồi lại đổi hướng tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Hinh… dài trên 400 dặm. Quân Minh mới ở cửa ngõ mà trong nhà cha con họ Hồ đã chẳng những không dám tin dân, lại còn sợ dân Bắc Hà thì cái họa mất nước đã rõ, súng thần công hay thuyền chiến hai tầng với 50 tay chèo của Trừng sáng chế hay mấy cũng là đồ bỏ đi. Lý An từ ngày ta sang nắm quyền ở đây rất hậm hực. Sau trận thua ở Tốt Động, hắn ra mặt mỉa mai nói kháy rằng, giá như lão tướng Trương Phụ sang cứu viện thì đâu đến nỗi! Trương Phụ lợi thế hơn ta ở điểm mấu chốt đó, Lý An giả mù, giả điếc hay sao mà không biết. Nhờ lợi thế ấy, Trương Phụ chỉ trong nháy mắt đã chiếm được hoàng thành Thăng Long cũ, làm chủ cả một vùng đất rộng lớn, nhất là đồng bằng sông Cái giàu có, đông dân thì cái chiến lũy Đa Bang kia quá dễ để phá sạch. Phải thừa nhận Hồ Nguyên Trừng cũng là nhân tài kiệt xuất ở xứ Nam Man. Chỉ trong vòng hơn một năm mà y đã huy động nhân lực đắp xong chiến lũy ấy khá là kiên cố. Trương Phụ phá xong chiến lũy Đa Bang, bắt sống Phạm Nguyên Khôi, Hồ Xạ và giết được Hồ Vấn cùng nhiều tướng giỏi, trong đó có Trần Mộng Dữ, Trần Thúc Quỳnh. Tiếc là năm đó ông ta không hề biết hai tướng họ Trần này còn có người cháu là Trần Nguyên Hãn để tìm bắt, diệt trừ hậu họa nên bây giờ cái họa ấy ta phải gánh chịu. Nay tình thế đã không thể đảo ngược, ta bị vây khốn ở Đông Quan hơn một năm, viện binh của Liễu Thăng đại bại, còn lão tướng già láu cá, hèn nhát Mộc Thạnh thì rút chạy về Vân Nam. Ta chịu hàng chúa Lam Sơn, nhưng phải tính sẵn kế toàn thân khi rút về nước. Bao nhiêu tội đáng chết, ta sẽ đổ hết cho lũ Thái Phúc, Cầm Bành, Hoàng Phúc sớm sợ chết, đã vội quy hàng bọn giặc cỏ Lam Sơn. Điều đó dễ ợt vì không có gì để bàn cãi, bênh vực. Vương Sĩ Thành, cha ta vốn là cựu thần triều Minh Thành Tổ từ khi Chu Đệ mới chỉ là Yên Vương, chưa cướp ngôi của cháu ruột Minh Huệ Tông, nhưng Minh Tuyên Tông bây giờ còn quá trẻ, chắc gì đã biết đến công lao các cựu thần thời ấy. Vì vậy, để toàn mạng sống ta đã ép được chúa Lam Sơn chấp nhận lập Trần Cảo làm vua để Hoàng đế nước ta ban chiếu chỉ công nhận, giữ thể diện cho Đại Minh. Điều khoản này lúc đầu rất căng vì các tướng lĩnh Lam Sơn đùng đùng nổi giận. May nhờ Nguyễn Trãi thuyết phục được chúa công của mình. Ta thừa biết đó chỉ là vua bù nhìn, sớm muộn chúa Lam Sơn sẽ lên ngôi, sáng lập triều Lê ở xứ Nam Man. Điều ấy chẳng quan trọng, vì cái chính là ta đã lập công không nhỏ làm cớ để Tuyên Tông miễn tội chết. Trãi là mưu sĩ hiếm có. Đọc các thư từ hắn trao đổi với Thái Phúc ở Nghệ An, Hoàng Phúc ở Xương Giang hay trao đổi với ta ở Đông Quan cũng đủ thấy văn tài của Trãi thua gì các danh sĩ Chu Hi, Trình Hạo đời Tống. Con người này mà phò giúp Lê Lợi thì Nam Man sẽ nhanh chóng cường thịnh, là mối nguy cho Đại Minh. Ta sang đây ngồi chưa nóng chỗ đã đại bại ở Tốt Động cũng vì con người đáng gờm này… Vương Thông ngồi chết lặng bên án thư, vò đầu nghĩ ngợi. Hắn vẫn lo ngày về nước những mưu tính kia chỉ đủ cho vua Tuyên Tông tha mạng sống, nhưng khó được trọng dụng như cha mình thời Minh Thành Tổ. Hắn vẫn muốn được vua yêu, cho mình cầm đại quân quay trở lại xứ này, tiếng là làm phiên soái nhà Minh, thực là vua một cõi. Hắn thèm khát được hưởng thụ ở cung điện xa hoa, tráng lệ do ông vua ăn chơi Trần Dụ Tông xây dựng còn để ở lại Đông Quan bây giờ. Chính cái ông vua hư đốn ấy đã mở đầu giai đoạn suy vong của triều đại nhà Trần từng huy hoàng rực rỡ, ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông. Bởi ăn chơi trác táng nên sau khi Dụ Tông chết mới nẩy nòi ra đứa con hoang Dương Nhật Lễ đội lốt con đẻ Cung Túc Vương, giết bà Hoàng thái hậu và Cung Định Vương toan cướp ngôi. Cung Tĩnh Vương dẹp được loạn Dương Nhật Lễ, lên ngôi và lấy hiệu là Trần Nghệ Tông thì nhà Trần đã suy yếu lắm rồi, mấy đời vua sau toàn là trẻ con vài ba tuổi. Từ đó cha con Hồ Quý Ly mới dần dần làm cho triều Trần đã nát càng thêm nát để cướp ngôi. Một năm qua, Vương Thông đã dày công nghiên cứu kỹ mấy đời vua cuối triều Trần, ngầm nuôi dưỡng ý đồ làm suy yếu Đại Việt bằng mưu kế giống như cha con họ Hồ phá nát nhà Trần để rồi sẽ phá nát triều Lê ngay từ lúc mới còn trứng nước. Hắn thèm khát quay lại đất này càng sớm càng tốt để không chỉ làm vua một cõi nước Việt mà hắn miệt thị gọi là Nam Man. Hắn muốn vua Tuyên Tông giao cho mình cả bộ binh và thủy binh để làm bá chủ cả một vùng rộng lớn các nước ven biển phía Nam gồm Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La và đảo quốc Chà Và. Là viên tướng nhà nòi, hơn ai hết hắn hiểu rõ khi xưa cha mình đã thử sức giúp Minh Thành Tổ đi đánh Xiêm La từ hướng Man Miến không thành chỉ vì rừng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc. Con đường nhanh và dễ nhất để thực hiện ý đồ này là quay sang chiếm Đại Việt một lần nữa. Thủy binh của Đại Minh, từ cuối đời Chu Đệ đã lập nên lực lượng thủy chiến của Trịnh Hòa rất mạnh. Hắn thầm nhủ lòng, trước mắt ta sẽ xin với Tuyên Tông hoàng đế sai Trịnh Hòa lập một vài phân đội thủy binh, cải trang thành hải tặc chuyên săn lùng thuyền của ngư dân và khách buôn nước Nam Man đáng ghét này mà cướp giết thật tàn bạo, khiến chúng khiếp vía không dám ra khơi. Ta tin chỉ trong vài năm, cả một vùng biển bao la, giàu có của Nam Man sẽ thành lãnh hải của Đại Minh. Các đảo xa bờ của Nam Man, cái nào chiếm được thì chiếm; cái nào chưa chiếm được thì vua ta sai người lén chôn một ít cổ vật đời Hán, đời Đường làm chứng lý cho Đại Minh sau này. Nhưng về lâu dài, ta muốn làm chủ vùng biển này thì trong bờ phải mạnh, nên đất liền của Đại Việt và Chiêm Thành phải chiếm bằng được mới mong thành công… Hơn một năm qua, hắn ngồi ở Đông Quan hưởng thụ vô vàn thứ hải sản quý hiếm của vùng biển phương Nam ấm áp, càng khiến hắn say sưa ôm mộng. Hắn sắp phải về nước nên càng luyến tiếc những cô gái phương Nam xinh đẹp, hấp dẫn còn hơn hẳn người đẹp Tô Châu quê nhà. Trong cung điện ở thành Đông Quan, Vương Thông tuyển chọn bắt về hàng mấy chục mỹ nữ xứ Kinh Bắc biết hát hay đàn giỏi để giải sầu trong lúc bị bao vây. Thú khoái lạc mê ly nhất là mỗi buổi chiều hay lúc nửa đêm, hắn sai đun mấy nồi nước thơm có lá hương nhu, hồi, quế rồi pha vào bể tắm lớn ghép bằng gỗ hoàng đàn trên dãy núi Hoàng Liên của vua Trần Dụ Tông mà Trương Phụ cướp được từ tay Hồ Quý Ly để lại. Thế rồi hắn trần truồng ngâm mình nửa nằm nửa ngồi trong bể nước thơm, bắt hai mỹ nữ Kinh Bắc cũng trần truồng cùng vào bể. Một cô đứng trước mặt múc nước gội đầu cho hắn liếm láp nghich ngợm nơi nhậy cảm của đàn bà; còn một cô khác nằm úp mặt vào cái của quý của hắn. Thỏa thê rồi hắn mới đè ngửa từng cô ra làm tình, hú hét man dại. Cái thú khoái lạc ấy chỉ còn nửa tuần trăng thôi là chấm dứt. Vương Thông nhắm hờ đôi mắt cú vọ, nhớ lại những giây phút khoái lạc mê ly ấy mà lòng cồn cào tiếc và cay. Y lại nghĩ tiếp, ta đã cố nèo kéo Nguyễn Trãi kéo dài thời gian rút quân thành ba tháng, rồi một tháng vẫn không được. Riêng khoản này, Trãi kiên quyết đến cùng. Có thể ông ta không biết đến ý đồ kéo dài sự khoái lạc kia, nhưng hai điều ta muốn làm yếu nước Nam Man thời hậu chiến thì chắc Trãi rất hiểu nên mới gan lỳ, giữ vững điều khoản này trong Hội thề sớm mai ở làng Bồ Đề. Thứ nhất, ta đã tính kỹ về lượng thức ăn, củi gạo nuôi mấy vạn tù binh trong vài tháng, thậm chí chỉ cần một tháng cũng đủ làm cho chúa Lam Sơn khốn đốn nhiều mặt và khẩu phần của lính nhà Minh ta đòi gấp đôi cho bõ tức. Thứ hai, mạng lưới do thám ta gài lại để mê hoặc và chia rẽ nội bộ, giết hại những nhân tài trong đội quân Lam Sơn thì Trãi cũng lờ mờ hiểu; còn ta rất cần thời gian củng cố mạng lưới đó. Binh pháp Tôn Tử chỉ đề cao đội quân ngầm này ở mặt do thám tin tức, với ta thì muốn nó làm nhiều hơn thế mà phá nát triều Lê, đợi ngày đem quân đông, tướng giỏi sang làm cỏ Nam Man. Chưa đánh thắng chúng bằng sức mạnh cứng của gươm đao thì ta sẽ đánh thắng chúng bằng sức mạnh mềm của tiền bạc, gái đẹp và sự mê muội bởi thứ tà đạo. Tuyệt chiêu này đã có từ thời tướng quân Trương Phụ gài được đạo sĩ Thanh Trúc vào quân doanh của Phạm Vấn. Nay ta đã mở rộng thành một mạng lưới giăng kín xứ này gồm các thương nhân, đạo sĩ, thầy bói, thầy lang… Cái khó cho việc lên kế hoạch và giao việc cụ thể cho bọn người này là phải nắm thật chắc nội tình của đối phương. Thái Phúc, Cầm Bành từ lần lên Xương Giang gọi hàng đã được chúa Lam Sơn đặc cách nới lỏng việc giam giữ, còn Nguyễn Trãi thì phần nào coi Thái Phúc là khách văn chương nên cũng đôi lần mời đến đàm đạo về Đường thi. Ta đã cử người bí mật sang bên kia sông liên lạc với hai người dọa dẫm tội chết và giao nhiệm vụ do thám. Đạo sĩ Hạo Nhiên đang ở Phong Châu rất có tiếng tăm về đạo pháp, ta cũng cho người gọi về Đông Quan, chỉ nay mai sẽ có mặt. Thương nhân Chu Đại ở làng Hiến, Lý Uyên ở Đông Quan và nhiều thương nhân khác ở bến Thứa, khi cần sẽ triệu hồi gấp về bản doanh của ta nhận nhiệm vụ. Đặc biệt là mụ Lệ Hoa, chủ lầu xanh khét tiếng ở gần ải Nam Quan đã được ta đưa sang đây, cấp tiền tuyển mộ mỹ nữ gia cảnh đang gặp khó khăn ở vùng Kinh Bắc và ngoại vi thành Đông Quan, chờ lúc cần đến. Để chắc ăn, ta đã dặn mụ Lệ Hoa đưa cho gia quyến họ rất nhiều vàng, lụa, châu báu, nhưng với điều kiện phải gửi bố hoặc anh trai cho mụ giữ trong lầu xanh làm tin rồi bí mật mang con tin về bên kia biên ải. Nhân sự đã có, chỉ cần tổng hợp tin tức phía quân Lam Sơn là ta yên tâm rút quân về nước, tâu trình kế hoạch làm suy yếu Nam Man lên Tuyên Tông Hoàng đế, lấy công chuộc tội, nhất định Hoàng thượng sẽ hài lòng. Mai là ngày khai Hội thề với chúa Lam Sơn. Ba hôm trước ta đã dùng kế đòi hai bên trao đổi con tin để đảm bảo an toàn cho mình và đoàn tùy tùng. Phía quân Minh, ta đề xuất gửi Lý An cùng hai tướng Sơn Thọ, Mã Kỳ là bắn một mũi tên trúng hai đích. Lý An từng là Tổng binh trước ta, một con bài cộm cán như thế tất chúa Lam Sơn vừa tin vào thành ý của ta, vừa phải chấp nhận cử con trai cả Tư Tề sang đây làm con tin. Lý An sang đó đã được họ đãi làm thượng khách sẽ là cái cớ để ta loại bỏ Lý An khi về nước vì hắn thường cậy thế có người nâng đỡ ở triều đình. Tư Tề sang đây cũng được ta hậu đãi, nhưng con người này rất có bản lĩnh, không khai thác được tin tức gì. Lẽ thường, những kẻ ít tuổi, vừa trải qua tháng năm gian khổ, giờ được sung sướng sẽ bị mê hoặc bởi rượu ngon và gái đẹp, nhưng chàng dũng sĩ trẻ tuyệt nhiên không. Người này là con cả của chúa Lam Sơn, nếu một mai nối ngôi, có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn phò tá thì ta hóa thành công cốc công cò. Phải tìm mọi cách không cho Tư Tề được phong làm Thái tử. Tin tức từ đạo sĩ Thanh Trúc hồi ở Nghệ An đã sớm báo về việc lừa mị được vợ chồng Phạm Vấn trong vụ tế thần sông Cả để Lê Lợi hứa sẽ phong đứa bé 3 tuổi Nguyên Long làm Thái tử. Tuy vậy, Lê Lợi là kẻ đa mưu túc kế, chắc gì lời hứa đó sẽ thành sự thật. Nhiệm vụ nặng nề của Hạo Nhiên, Thanh Trúc sau này là tìm mọi thủ đoạn để đưa Nguyên Long lên làm Thái tử thì ta mới yên tâm…
***
Tư Tề vào thành Đông Quan đã được ba ngày. Mai mở Hội thề, chàng sẽ được trở về bên cha và vợ con, bên tướng sĩ dưới quyền nên thao thức, bồn chồn, khó ngủ. Nhớ hôm ra đi, cha chàng chỉ ôn tồn dặn: “Lần này đi làm con tin, nhưng cũng là một cách đi sứ, con nên cẩn trọng. Đã đi sứ thì không làm nhục chủ, tổn hại đến quốc thể. Giáp mặt với bọn Vương Thông, con phải tỏ rõ khí phách nam nhi đại trượng phu, nêu cao đại nghĩa của quân dân Đại Việt. Ta nói ngắn con tự hiểu nhiều. Đi đi, cha tin ở con.” Bà Nghiêu từ lúc biết tin cứ làu bàu, rền rĩ, lo lắng cho chàng lỡ có mệnh hệ gì. Lê Lợi trừng mắt, mắng át và bảo: “Nó đi rồi khắc về. Quân ta ở thế thượng phong, chúng há nào sinh bụng nọ kia. Bà phải động viên nó chứ. Rõ là giống đàn bà đái không qua ngọn cỏ.” Cha nói vậy, nhưng thâm tâm chắc cũng cảm động vì bà mẹ kế chuẩn bị bánh chưng và rượu, đồ dùng sinh hoạt tỉ mỉ, chu đáo không thiếu thứ gì. Bà dặn đừng có ăn thức gì của chúng nó mà lỡ bị đầu độc thì khốn. Cái lũ giặc Minh là thâm nho, hiểm độc lắm!... Chàng vào thành được Vương Thông tiếp đón trịnh trọng, toan mở tiệc khoản đãi, nhưng chàng từ chối đáp: “Cám ơn Vương tướng quân! Tôi có mang theo nước uống, thịt muối, cá kho đủ dùng cho mình và tùy tùng trong ba ngày, không dám phiền đến ngài.” Vương Thông cố ra mặt chân tình, vồ vập mời dai, nhưng chàng cương quyết cự tuyệt. Trong lúc nói chuyện, hắn luôn giở thuật vòng vo tam quốc một hồi mới bất ngờ thò ra ý định gợi hỏi về nội tình quân Lam Sơn, chuyện các tướng lĩnh hay chuyện lập người nối dõi của cha, chàng đều tảng lờ, lái sang việc giao hảo giữa hai nước sau này. Tư Tề chỉ nhăm nhăm dò hỏi tin tức về hài cốt của mẹ mình. Chàng biết trong trận tập kích nghĩa quân năm đó có ba mũi quân do Trần Trí, Mã Kỳ, Sơn Thọ chỉ huy, mong được gặp họ để may ra có chút hy vọng, nhưng đều thất vọng. Họ đều trả lời rằng, xác bà Lữ trôi về đâu không rõ, phía quân Minh cũng muốn tìm vớt lên để dụ hàng hoặc phục kích cha chàng thêm lần nữa mà vẫn không tìm thấy. Chàng buồn khôn xiết, đau tức trong lồng ngực vì thương mẹ bao năm cơ cực, vất vả việc nhà, long đong việc nước. Sau cuộc chiến tàn khốc này, chàng quyết sai người tìm kiếm, dù phải băng rừng, lội suối năm năm, mười năm hoặc lâu hơn thế cũng tìm. Chàng nhớ từng ánh mắt, cử chỉ âu yếm của mẹ; nhớ đôi vai gầy, bàn tay thô nháp của bà Lữ ở căn cứ Lam Sơn những ngày gian khổ nhất. Nhớ mẹ bao nhiêu, chàng thương cha bấy nhiêu. Vắng mẹ Lữ, bà Nghiêu chỉ bù đắp cho cha bằng bữa ăn, giấc ngủ, vá may chứ cách cư xử, lời nói còn vụng về, sao sánh được với mẹ Lữ. Mấy bà vợ sau của cha ngoài một việc chung chăn gối chỉ là gánh nặng cho cha trên đường đánh giặc mà thôi. Giờ cha đã già, trong người ủ nhiều mầm bệnh. Cuộc chiến sắp kết thúc, chư tướng sẽ nhàn hơn, nhưng cha thì càng nhiều việc phải lo. Cái lo của chủ soái khác cái lo của thuộc hạ. Họ lo từng việc, còn cha bao quát đã khổ, càng nhọc hơn vì cái lo thuật dùng người. Chàng tự nhủ, về điểm này cha cao hơn thuộc hạ một cái đầu. Ta nhớ hồi ở Lỗi Giang, khi Nguyễn Trãi dâng kế dùng mỡ viết chữ vào lá cây để thu phục lòng dân, ông đã lỡ tay viết mấy chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, làm Lê Sát trừng to đôi mắt, tức giận. Cha khoan thai cầm bút lông khuyên tròn và sửa là “Lê Lợi vi quân, chư tướng vi thần”, rồi quay ra bảo với mọi người rằng, ai chẳng có lúc lỡ mồm, sẩy bút. Chỉ sửa hai chữ thôi, nhưng mọi người đều vui vẻ, còn thầy Nguyễn Trãi của ta cũng đỡ thẹn. Người như thầy Trãi biết mình lỡ sai thì sửa, vui vẻ làm lành với ông Sát, càng cẩn trọng hơn trong câu chữ, lời nói. Lại nhớ lần bàn việc tiến quân vào xứ Nghệ theo đề xuất của Nguyễn Chích, chư tướng bàn luận sôi nổi, tranh cãi gay gắt, ta thấy cha ung dung ngồi nghe, giàn hòa mọi mâu thuẫn và khi chốt lại, ai nấy cũng hả hê vì chủ soái biết đến công mình. Duy nhất có một trận vây đánh thành Đa Căng, lần đầu tiên quân Lam Sơn diệt gọn một thành khá lớn, bắt sống tù binh, chém tướng giặc, cha uống rượu rất vui nên Lê Sát lén lôi vào lều trại chủ soái mấy nàng hầu xinh đẹp của tướng giặc, muốn xin cha chọn lấy một người tiêu khiển, ta đã can ngăn khiến cha kém vui. Lần ấy ta hơi thất vọng, rất may vì thấy cha biết kiềm chế, không để cho sự việc tái diễn. Cái tài dùng tướng của cha gây ấn tượng sâu sắc nhất là lần ta dẫn quân đi gọi hàng Đèo Cát Hãn ở Tây Bắc. Ông cử hai tướng Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái đi theo trợ giúp quả là tuyệt chiêu. Đến nơi, họ nói tiếng Thái những gì ta không hiểu, nhưng Đèo Cát Hãn vội cung kính rước ta ngồi lên ghế cao, dắt bọn thuộc hạ đông mấy chục người quỳ lạy xin hàng. Quân ta đi đến các châu huyện, bọn quan Châu, quan Lang, Phìa, Tạo chỉ nghe hai tướng nói vài lời là răm rắp quy thuận. Đến ải Lê Hoa, ta hoàn toàn yên tâm ở lại, chia nửa quân cho Triệu và Thái tiến về miền biên viễn phía Đông Bắc, nhanh chóng thu phục vùng rừng núi rộng lớn, tiếp giáp với nhà Minh. Trong chuyến đi ấy, ta học được khá nhiều tiếng của người Thái, kết nghĩa huynh đệ với con trai Đèo Cát Hãn là Đèo Mạnh Vượng, gặp được người con gái Thái xinh đẹp Thào Mỵ tuyển làm thiếp. Nghe nói việc này bị các ông Lê Ngân, Phạm Vấn lợi dụng để nói xấu ta, nhưng cha đã gạt đi, cho đó là kế thu phục các man tộc, rất đáng khen ngợi. Nhắc đến Thào Mỵ, ta càng nhớ nàng và con gái đầu lòng Mai Hoa vừa mới đầy tháng. Nàng là con gái man tộc nên ta không được phép lập làm vương phi, chỉ được tuyển làm thiếp. Mẹ Lữ mất khi ta 16 tuổi, mải mê theo cha chinh chiến, chưa lập gia thất. Gặp được nàng, ta như bị tiếng sét ái tình trước vẻ đẹp thô mộc, hồn nhiên của cô gái sơn cước. Ta đắm say cùng nàng hưởng vị ngọt tình yêu đầu đời trong căn nhà sàn bằng gỗ thơm của cha con Đèo Cát Hãn, mà nàng lại không có thai lúc đó, nào ngờ khi dừng chân trên ải Lê Hoa, chờ tướng Phạm Văn Xảo mang quân lên chặn đánh viện binh do Vương An Lão cầm đầu, trời đã ban cho nàng một điều kỳ diệu. Ta cùng nàng dạo chơi, tắm mát bên bờ suối, rồi quấn chặt vào nhau giữa trời đất bao la, bên gốc mai già nở hoa trắng muốt. Vì thế khi nàng mang thai, ta đã đặt tên con là Mai Hoa để kỷ niệm những ngày tươi đẹp nhất của tuổi thanh xuân trên ải Lê Hoa. Bé Hoa cũng như chú Nguyên Long của nó, đều được sinh ra trên đường chinh chiến của cha mẹ. Nói đến Nguyên Long, ta chợt thoáng buồn. Việc cha hứa lập em Nguyên Long làm Thái tử cũng làm ta có chút chạnh lòng vì ta là con cả, nhưng nó cũng còn làm ta xót xa vì dường như cha không cư xử đẹp với mẹ Lữ đã vì cha và nghĩa quân mà tuẫn tiết trên sông Chu. Dẫu thế, ta không có ý tranh giành ngôi Thái tử với em mình như ông Vấn, ông Ngân thường rêu rao, nhưng lòng người hiểm độc khó lường!…
Kỳ 3: TRÍCH CHƯƠNG 12 CUỐN “SÓNG HẬN SÔNG LÔ”
(TTVHNN Đông Tây & NXB Hội nhà văn ấn hành tháng 7/2013)
12. VĨ THANH
30 năm sau…
Vương triều nhà Lê trải ba đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông với bao biến động đầy bi kịch thảm khốc bởi hai triều vua trẻ con: Thái Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, Lê Sát làm đại thần phụ chính; Nhân Tông lên ngôi lúc 2 tuổi nên mẹ là Thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Năm Kỷ Mão (1459), Lê Nghi Dân giết em là Nhân Tông toan cướp ngôi, nhưng Đinh Liệt đã kịp thời phối hợp cùng các quan đại thần Nguyễn Xí, Lê Lăng giết Nghi Dân, tôn Hoàng tử Lê Tư Thành - một người có học vấn uyên bác, từng sống lẫn trong dân nên hiểu và thương dân lên ngôi vua lấy hiệu là Thánh Tông, mở ra một triều đại mới, đất nước đi dần vào thế ổn định. Vua Lê Thánh Tông tấn phong Đinh Liệt làm Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Nhập nội thái phó, Á quận hầu. Lúc này ông đã ngoài 60 tuổi, râu tóc bạc phơ, đôi lúc cảm thấy nhói đau vì chức Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự ấy chính là cương vị của Trần Nguyên Hãn thuở đầu khai quốc dưới thời cậu Lê Lợi. Ông rất mừng vì cháu Tư Thành đã sớm rửa oan cho Tư Tề và thầy Nguyễn Trãi, bà Nguyễn Thị Lộ. Song ông cũng buồn vì Thánh Tông chỉ tin vào những điều sử quan ghi chép nên lờ đi lời khẩn cầu của mình, xin cho Trần Nguyên Hãn được giải oan cùng với Nguyễn Trãi. Trong ông luôn bị ám ảnh bởi hình bóng nàng Mai Lan 30 năm trước bụng mang dạ chửa, đứng trước cửa chợ lớn của kinh thành, giơ cao tấu biểu kêu oan cho Đức ông Trần Nguyên Hãn và những tiếng kêu than của bao người trước cái chết bi thảm của nàng trên dòng sông Lô mùa đông năm ấy. Nhiều đêm ngồi chong đèn đọc sách, ký ức hiện về, ông chợt nghe vẳng bên tai tiếng Trần Nguyên Hãn giảng binh pháp cho mình và Tư Tề hay khuyên bảo dân bến Kim Xuyên, dân vùng chợ Gốm đổi mới cách làm ăn, mở rộng giao thương. Tận thẳm sâu, ông tiếc cho cậu Lê Lợi tỵ hiềm vì lai lịch mà loại trừ Trần Nguyên Hãn, trong đó có một phần can dự gián tiếp của chính mình. Bà Minh Nguyệt hiểu thấu lòng ông, thủ thỉ bàn: “Tướng công ơi! Hay ta cùng ngược dòng Lô thăm làng Sơn Đông một chuyến.” Đinh Liệt vội gật đầu, bảo bà sai người hầu tìm một con thuyền lớn, đủ chỗ cho vợ chồng ông và mấy người hầu làm cuộc hành hương trên sông Lô vào tiết tháng chạp, nhằm ngày nàng Mai Lan năm xưa gieo mình tự vẫn. Bà Minh Nguyệt còn mang theo cả đồ nghề hát ca trù để sống lại một thời thiếu nữ, nhờ làm đào nương nghĩa quân mà được gặp ông ở trận Tốt Động. Con thuyền rời kinh thành từ mờ sáng, ngược sông Cái, rẽ vào sông Lô, đến neo đậu ở cửa sông Phó Đáy thì trời đã quá trưa sang chiều. Cái nắng hanh hao và cơn gió bấc thổi lồng lộng dọc triền sông khiến ông bà bâng khuâng, tê tái lòng. Xa xa núi Tam Đảo mờ trong sương khói, thấp thoáng bóng mấy cô sơn nữ người Sán Dìu đang cặm cụi đốt nương trồng sắn, trồng khoai. Trang trại và ngôi nhà gỗ nguy nga giờ đây đã thành hoang phế, không còn dấu tích. Ông dắt tay bà đi sâu vào làng, viếng ngôi chùa nép mình bên lũy tre, thắp nhang lễ Phật, chạnh nhớ có lần diện kiến thiền sư Kiến Phúc, được nghe thiền sư giảng giải về triết lý Phật tại tâm và phép ứng xử Lục hòa. Đêm ấy, ông bà sai người dọn vài thức nhắm đơn giản, cùng nhau uống rượu giữa dòng Lô mênh mang sóng nước. Bà dùng mấy bài thơ thế sự thuần Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ làm ca từ, ngồi hát ca trù cho ông nghe và ký ức một thời xa ngái lại ùa về, xáo động tâm can hai người. Đinh Liệt ngả người, gối đầu lên đùi bà Minh Nguyệt, khép hờ đôi mắt mơ màng hồi tưởng. Sóng nước sông Lô dập dềnh đưa hồn ông lần tìm trong óc từng sự viêc xẩy ra suốt 30 năm, kể từ ngày ông Hãn và nàng Mai Lan tức tưởi chết oan nơi đây… Cái chết của đức ông Nguyên Hãn kéo theo mấy vụ án oan tiếp theo với số phận bi thảm của ông Phạm Văn Xảo và hại vị tướng kiêu hùng người Tày là Bế Khắc Triệu và Nông Đắc Thái. Cậu Lê Lợi dường như đã thấy cán cân quyền lực giữa hai nhóm công thần đã nghiêng hẳn về phía bộ tứ Sát, Ngân, Vấn, Hoành nên đã đặc biệt lưu ý ta phải bảo vệ bằng mọi cách thầy Trãi và một vài vị khác trong nhóm sĩ phu Bắc Hà. Năm Quý Sửu (1433), cậu Lê Lợi lâm trọng bệnh, biết mình không qua khỏi đã gọi ta đến bên long sàng căn dặn: “Trẫm nghe trong người biết mình sắp về với tiên tổ. Những điều trẫm nói với cháu trong đêm chung giường ở làng Bồ Đề, cháu phải nhập tâm mà từng bước thực hiện, không được có sai sót. Trẫm chỉ dặn thêm cháu hai việc: Một là không cho Trãi làm chức quan to, nhưng phải bảo vệ bằng được đến khi Nguyên Long trưởng thành. Hai là tình thế buộc ta phải tạm dùng Lê Sát làm phụ chính cho vua trẻ, nhưng hắn vốn rất thâm thù hai người tài đức hơn mình lại đang có binh lực trong tay. Với Lưu Nhân Chú, giữ được thì cũng tốt, nhưng cháu không cần cố hết sức bảo vệ, còn với Trịnh Khả thì khác. Trẫm lâu nay vẫn giữ kín với cháu một điều trong câu chuyện về giấc mộng lạ kỳ trên núi Sóc ở huyện Vĩnh Lộc, quê của Trịnh Khả. Hôm đó vua Lê Đại Hành đã báo mộng cho trẫm rằng, 100 năm sau cơ nghiệp họ Lê tưởng chừng bị mất, may nhờ ở chân núi Sóc xuất hiện nhân tài kiệt xuất họ Trịnh đứng ra phò giúp vua Lê lấy lại kinh đô, kiến tạo nên triều Lê Trung Hưng kéo dài thêm 250 năm nữa. Vì vậy, sau khi ta chết, cháu phải tìm mọi cách giữ an toàn cho Trịnh Khả và dòng họ ông ấy ở quê…” Ngày cậu Lê Lợi băng hà, lúc hấp hối cậu gọi cả bộ tứ Sát, Ngân, Vấn, Hoành đến bên long sàng ủy thác con côi. Đó mới thực là tuyệt chiêu bởi chức quan đại thần phụ chính chỉ có một, đương nhiên phải thuộc về Lê Sát. Làm như vậy, cậu đã ngầm giúp ta phân hóa họ, đợi đến tháng sáu năm Đinh Tỵ (1437) khi cháu Nguyên Long đủ trưởng thành ta đã dùng Lê Ngân, có Trịnh Khả vừa được Hoàng thượng gọi về triều phục chức giúp sức nên việc diệt trừ Lê Sát dễ như trở bàn tay. Lê Sát chết rồi thì chỉ cần vài tháng sau tức vào tháng chạp năm đó, ta và Trịnh Khả cũng thừa sức giúp Nguyên Long diệt trừ nốt Lê Ngân. Bốn năm sau ngày cậu băng hà, nguy cơ về bộ tứ lộng quyền kể như chấm dứt, bởi anh em Phạm Vấn, Phạm Hoành chỉ là kẻ hám chức vô mưu, tất nhìn gương hai người kia mà co vòi, an phận. Giờ ngẫm lại, ta mới thấy cậu là bậc thánh trong thuật dùng người. Lại nhớ việc cậu dặn ta về ông Khả, ông Chú cũng thật thần tình. Cậu vừa băng hà thì ngay năm đó Lê Sát tìm cách giết Lưu Nhân Chú bằng một liều thuốc độc vua ban. Nếu ta lúc đó vận động các quan đại thần đứng ra bênh vực ông Chú thì người cất tiếng nói đầu tiên và duy nhất chỉ có ông Khả nên ông ấy cũng khó toàn tính mạng. Ta theo lời cậu đã ngồi im quan sát. Quả nhiên sang năm Giáp Dần (1434) ông Khả chỉ bị Lê Sát đẩy đi trấn thủ biên giới thuộc đất Lạng Châu, đến tháng sáu năm Đinh Tỵ (1437) mới có cơ hội được Nguyên Long gọi ông Khả về kinh sư giúp Lê Ngân diệt trừ Lê Sát, trở thành đại thần trụ cột của triều đình từ đó. Vậy là những việc diễn ra trong bốn năm, sau khi Hoàng thượng băng hà hoàn toàn nằm trong tính toán của cậu, ta chỉ làm đúng theo sự chỉ dẫn, dạy bảo mà thôi. Vụ thảm án Lệ Chi Viên vào tháng tám, ngày 16 năm Nhâm Tuất (1442), thầy Trãi bị họa chu di tam tộc ta dù biết thầy oan cũng không tài nào cứu vãn được bởi nó quá phức tạp. Ngay như Trịnh Khả là bạn thầy Trãi, đương làm đại thần trụ cột trong triều, đích thân đón linh cữu Nguyên Long rước về kinh sư cũng bó tay không cứu nổi bạn thì ta lúc đó dẫu thương thầy cũng chỉ đành cắn răng, nuốt lệ, chờ triều thần phán quyết… Cứ thế, chàng trai Đinh Liệt năm xưa, giờ đã thành ông lão nằm trên con thuyền, thả hồn dập dềnh cho sóng nước dòng Lô đưa ông vào giấc ngủ say. Trong mơ, ông gặp lại Trần Nguyên Hãn và nàng Mai Lan bụng mang dạ chửa đang hiện lên mờ ảo trong màn sương mờ đục, giữa đêm hạ tuần tháng chạp thâm u, huyền bí. Ông như người bị bóng đè nghẹt thở, vùng chạy ra mũi thuyền cúi đầu nhìn xuống dòng sông lại thấy bóng hình họ chập chờn trên sóng nước, chợt vã mồ hôi, vừa nói vừa khóc với dòng Lô: “Ông Hãn ơi, đừng oán trách! Ta chỉ là quân xe nằm im trong góc bàn cờ, chờ đến nước cờ cậu Lê Lợi cần thì bất ngờ xuất xe giam quân xe, quân pháo đối phương hay ăn quân tượng, quân sĩ cho cậu đánh thắng ván cờ quyền lực. Bao năm qua, ta coi cậu Lê Lợi thực là vị thánh. Giờ ở tuổi này, trải bao biến cố ta mới ngộ ra cậu mình cũng chỉ vì ngai vàng quyền lực mà mê muội, tàn nhẫn nào có hơn gì bộ tứ Sát, Ngân, Vấn, Hoành bỉ lậu, vô học! Nếu ta là cậu, có thể ta đã sớm quyết định dùng thầy Trãi và ông Hãn phò giúp Tư Tề lên ngôi từ trước đêm Hội thề ở làng Bồ Đề thì đâu có cảnh 30 năm qua chính sự rối ren, dân chúng khổ đau, lòng người ly tán. Giá như cậu Lê Lợi không lạnh lùng, kiên quyết vứt bỏ tam giáo đồng nguyên thời Lý – Trần và hẹp hòi, nông cạn lấy đạo Nho làm quốc giáo độc tôn mà quên rằng nó đã hai lần bị bóp méo qua Đổng Trọng Thư đời Hán, Trình Y Xuyên đời Tống thì nền học nước nhà 30 năm qua đâu đến nỗi tụt hậu, bế tắc bởi lối học hư danh; sản sinh ra một đám sĩ phu lẻo mép, cơ hội nhung nhúc như bầy sâu tàn hại đất nước, kéo bè kết đảng mà hãm hại những người thực tài như thầy Trãi của ta, đau xót lắm thay! Số trời bắt sao, ta với ông và cả dân nước Đại Việt đành chịu vậy thôi…” Bà Minh Nguyệt bàng hoàng kinh hãi, vội chạy ra ôm chặt lấy chồng. Họ đứng lặng bên nhau, nhìn về phía làng Sơn Đông, nghe lòng thổn thức. Đêm chìm vào sâu. Bãi sông vẳng tiếng nai rừng gọi bầy, rủ nhau ra bờ uống nước. Con sông Lô vẫn muôn đời chảy mãi, chứng kiến mọi khổ đau và những mưu mô tranh đoạt của cõi người…