CHƯƠNG II
TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
1.TỔNG THỂ QUY HỒI.
1.1BIẾN CỐ VỚI SỰ KIẾN TẠO KHÔNG GIAN.
Biến cố được khởi đi từ sự kiện hay chúng ta có cảm tưởng rằng, sự kiện, mà từ đó, biến cố được thực thi như chính những gì mà nó được hội lãnh trong từng cung cách biểu hiện, trên những cương vực sinh tồn không gian?
Có thể thông qua từng bước giao hội với biến cố sự kiện dựng hình một cách thật rành mạch rằng, khi mà chú ý về đối tượng được đáp ứng như một quy tụ trọn vẹn, để từ đó điều phối nên công cuộc, tức là tham chiếu cho công cuộc cộng sinh hiện hữu giao lãnh về phân vùng của các điệp khúc trong biến cố. Ta có trong chính cảm tính của mình phỏng đoán trọn vẹn từng đương lượng những khởi thành, để sự tự trị mỗi một phân vùng không gian luôn luôn có được khả hữu về mặt trực giác tính.
Khả nhiễm vào phân vùng không gian, mà không gian đó, được nói đến, ở đây, là không gian cổ điển, và dàn dựng nên việc định khu phân vùng đối với biến cố từ đó khởi đi những sự kiện. Không gian định khu bên trong chính không gian những phân vùng, nói như thế có vẻ vô nghĩa chăng? Biến cố sự kiện được hiện diện trong khung cảnh cộng sinh giúp tăng cường gạn lọc tính tự trị, cho sự chủ toàn phân lãnh nên những cương vực mà rõ ràng có thể soi chiếu trên chính hành động được vẽ ra từ mỗi sự kiện.
Bất kể một chiết khấu nào để có thể gây dựng thành những biến cố, mà từ đó, sự kiện khởi thảo nên, thì có lẽ, sự kiện được đương lượng ngang bằng với chính những gì hiển nhiên nhất. Không hẳn chỉ có một bước đi của công cuộc định hình sự hiện minh, mà bất kể một giao phó nào từ phân vùng đến biến cố vạch ra trong không gian hướng về phía sự kiện cũng sẽ được sáng tỏ một cách khả kiến, bởi trong đó, đối tượng chủ tri tự định hình mình vào trong những phân vùng như thế.
Có thể nói rằng, khi một sự kiện được khởi đi thì chính một sự kiện trước đó đang thực hiện công cuộc cộng sinh với miên tục của thực tại (đa không gian), mà thực tại đó, tự tồn trong những cương vực huyền nhiệm bản thể. Cũng có thể nói rằng, sự thoái thác trách nhiệm cộng sinh về phía nào đó, mà bản thể chứa đựng hay mang vác về mình bất kì một điều gì khả nhiên, và cho đó là có ý nghĩa, thì chính nó cũng đồng ý với bất kì một phương hướng cộng sinh nào đó của biến cố về phía huyền nhiệm bản thể thực tại, được soi chiếu, qua những khía cạnh tự tồn đa không gian, đáp ứng một cách luôn luôn là chưa được rành mạch. Khi mà biến cố định hình nên sự kiện thì cũng chính khi đó, sự kiện được phân lãnh không một chút vô ích nào, xét trên tính hiệu quả của nó, để cố gắng gán xét những đương vùng mà sự kiện tiếp diễn là khó khăn cho lắm, điều đó giống như một hành động được thực hiện hay tính hành động đó được trải ra, trên mọi bình diện của sự tự trị mỗi bình diện đối với hệ quả của công cuộc cộng sinh từ mỗi biến cố.
Sự kiện chất chứa trong nó những khả năng và chính bản thân nó cũng là một khả năng thuần thành của thực tại.
Tương ứng cho cộng sinh, chỉ có thể miên man trong tâm trí, như những gì hờ hững nhất đối với chủ tri bởi vì chủ tri chưa thực hiện những xung năng thẩm thấu vào trực giác tính chính mình. Chỉ có thể trang bị, nói như thế, có lẽ sẽ nêu bật được những gì đó có khả năng diễn tả chăng, trực giác tính cho chủ tri thì chủ tri mới xâm nhập vào để hiểu ra bản chất của hệ quả từ mỗi biến cố gây nên mỗi sự kiện?
Chúng ta, bình thường luôn sống trong tính hợp lý tự nhiên nhất của trực giác tính được lập trình sẵn, nhưng chỉ có những xung năng hiện tồn trong từng khoảnh khắc mới có thể đổ bộ vào biên vùng, để trong một khả năng nào đó, sẽ tiệm cận đến tính huyền nhiệm bản thể thực tại. Chồng chéo chưa được mang đến như chuyển động hỗn độn đối với miên tục ẩn giấu đằng sau cánh cửa huyền nhiệm đó của thực tại, dù rằng, bản thân sự cộng sinh ấy luôn là thực thi cho chính sự uốn nắn có tính chất được sắp đặt có ý nghĩa.
Cho điều gì đó được hiện ra trong những chiều kích mang tính tiềm ẩn, thì có lẽ, chỉ trong khi được tăng cường từ trực giác tính, chủ tri mới có khả năng nhận ra được yếu tố khải huyền ở công cuộc cộng sinh đó chăng? Hẳn là với một sự giao phó thâm sâu đến độ thẩm thấu tận cùng, để rồi đi xung quanh những gì đón đợi từ hệ quả rơi rớt lại qua những kẽ hở trong sự cân xứng đối với điều gì đó là tự nhiên và siêu nhiên. Nên đối với trực giác tính, luôn có sự chú ý mong muốn đổ bộ vào cương vực của huyền nhiệm thực tại, thì dù có nói gì đi nữa, nó cũng luôn mong muốn có thể khởi đi, hẳn là luôn mang một ý nghĩa của sự tự trị đúng đắn.
Biến cố được khởi sắc hơn nữa để từ đó khởi đi những sự kiện, thì đảm bảo cho sự kiện có được điều hiển nhiên như là hiển nhiên nhất về đẳng cấp trực giác tính dọi phóng vào huyền nhiệm bản thể thực tại, chính không gì khác, điều đó ngang bằng với mọi sự cố gắng hướng về tính tự trị của chủ thể hiện diện trong/trên thế giới.
Do đó, xuất hiện biến cố đồng nghĩa với sự tái thiết hiệu năng của vô cùng các sự kiện tức thời. Giữa thế giới, luôn trong tình trạng đầy ứ những sự kiện và bất kể mỗi một sự kiện nào cũng luôn là liên tục của những biến cố. Trong tiềm năng mỗi định liệu từ biến cố để khởi đi từ nó những sự kiện thì biến cố luôn đặt định trong những giới hạn sự kiện chứa đựng các khu biệt. Mà sự khu biệt đó, hiện diện ra một cách rõ ràng, không gì khác, chính là sự tự trị của bản thân mỗi sự kiện khởi đi từ các biến cố tiềm sinh ấy. Không gian luôn trải ra trong một toàn bộ, mà bất kể quy chụp nào liên đới với từng lượng thức cơ cấu nên tương tranh định vị mỗi một phân vùng tồn sinh sự kiện cũng đều được khởi đi từ biến cố, (thì) chắc chắn rằng, đồng nghĩa với tái thiết hiệu năng của vô cùng các sự kiện tức thời luôn đưa đến sự xuất hiện các biến cố. Trong khi quy chụp được cắt nghĩa một cách có chuẩn mực đối với dự định tìm về điều gì đó sáng rõ, thì chỉ và chỉ có mỗi biến cố khởi đi từ nó những sự kiện mới dự định mang vác trong (vào) nó sự phục sinh ý nghĩa. Để thường hằng tính nhân lên đến những phân vùng chứa đựng hệ quả luôn được dọi qua bằng cái nhìn thông suốt. Biến cố có thể sẽ chưa được đổ bộ vào sự kiện, bởi sự kiện là tuyến tính, nhưng biến cố khởi táng để phục sinh những dữ kiện đóng vai trò làm cơ sở cho mọi căn tố biến nhập xâm nhập vào sự kiện. Biến cố luôn đảm đương cho mình có được công cuộc với một bằng lòng mãn nguyện tương đối. Khi nào cũng thế, chính bằng với sự xuất hiện biến cố mà tính hiệu năng của khả độ các sự kiện bộc phát ra, được trực giác thâu tóm và cố kết trong cảm thức một cách rành mạch nhất. Mà đương diễn của bất kì mỗi một sự kiện nào khởi đi từ biến cố, thì cũng luôn được hiện diện dưới khía cạnh mang một ý nghĩa tự tồn, không khỏi lo âu khi chính mỗi biến cố đang trong những phân trùng. Ở đó, sự kiện bị gián đoạn ngăn cách với chính những tiềm thể có trong biến cố, để từ sự khởi đi xuất hiện những trục trặc không đáng có thì cố kết ấy được giải quyết một cách êm đẹp, không gì khác, bằng việc đặc cách cho biến cố. Nhưng không đồng nghĩa với việc tước đoạt đi ở sự kiện, những lằn ranh bao bọc cho sự kiện được luôn đương diễn trong từng cung cách biểu hiện. Soi chiếu về bất kể một phân vùng nào của sự kiện diễn ra, thì trong đương mức khả năng biến cố có thể góp nhặt vào trong đó những lưu độ, khi khải huyền của bất kì một gia cố nào cho sự kiện cũng luôn được đảm bảo bởi điều gì đó là lung lay thì chắc chắn phải cần được xem lại.
Giữa các sự kiện tức thời luôn đặt trên một tương tranh định vị mà chính hiệu năng giữa chúng thôi thúc ra sự thành hình của tiềm thể - biến cố. Chỉ trong những chừng mực mà sự kiện gia công hơn nữa vào trong tất định biến cố khởi đi những sự kiện thì xuất hiện biến cố cũng có nghĩa là sự kiện được phục sinh. Sự lan tràn của bất kì một tiềm tố sự kiện nào, cũng đều là yếu tố quy chuẩn cho bất kì mọi cơ sở cung cấp đến việc một biến cố khởi đi bên cạnh những cung cấp phải được coi là thích đáng. Khi xảy ra một sự bất đồng trong tương quan nhìn nhận về biến cố khởi đi những sự kiện thì cho dù bất kể một đương lượng nào cũng chỉ có như thế mà thôi, cho nên có được sự kiện là một tất hữu (lý) thì đơn giản, coi như vậy, cũng đúng thôi. Bằng bất kể điều gì đó, sự kiện hay biến cố được lựa chọn cho những định liệu dự trù bị cố kết có chăng là hữu lý và cho dù mọi công cuộc phiếm định nào ngăn cản công cuộc dự tính phân tích sự kiện đó, cũng được cho là đồng đều trong việc phân tích ý nghĩa thì bất kể dự tính nào chịu sự ngăn cản cũng luôn được bỏ phiếu bởi lá phiếu đưa ra từ chính tay của trực giác tính nơi chủ thể. Khi bất kì một sự kiện này nối tiếp một sự kiện kia, biến cố không thể không xuất hiện như việc tuyến tính được điều động bởi sức căng của đường tiệm cận. Cho dù, sự kiện luôn bị nhúng trong biến cố thì từ một lộ trình tái lập được liên kết về lại biến cố đến sự kiện, của những điều phối nên tiềm thể để cầu sinh nào cũng hiện hoạt trong hoàn trộn bất kể một tác chế nào, mà mầu nhiệm, thì cũng phải nhường chỗ cho một phần nào đó, mang tính sự kiện xuất hiện từ biến cố được kết lập trong những phức khả di trùng huyền nhiệm thực tại.
Để từ đó trở đi, hễ bất kì một kích động liên thông nào giữa biến cố này với biến cố khác sẽ truyền hưởng cho cơ cấu không gian hiện minh. Kích động đó, tự tạo cho mình cơ sở để trụ vững trước những ảnh hưởng của bất kì một tính chất ngoại lai nào, mang những phân mảnh vi nhiễu từ bản thân không gian cổ điển truyền đến. Nhưng một khi kích động đó liên thông giữa, ít nhất là hai biến cố, thì cơ cấu không gian được hình thành. Trong cơ cấu hiện minh vừa nói đến, nó được hiện minh, nhờ vào kích động giữa biến cố này với biến cố khác chính muốn nhấn mạnh đến khả năng kiểm toả của những sự kiện được khởi đi từ các biến cố đó. Không thể đơn giản trong một chỉ điểm mang tính nguyên tắc rằng, biến cố này là hoạt xung trong giao cấu với khả năng tái lập từ một biến cố khác. Mà những biến cố khởi đi các sự kiện lại ngoảnh mặt làm ngơ trước những năng lực tổ hợp nên các phân vùng bố trí trong một phối cảnh địa bàn thường hằng, chỉ nhằm vào đối tượng là không gian cổ điển. Khi xét đến bất kì một năng lực nào cầm chân và níu kéo tất cả các biến cố đó, được phù ứng nên thành những ngưng trùng một cách điềm nhiên, thì kể cả chút ít gì được biện minh/nói đến cho ý nghĩa của bất kì mỗi phân vùng không gian nào cho dù là cổ điển hay không cũng không có được. Hay nó sẽ chẳng bao giờ có được điều gì đó là khả hữu về một túc lý đi tìm sự dị biệt, mà trước mắt, nó hiện diện một cách tràn lan. Không thể phủ định sự nhìn nhận về việc kích động đó khơi thông nên cơ cấu không gian thành hình để viện dẫn cho những đổ bộ đào sâu về tất cả vùng biên tiếp giáp đối với bất kể một điều kiện hiện hữu nào, hẳn sẽ là, một di trùng cho những hồi cố sự kiện. Trong cơ cấu để đạt được từ kích động đó, hiển nhiên là phân phối đến một vô tận sẽ làm dịu đi phần nào tính định hướng có chuẩn bị những tiền đề đồng phôi giao cấu nên trong những đa tạp. Và thật sự, điều ấy được biện minh cho điều gì đó hết sức hiển nhiên, khi mà trực giác tính đem chức năng của mình đi cắt nghĩa/tiến hành phân tích điều kiện tạo nên những phân lập. Từ đó, đồng điệu cho những quy trình chứa đựng hơi thở giao cấu vào bản thân không gian cổ điển, để cho rằng, nó sẽ luôn đón đợi từ bất cứ một phương cách nào mà độ lùi về một biên vùng sẽ là vị trí tốt nhất để xem xét/nhìn ngắm những biên vùng còn lại. Và độ lùi đó, ở đây, được nói đến như một lưu động tức thời của các biến cố. Độ lùi khả hữu cho lưu động các biến cố.
Sự lưu động tức thời các biến cố vạch nên quỹ đạo thịnh hành cho việc xuất hiện một cách ngẫu nhiên những không gian khác nhau. Ở đây, xét đến các biến cố như một tiềm thể để từ đó chứa đựng những khả năng hình thành không gian. Và tất nhiên, một biến cố trải ra thành không gian thì chỉ và chỉ có thể đi từ bản thân nó, bắc cầu vào, những phân trùng quảng diễn của thực tại. Mỗi hệ hàm không gian lưu động trong những bổ trợ mà tái lập nên bất kể một trừu xuất nào cũng sẽ làm cho lưu động đó được linh hoạt hơn rất nhiều. Điều được đảm bảo một cách thật sự rõ ràng, ở đây, là việc nhìn nhận về bất kì một phân cách nào đó của chúng ta qua cảm quan phóng chiếu về thực tại. Không hề vương vịn vào bất kể một điều vô lí nào, và cho nó là những có lí để trình xuất về sự lưu động hoàn toàn vi phạm đến điều gì đó, mà ta cho là tổn hại/vi phạm đến những quy tắc cung ứng nên trình xuất phân minh với các đòi hỏi mang tính tự tại không thể chối cãi. Hành động cứng rắn hơn cũng có thể đi từ biên độ biến cố này đến biên độ biến cố của chính nó, sau một lượng thời gian được cho là đảm bảo giới hạn tức thời. Trong khi biên độ đó được thiết lập như chính những biến cố lúc nhìn về nó, tự nó đòi hỏi cho chính nó có được những biên vùng nào, và bất kì một quy tắc hiển nhiên nào cũng sẽ là tự trị cho chính biến cố đó. Nó đảm bảo, tự nó đảm bảo những gì mà tự trị của những sự kiện được khởi đi từ nó sẽ là điều mà giới hàn lâm cho là việc nên cần xét lại. Nhưng túc lý nào để câu phối vào trong biến cố thì cũng đồng ý rằng, việc gia nạp của bất kì mỗi một tiềm tố cũng là đương lượng cho những ngẫu nhiên không gian. Lưu động biến cố vạch nên các quỹ đạo, dĩ nhiên từ đó, sẽ khởi đi/khơi thông cho sự kiện tương ứng được điều động trong thành hình chưa bao giờ đi vào dĩ vãng của những gì đó được coi là lạc hậu. Phân bố lưu động tức thời của một sự kiện (khởi đi từ biến cố) thì cũng luôn được định vị trong những rung chuyển truy tầm về phía hệ dao động của trường không gian phủ lấy đường viền. Bên trong đường viền ấy, hẳn nhiên chứa đựng một sự tự trị đang cố níu kéo để giữ vững đối với bất kì điều gì, mà quỹ đạo lưu động đó khoả lấp vào huyền nhiệm thực tại. Biến cố chứa đựng điều duy nhất mà phân trùng nào của mỗi một không gian cũng đều được căn cứ trên nó/bổ trợ cho nó có được những khả hữu.
Mỗi một biến cố sắp đặt nên mỗi một không gian khả hữu chính yếu duy nhất của biến cố đó lại là một đòi hỏi mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ luôn ở đây. Đi từ biến cố, ta có thể thấy một cách rõ ràng, những sự kiện được khởi đi từ biến cố đó và chính mỗi sự kiện là quy tụ cho không gian chứa đựng. Đồng thời, tính trình hiện một cách tức khắc về bất kì một gia cố nào, thêm nữa, về những điều kiện thiết yếu cho sự kiện khoả lấp vào thực tại. Suy ra từ đó, ta có thể đi đến nhận định về không gian như chính nó là hệ quả của sự trừu xuất chính bản thân mỗi biến cố. Có thể thấy, ở bất cứ giá nào những hiệu quả mà không hề lặp lại, dù cho mỗi biến cố có được từ mỗi sự kiện cấu nạp vào trong những phân trùng của thực tại chứa đựng huyền nhiệm, thì biến cố là giả cấu cho bất kể một sự tự tin không thoả đáng về việc bổ trợ những khế ước, luôn luôn được gia cố điều gì đó mang tính đảm bảo tạm thời. Biến cố đi từ biến cố mà mỗi bước đi không gian được bung vỡ khỏi những cùm kẹp/kìm nén trong tự trị phát triển đến một toàn trị của những biên vùng chuyên chế. Biến cố sắp đặt nên số phận cho chính nó, biến cố tự tạo thành những sự kiện để không gian có cơ hội khải lộ, là biến cố đã tập trung đả phá vào tính toàn trị chuyên chế đó, của những kìm nén chứa đầy gia lực hắc ám trong bản thân thực tại. Tuyến tính bên trong tiến trình thực tại là khởi độ để cho mỗi một thăng giáng nào của biên độ phát sinh không gian, cũng đều được tìm về với những tiềm thể trong mình (các biến cố) là hoàn toàn được mong mỏi và dĩ nhiên cũng sẽ tự đáp ứng được cho chính nó. Sắp đặt theo trình tự nào, thì đó là việc của biến cố nhưng khi sắp đặt nào hiện diện được rồi, thì cũng luôn chứa đựng sắp đặt của phân vùng có khởi đi những khả độ về sự điên cuồng khoác lấy vẻ hắc ám kia. Chính những gì mà tự trị gieo rắc vào thành khuynh hướng thì gia lực truyền hưởng của nó sẽ ngày càng được khả thi cho chính hậu quả liên đới với những gì cấp phát một cách bất kì về mỗi một phân bổ nào, để cưu mang đối với bất kì mỗi một sự tự trị nào đó, như mong muốn của chính bản thân nó. Có như thể của rất nhiều những tương tranh mà bất kể mỗi một sự tương tranh nào cũng nhằm góp phần làm thoả đáng tự trị sẽ luôn được vun bồi cho biến cố có những phát sinh sự kiện. Trong cung cách gián tiếp định hình nên không gian tương ứng hay tương đương, với cung cách biểu hiện tự trị trực tiếp của chính nó – biến cố hội thông tính tự trị cho những khả độ tất hữu của hệ quả đối với biến cố từ đó khởi đi những sự kiện.
Hội thông ấy tạo ra khả năng tái thiết các sự kiện được đương lượng ngang bằng với độ biến thiên phát sinh không gian. Các sự kiện luôn được cộng sinh trong những hợp cảnh nhất định, mà điều đó, là khả hữu cho tồn vong chính nó. Các sự kiện có thể cụ thể hoá ở bất cứ một phương vùng nào, mà nó cho rằng việc có mặt ở đó, của nó, là chứa đựng một điều, để làm nên những gì có ý nghĩa nhất thì cho đó coi như là mông lung đi. Bất cứ chỗ nào cầu thị một điểm tựa thì trạng thái tồn vong ấy luôn được thăng giáng một cách bất chợt, nhưng bất chợt đó lại được coi là hết sức hiển nhiên. Tại vì, có sự thăng giáng tồn vong ấy ở các sự kiện mà khả năng tái thiết của chúng dự định là sẽ mang lại điều gì đó khả quan hơn cho những cương vực sinh tồn không gian. Có thể nói rằng, cương vực sinh tồn không gian ngang bằng trong tầm dự phóng chính khả năng tái thiết các sự kiện, nghĩa là đi từ sự tái thiết mà độ biến thiên phát sinh không gian sẽ diễn ra theo một tỉ lệ thuận và dĩ nhiên mối quan hệ giữa chúng luôn là đồng biến. Khi nói rằng, các sự kiện được tái thiết thì ngay lúc đó, các sự kiện được phục sinh vào những cương vực sinh tồn không gian một cách không hề nao núng. Ta có thể đi từ bất cứ một điểm tựa nào, mà điểm tựa đó, câu thông được với huyền nhiệm bản thể thực tại thì nó sẽ luôn gia nạp vào trong chính hành động ấy để bắc cầu vào trạng thái tái thiết kia . Từ đó, hình thành nên liền mạch các sự kiện được câu thông đương diễn một cách tuyến tính. Không thể có cho tái thiết các sự kiện đi từ những sự kiện trơ/ì, bởi chúng đóng vai trò làm điểm xuất phát khi chính chúng đã tự hư vô trong nó những nguyên nghĩa cộng tồn, của bất kì một điều gì đón đợi cho chúng. Để tái sinh thành một bản sao, khi tái thiết luôn bị đẩy lùi về phía vô tận của không trung thì không thể coi như đó là một cái nhìn hiển nhiên/thông suốt, tất nhiên, là đối với ý kiến phát xuất từ căn tố trơ/ì khởi đi những sự kiện sau nó. Biến thiên phát sinh không gian cứ tự động cấu nạp vào sự tái thiết để đảm bảo mức ứng đệm tuyến tính, do đó, lập thể của những khả quy không gian bao chứa tính đồng thời/ngang bằng với các sự kiện đang có/đang xảy ra đó.
Để rồi, ở trong những chừng mực mà mỗi một khả năng vạch nên các sự việc thật sự xảy ra sau một giới hạn biến cố sự kiện, thì hữu hạn của những trường hợp cố định khả năng xảy ra đó, đi đôi với việc minh bạch hoá về tính đồng thuận của các chiều kích, được vạch ra một cách thật sự rõ ràng là như nhau qua các mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển. Đi từ khuếch tán không trương bắt đầu từ trong cảm thức để ngộ nhận đến khả năng vạch nên những sự việc thật sự xảy ra ở đó, thì còn phải đòi hỏi những mô phỏng ấy được hiện diện không nữa hẳn là một ngộ nhận luôn được cho rằng có khả năng. Mà khả năng đó, không chỉ bung vỡ trong một phôi sinh và tại vị trí ấy lắng đọng nên bất cứ một thứ gì cặn bã thì cũng là điều nên cần được xem lại. Khoả lấp/khuếch tán không trương vào huyền nhiệm thực tại chỉ thực sự có được khi chủ thể đặt chú ý vào tính dật ứng phiếm định trên miên tục của thực tại. Khả năng có thể đồng bộ hay không đồng bộ thì cũng một phần nào đó, do giới hạn biến cố sự kiện được hạn định bởi những mô phỏng chưa được rạch ròi. Để từ bất kể một hạn định nào mang tuyến tính quy giản vào bản thể thực tại thì cũng đồng nghĩa với sự dự phóng vào những phân vùng, mà ta coi đó, như làm đứt gãy đi dự tính liên tục của chính khả năng ấy. Theo lý mà nói, thì khả năng nào cũng đều là những nghiêng ngửa của sự việc có thể xảy ra theo bất kì một chiều hướng nào đó, mà sự hạn định về một phương vùng có thể là cực đoan/luôn bị coi là vụ lợi/không chính đáng. Không thể trên những phân vùng được quy hồi về phía không gian cổ điển, mà lại nổi lên ở đó, những vệt sẫm của các gam màu tối thì có lẽ việc đệ trình đến đây nhằm ủng hộ cho sức sáng sủa từ quy hồi đó là biểu năng sắp đặt xem xét lại bất kì một điều gì mà nó cho là ngộ nhận đi nữa. Cũng đồng thời với nó, như cưu mang những chuỗi đoạn vướng víu vào sự tự trị các biên vùng được coi là khả cấu bám chặt vào (hay được gán cho ưu thế tồn vong vào sinh mệnh của chính mình), nên ở đó, hẳn sẽ có sự toàn chuyển mang tính thích ứng nhất. Luôn đưa đến trong một cuộc hoan ca, có lẽ sẽ đậm màu sắc của những phù hoa từ sức biến điệu thăng giáng huyền nhiệm, làm cho chính bản thân mỗi một giới hạn biến cố sự kiện luôn tự hạn định mình vào trong chính âm hưởng của tiềm tố mang ơn khả năng đó. Thuần thục nào của bất kì một câu thông thực hiện phiếm định sở hữu thường hằng tính vào miên trùng thực tại, có được coi là bất lực đi chăng nữa, thì quy tụ trọn vẹn trong nỗi niềm của những chiều kích dự phóng chính là khả năng. Bất kể một tình trạng suy vong nào về chiều kích khả năng ấy, thì đồng thời với nó, là sự kiểm toả của bất cứ một quy tụ trọn vẹn nào từ trên mức độ tiếp diễn của vũ trụ cổ điển sẽ luôn luôn đón lấy những dự phần. Bên ngoài chính mỗi khả năng, khi nghĩ về bất kì một cố định nào, trong việc dự phóng vào nó, thì mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển, là mức độ được cấu nạp rành mạch nhằm minh định hơn cho chính khả năng mang đồng thời tính ấy. Mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển biểu thị những đợt lưu xuất không ngừng của bất kì một biên vùng nào, luôn được dự hướng vào bên trong bản chất sự dự phóng cảm thức, về chính những điểm tập kết chưa đón lấy là rõ ràng một cách nào đấy. Hay, chỉ với điều mà mức độ tiếp diễn ấy thịnh hành được, thì có lẽ khả năng bao chứa của vũ trụ cổ điển làm môi trường cho sự lưu xuất, mở ra cũng sẽ coi như đồng nghĩa với chính những chiều kích đó phóng vọt ra khỏi miên trường. Nhằm cố định điều gì là hội thông cho bất kể một căn tố nào là mong manh trên từng chặng đường biến tấu cái được coi như chiều kích, thì tiêu chuẩn để định hình nên tính tự trị của mỗi biến cố sự kiện được gia bội, luôn cộng tồn vào trong nó một hữu lý không hề bất tất, như chính niềm tin phủ định dồn dập vào trong nó hơn nữa. Mà đôi khi, chỉ bằng với những quy chuẩn được định liệu đó, đối với mỗi biến cố sự kiện thì cũng đồng nghĩa trong chính hạn định biểu kiến tự nhiên của những cộng tồn cương vực không gian, được biểu thị trên hoạ đồ không gì thay thế cho những khả năng có lý, hướng về phía giới hạn các biến cố sự kiện như thế nữa. Cho dù bất kì một sự phục sinh nào về khả năng đối ngẫu đó. Với những chiều kích tái thiết thì không gì hơn, chính mức độ tiếp diễn trên vũ trụ cổ điển đã chứng minh (coi như là khả giải).
Khi một sự kiện được gia bội hoá tính dị biệt định hướng trên mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển thì sẽ tác chế nên những sắp đặt không gian rõ nét.Ở đây, cũng như những diễn giải trước đó, chúng ta sẽ thấy được vai trò của sự kiện trong việc thiết lập nên không gian hẳn sẽ có giá trị như thế nào. Trong bất cứ một trường hợp của quy chiếu từ sự kiện đến không gian cổ điển, luôn luôn được phân bổ vào những phân vùng có sự neo đậu của rất riêng những chấm định mô phỏng đi từ khả năng chính bản thân sự kiện. Không cần một điều gì mà sự kiện trở nên khác đi hay biểu hiện dưới những lộ trình không có sự dính dáng gì đến nhau, thì cũng chỉ duy nhất khả năng gia bội hóa tính dị biệt của sự kiện mới khả giải cho những mức độ lưu chuyển không gian tương ứng với sự kiện. Hầu hết quần hợp phân vùng các sự kiện dựa vào đó để củng cố (nên) những tái thiết có hiệu quả đối với việc sắp đặt bất kì một lộ trình quy hợp nào, hẳn sẽ luôn được gia nạp vào mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển, bởi trong đó, khó có sự thoái thác chức năng trình hiện cho đối ứng tiềm thể. Trong bất kì mỗi một điều được gia nạp như thế, chứa đựng một số (những) phân vùng mà chỉ có chừng đó thôi cũng đủ làm thành cộng hưởng mang lại hệ quả chính quy nhất. Từng bước tái thiết bất kì mỗi sự kiện trên cơ sở đi từ lộ trình của gia bội hóa đó, để phân tỏa vào trong mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển có được những giá trị tối ưu nhất. Không kể đến cho bất kì điều gì coi như chứa đựng những khả thể đối với mỗi sự kiện, thì bất cứ một khả thể nào cũng tạo dựng trong nó hay bên ngoài chúng những khả năng cường sát đối với trực tính xâm nhiễm vào bất kì một điều gì từ nó trở đi mà nó thấy đầy chướng ngại. Chính gia bội hóa sự kiện mà mức độ quảng cách vũ trụ cổ điển mới tiến đến gạn lọc ra thành những phân bổ cấu hình, đầy tràn tiềm thể phôi sinh mang tính tự tại cho công cuộc định hình tiếp theo. Điều đó được trở đi trở lại trên chính sự gia bội hóa được ngày càng nâng cấp hơn, ở đó, có sự chứa đựng của tất cả những biên vùng mà ta cho nó là mờ nhạt, thì nó hẳn sẽ không thể không mờ nhạt.
Biên vùng mờ nhạt ấy, không gì khác các khả năng phán đoán cả. Phán đoán là một hành động kích xuất nên vô số trường hợp những không gian khả kiến khác biệt nhau. Phán đoán, do đó, lưu dẫn khung hình nền tảng cố kết mạch lạc giữa các biến cố trong tương quan hệ quả với sự kiện mà từ một tác động chung, không gì khác, đưa đến những kích xuất về không gian. Phán đoán là khơi động nên các phân vùng mà sự cộng sinh vào mức độ quảng cách trên vũ trụ cổ điển được sáng rõ hơn bất cứ khi nào hết. Và cho dù, có một điều gì đó được cho là cá biệt/ngoại lệ thì chúng ta cũng gọi phán đoán trong cung cách mà chính nó được gán vào phân vùng sáng rõ, ở những khả năng mà nó khám phá ngay tự trong chính bản thân nó. Phán đoán được cộng sinh, và tất nhiên, không những chỉ được, mà còn phải được, cộng sinh với mức độ quảng cách trên vũ trụ cổ điển, để biết rằng, nó đang lan tràn vào trong huyền nhiệm thực tại để thâu tóm điều gì đó cho dù nó chứa đựng một phần nhỏ mà thôi, cũng là điều đương nhiên, vì nó đáng được như thế. Hành động phán đoán là hành động mà chính nó tự tìm cách đổ bộ vào điều gì có vẻ trái ngược với nó, bởi một khi đổ bộ thành công thì phán đoán đó sẽ chết đi và điều phán đoán sẽ bước sang một địa hạt mới. Lúc này, ta chỉ có thể chú ý, không gì hơn thế nữa, vào điều được phán đoán hơn là chính bản thân phán đoán. Cũng có thể, khi công cuộc cộng sinh của phán đoán cho ra đời những phương cảnh khác nhau trên vũ trụ cổ điển thì điều đó cũng đồng nghĩa, biến cố được kích xuất nên (mang/bao hàm - hẳn) những tương ngẫu khả năng hiện hoạt được gia cố một cách mạnh mẽ/chắc chắn nhất vào cương vực sinh tồn của huyền nhiệm. Phán đoán đặt ra điều mà trực giác tính có thể xâm nhập vào và gợi mở tri giác được thông suốt. Khi phán đoán thực hiện thì phán đoán làm những quy chuẩn để nâng biến cố đối diện với sự kiện kích xuất nên vô số những trường hợp không gian khả kiến khác biệt nhau. Phán đoán sang rõ là thế, và dĩ nhiên, nó không thể sáng rõ hơn nữa theo cách hiểu được đem lại từ phía trực giác. Sự kiện kích xuất đó, sẽ là nguyên nhân phát động nên những phân trùng (ở đây, không tính đến những phân vùng nữa) hạn định trên các bờ thửa mà luôn được cộng sinh vào thực tại một cách mạnh mẽ.
Sự kết lập mang tính mềm dẻo của những khuynh hướng vận động trong khuôn mẫu mỗi một biến cố, định hình nên chính bản chất khả hữu của bất kì mỗi một không gian riêng biệt nào. Nói như thế, nhắm đến một mục đích tối thượng là đả phá vào thành trì của sự cứng nhắc những lưu động trong thực tại này. Tức (là) giữa thực tại luôn khả hữu cho những thành trì, mà tối ưu của sự kết lập mang tính mềm dẻo, luôn xé bỏ/bứt phá ra bên ngoài (ngoài, đối với những bờ thành có chủ ý đối với mọi sự phóng tán có chủ đích). Tuy nhiên, đối với những ý nghĩa kết lập nên như thế, được tạo thành, thì hẳn nhiên nó luôn chứa đựng trong nó sự đầy đủ mỗi một sự kiểm tỏa cầu viện đến bất kể điều gì đó được coi là khả quy. Đối với thực tại như bây giờ/thế này, sự kết lập không thể đánh đổ điều gì đó được coi là khác đi về mặt bản chất, nhưng không hẳn, sự đánh đố lại không tiềm phục nên (thành) một điều gì cố nhiên chứa đựng được ý nghĩa hẳn hoi. Trong bước đường xung kích của mỗi hệ quỹ đạo nào mà sự kết lập mềm dẻo đi từ những khuynh hướng vận động trên khuôn mẫu mỗi một biến cố tạo nên, thì thông qua khuynh hướng đó, nó sẽ gắn kết vào miên tục của thực tại, để không gian định hình mang tính khả hữu sẽ rất khó bị hoài nghi. Sự kết lập đó, được đương lượng trong chừng mức khả năng của những lưu độ phồn tạp bởi các đối ngẫu trong việc phóng tán đến miên tục chính thực tại. Hoạt xung vào, và tràn lan sang mọi biên vùng chưa một lần tính đến sự khiên cưỡng hay cứng nhắc của một cấu trúc nào, như mong muốn thuần túy đem lại ý nghĩa được chứa đựng hoặc cầu thị cho mối liên kết cầu viện đến sự trợ cấp đối với những phân vùng tương ứng. Cho nên, kết lập khó có được khả năng thối chuyển để quy hồi về lại chính chủ thể như một sự khêu mời để khơi gợi, về những phân vùng mà nó bảo ban cho chính nó. Trên nền tảng của những hoạt xung trong sự kết lập ấy, khả nhiễm nên bất kể một điều gì mà kết lập đó được chứa đựng trong nó – tức miên tục, thì hiển nhiên công cuộc định hình sẽ làm nên điều gì đó kinh điển đối với những khuynh hướng của bất kì mỗi một không gian riêng biệt nào. Nghịch đảo lí luận diễn giải, đó hẳn nhiên, cũng là một cách của kết lập – một sự kết lập đối khuynh hướng.
Chúng ta đã nói rất nhiều về sự kiện nhưng sự kiện là gì hay trong đòi hỏi về một khái niệm được trình bày về nó, ngay đây, hẳn sẽ không được coi muộn màng cho lắm; bởi sự hiện diện đầy đủ ý nghĩa của nó như một khái niệm, cũng sẽ phải có và rất cần cho những cơ sở để lập luận về sau, hay được kể đến như minh chứng cho những kết quả diễn giải ban đầu.
Sự kiện là những khả cấu mang ý lực của cảm thức được gia bội hoá vào miên trường, vạch nên hay dựng hình thành mỗi một không gian trong tổ hợp của vô cùng các không gian khác nhau, sau bức màn những biến cố phát động từ tâm hệ phóng trợ vào thời trường. Với tính hướng định như thế, biến cố luôn thụ nạp vào mức độ gia bội hằng hữu trong miên trường của thực tại. Mà ở đây, là vũ trụ cổ điển, chứa đựng những lượng tái cơ cấu nên những không gian với đương lượng đi đến vô cùng.
Đi từ cảm thức ra thực tại, hiển nhiên, tiến trình của cảm thức sẽ luôn chứa đựng khuynh hướng bức phát nên điều gì đó mang tính xâm nhập vào bên trong, để sự tự trình đối với bất kể những phân vùng được hiện diện trong thực tại phải mang lại ý nghĩa cho chính nó. Đối với sự kiện, trước hết, nó là những khả cấu mang ý lực xuất phát từ cảm thức, mà bản thân chúng luôn được gia bội hóa vào miên trường. Khả cấu mang ý lực là những trung khu chịu đựng các điều phối từ ảnh tượng chính bản thân cảm thức. Khả cấu luôn tính đến sự tự trình có hiện hữu của bất kì một lối cấu trúc đem diễn giải cho bất kể một đối tượng nào, mà theo nó, có thể trình hiện một cách trực tiếp, ít ra là bên trong cảm thức, về những khả năng mà trung khu chịu đựng sự điều phối ấy sẽ thăng giáng trên chính phân bổ của thời trường. Trung khu đó, ở đây, chứa đựng những phân bổ, nhưng quan trọng hơn hết, trung khu đó phải chứa đựng những khả cấu mang ý lực. Ý lực được xem như một sự điều động đối với nguyên tắc khả giải cho những bước đi trực sẵn hệ hình được đón lấy. Trung khu ấy tồn tại trong tính tiệm vị của cảm thức, để có thể từ đó, cảm thức thực hiện những xung năng thẩm thấu vào bên trong đề hướng (xuất) ra bên ngoài thông qua/bằng ý lực. Ý lực, được đương lượng như chính những gì mà các sự kiện rành mạch không ngừng, trong sự sâu xé của bất kể một lối đi hay cách diễn giải nào ở nhóm các sự kiện được tái lập hay hình thành với tư cách chính quy không cần bị quy xét dài dòng. Sự kiện được nói đến như những khả cấu mang ý lực, mà chính ý lực đó, luôn được sẵn sàng trong tư thế đón chờ cảm thức gia bội hóa vào miên trường, có như thế, tức có sự gia bội thì khi đó, cảm thức mới đảm đương như chính những gì cấu nạp vào thời trường để biểu hiện cho những cương vực của sự kiện. Từ đó, vạch nên/dựng hình mỗi một không gian trong tổ hợp của vô vàn các không gian khác nhau, nói thế, chính muốn nói rằng, không gian được điều xuất luôn được phát động từ chính bên trong mỗi sự kiện. Không gian được định hình thì không chỉ có một, mà chúng (chỉ không gian) luôn được định hình trong một tổ hợp của vô cùng các không gian khác nhau, thêm một bổ túc nữa cho cái được coi là cơ sở chính đáng về sự kiện. Sau bức màn của những biến cố phát động từ tâm hệ phóng trợ vào thời trường, phóng trợ đó, mang những ý nhiệm huyền lực tải đi điều mà trong bất cứ điều gì xuất hiện nên, để vin vào cớ đó, cho rằng nó tồn tại cho bản thân nó là luôn có ý nghĩa, thì nó đó, cái luôn được đồng ý cho một điều gì, mà thật ra nó đã vốn có sẵn như thế rồi. Cộng với các thái cách (cách thức biểu hiện hình thái) của chúng được gạn lập ra trên một bức màn những biến cố, bức màn đó, là trung khu mà khả năng chứa đựng đối với công cuộc phóng trợ nghiễm nhiên không sao đong đầy, khi mang những thối chuyển kề cận là được coi đồng bộ. Biến cố, từ nó sẽ khởi đi những cảm quan mà bất cứ một cường sát nào khơi mào cho bất kì một không gian bất kì khả độ cho chính sự kiện, để sự kiện được diễn ra một cách sốt sắng nhất, thì luôn được coi là điều gì đồng nghĩa với sự hoàn bị chứa đựng trật tính quy hồi qua định hình trên những biến thái cách mô phỏng về những phân vùng (cũng có thể là đối trọng của những phân vùng được tạo lập nên), hay ít ra và nhất là khi chúng ta muốn nói đến những điều gì, mà có cho đó là tối ưu nhất, thì cũng luôn có thể ngước nhìn bởi tính cao sâu của nó hay bình quân nhất về mọi phủ quyết bằng cách tiếp nhận từ trực giác tính mang những yếu tố luôn được định hình đối với chính sự mô phỏng chẳng thể khi nào được gạn lọc cho cái gì đó là chính quy.
Và tính hướng định luôn được cấu nạp vào trong biến cố, mà bản thân sự gia bội đó phân lập nên bên trên tất cả mọi sự mô phỏng. Để có như thế, nó phóng xuất vào bên trong bản thể thực tại/miên trường (của thực tại). Ở đây, đi đôi với gia bội là những lượng tái cơ cấu trong vũ trụ cổ điển bằng cung cách khởi đi ở đó các tiềm tố đi đến vô cùng. Gia bội hóa vào trong hằng hữu miên trường của thực tại được định đoạt bằng tất cả sự ngả ngũ cho mọi chất vấn rằng, đều có thể tái lập một cách linh hoạt trong tiên liệu bất cứ từ một sự cho dù nào đến một sự khẳng định tất hữu nào. Cũng có thể nói rằng, khi mà sự kiện được biến cố gia bội hóa để đón đợi những cấu nạp vào trong miên trường, thì cũng vào lúc đó, mọi quy chuẩn đồng bộ hóa nào cũng là điều kết lập một cách vững chắc nhất, không thể có được một viện lý nào về những đối chất mà ngẫu sinh cũng làm rạng rỡ cho sự mô phỏng ấy, chính bằng với xung lượng tái cơ cấu vào trong vũ trụ cổ điển và chính bằng cơ sở được xây dựng bên trên nền tảng đó, mà sự mô phỏng đáng được trải dài trong vô số những trùng ngưng, chưa từng bao giờ đón đợi điều gì đó, bị coi là đứt đoạn đối với mọi sự kiện hay bất kể những gì, mà nó được định hình cho chính sự mô phỏng hướng về phía bản thân sự di mãn tính phóng trợ có ở trên vào trong những tiềm tố có ở nội vi bản thân thực tại. Đi từ sự mô phỏng của những hệ hình, có cứ lý nào chắc chắn không khi chỉ trong một đương lượng tưởng chừng như mỗi cung cách biểu hiện như thế, xem ra khó mà có đạt được sự tự thành của những hệ mẫu đang lẩn khuất trong chốn mê cung dày đặt và san sát các đương lượng khả năng trên chính sự mô phỏng ấy? Có thể nói rằng, nếu như sự kiện không xuất hiện để rồi lưu hoạt trong bản thân không gian cổ điển thì thực tại này, chẳng khác gì một cái gì đó đầy ứ, phồn tạp. Thậm chí, đương lượng trên vai trò của mỗi biến cố thì chính biến cố được coi như sáng giá nhất cho từng biểu hiện đối với lượng tái cơ cấu trong vũ trụ cổ điển, sẽ được gia bội hóa đi đến vô cùng, hẳn nhiên, luôn chứa đựng điều gì sốt sắng trong từng diễn giải mà bất kể một sự liên kết nào từ mô phỏng đi vào các khả năng đóng vai trò là dự phần, như kết quả đồng thời hướng đi, thì có lẽ nó luôn luôn được nhìn nhận về những mức độ dự phần có ý nghĩa (dĩ nhiên là có sự bổ trợ của mức định đối ý thức).
Khi tôi quán xét mọi tia nhìn của tôi về phía vũ trụ cổ điển, để minh chứng cho những lượng khả năng có thể xảy ra sau một hành động được tạo dựng nên từ mỗi một biến cố nào đó, thì cũng đồng nghĩa với việc tôi thực hiện hành động thâu tóm chuỗi khả năng ấy trong một mức độ tối đa cho phép, để sự nắm bắt trên đạt đến một mức độ khả quan. Ở đây, đi từ những gì chủ động trong lộ trình hiển minh nên các giả lập về tính mô phỏng ra bên ngoài. Khả năng là điều đáng được bàn cãi, bởi chính sự mô phỏng bất kì, đều có liên quan dù trực tiếp hay gián tiếp gì đi nữa cũng là trong quan hệ với khả năng. Khả năng tạo nên mô phỏng, bằng với chính những cung cách phác thảo ra để sự mô phỏng có được những điều gì coi đó là minh bạch hóa. Còn trong một quy chụp tác động trở lại đối với mô phỏng, thì chính sự mô phỏng lại mang tính đào thải khả năng trong những gì, mà bản thân khả năng có điều kiện khi chính bản thân nó gây ra cho nó. Đi từ khả năng, ta có thể biết được mô phỏng nhưng như thế chưa đủ mà còn cần phải xem xét khả năng đó thuộc loại nào và những trừu xuất nào, đáng để cho mô phỏng dính líu đến trong chừng mực, mà chính khả năng có thể cho phép bất cứ một mô phỏng nào đó, được có đều được phép thụ nạp một cách trọn vẹn những chuẩn mực cho mọi sự chín chắn, cũng như già dặn nhất, để rồi từ đó, đóng vai trò trong quan hệ chung - nhân quả. Khi mà quá trình quán xét về phía không gian của vũ trụ cổ điển thông qua bản thân chủ thể tôi, thì tại đây, bất kì mỗi một sự minh chứng nào về khả năng cho hành động tạo dựng nên từ một biến cố nào đó sẽ luôn là hữu lý. Bởi rằng, cho dù và đối ngẫu tất cả những phân bố nào trên không gian cổ điển của vũ trụ cổ điển cũng sẽ là điều mà ta chăm sóc và dĩ nhiên, đó cũng sẽ là điều mà bản thân nó mang lại cho bản thân ta, ít nhất ra cũng là một sự chú ý có mục đích. Tóm lại, mô phỏng được nói đến, chẳng khác gì là điều mà hành động xuất phát từ bản thân tôi thâu tóm chuỗi khả năng xảy ra trên từng mức độ để sự nắm bắt đó từ phía tôi đạt đến một mức độ khả quan. Mô phỏng ấy nằm trong quan hệ với khả năng và tất cả những khả năng đều có liên quan đến mô phỏng. Sự ngự trị độc tôn của những hệ mẫu luôn là bước cản oái oăm nhất cho khả năng tấn công vào, để phá bỏ, làm sụp đổ tất cả mọi thành trì của nó, để đạt đến, những phân vùng luôn cầu viện hay vin vào các cứ lý thích đáng cho sự tự tại lúc có được những công nhận rất (đáng được) phải nhắc đến. Sự công phá không cho rằng, trong những lấn át về vùng biên độc tôn đó lại lẫn lộn bởi những ý hệ chưa được thảo sẵn một cách rành mạch, thì bất kể điều gì, có đó, trong nó, cũng sẽ lưu chuyển nên (nói đúng hơn là được lưu chuyển nên) thành sự tự trị sáng rõ đặt trên cơ sở mỗi biến cố. Biến cố nào cũng là điều kiện đối với sự mô phỏng hay khả năng có những cứ lý mà bản thân chúng có vị trí tự chúng dành cho chúng để chúng sẽ trình diện ra bên ngoài, như những gì mà chính chúng chứ không gì khác sẽ thế chỗ của chúng, bởi chúng có khả năng và chính những mô phỏng về chúng luôn được trang bị/gắn sẵn trong chúng.Chứa đựng khả năng vào mô phỏng hay quy kết mô phỏng vào khả năng luôn phải được tính đến trong cơ cấu của cái gì đi ra trước và cái gì có mặt sau, khi đó, mới tiến hành để phân đoạn tất cả những chỉ dẫn có được sức mạnh một cách chặt chẽ nhất, nhưng không vì thế mà mọi sự đặt định nào từ lúc chối bỏ của chính những khả năng, được xem như tính chất mỗi biến cố hay mô phỏng được gán trong chính quy vai trò mỗi sự kiện. Bất cứ cái gì cũng có thể là điều mà chúng ta không có cơ hội để hiểu rõ về chúng thì có đồng nghĩa rằng, như thế chúng ta cũng sẽ luôn luôn và mãi mãi mù tịt về chúng đâu. Cũng có thể sự xuất phát những điều mà ta cho mềm dẻo nhất hay trong cung cách tia nhìn của chủ thể tôi về phía vũ trụ cổ điển thì hành động được quy kết đến/về lộ trình nào đó, hay bất cứ điều gì được bổ sung cho chính nó, cũng còn phải được xem xét nhiều hơn chăng? Và cũng tại tính chất của những ngưng trùng khả năng/mô phỏng ấy, mà sự phân mảnh không gian được đặt trong một xác suất tiên liệu về sự nắm bắt bất cứ điều gì xảy ra sau đó, luôn được định vị một cách chu toàn. Mẫn cảm nào cũng là không thích đáng chính sự phân mảnh để đòi hỏi tính tự trị đối với mỗi một phân vùng, thì chính quy để tính mẫn cảm đó lên tiếng (thậm chí một cách gay gắt) cũng không thể loại trừ nhưng cũng cần phải (và nên như thế) vơi dần đi nỗi lo lắng đó.
Và lo lắng đó, thứ sự được vơi dần đi khi viễn tải của những sự kiện đưa đến tác động hình thành mỗi không gian mang tính cơ trình minh bạch hoá một cách rõ ràng. Ở đây, là bước khẳng định lại như hồi kết cho những gì được diễn giải trước đó. Từ sự kiện để hình thành nên không gian, mà không gian đó là hiển minh một cách sáng rõ. Sự kiện khêu chọc vào trong bất cứ một điều gì mà nó có thể có khả năng là còn trùng ở nó với chính những khả năng. Trên một trung tâm của sức điều động bất kì mỗi sự kiện thì luôn luôn khi nào cũng hàm chứa vấn đề, mà ở đó, có sự cấp phép những bước ngoặt đầy đặn. Sự kiện mà nhìn nhận được đến nó trong một chiều kích chứa đựng sức căng trải về phía vô cùng luôn đồng nghĩa cho tính định vị tự tại của mỗi một không gian. Không thể nói rằng, ở đây, chưa có sự kiện được quy ước như thế nào và điều ấy có cho là đúng đắn đối với chúng hay không thì trên toàn bộ sự quy ước đó, luôn được sáng rõ một cách chắc chắn.
Viễn tải của sự kiện, hay nói đúng hơn, chính quá trình gia tăng những khả năng của khả năng chất chứa trong mỗi sự kiện, bản thân sự kiện không là bất kì một điều gì đó dễ dãi cho bản thân không gian nhắm đến và quy định. Nhưng đối với bất kể một viễn tải nào, đem đến điều ấy, thì cũng chính sự hoang mang tột độ của khả năng chết rụi, một hay điều gì đó, được nói đến, mang tính bất kì chắc chắn sẽ thể hiện được khả năng đó ở nơi chính nó.
Không thể giản quy tất cả các tính chất, mà người ta gọi bằng hai từ lố lăng vào những gì mà sự kiện có thể mang lại, hay nói đúng hơn trong cung cách mà mỗi một người đứng nhìn nhận về sự kiện, sẽ luôn đảm bảo cho anh ta có được niềm tin về những lộ trình quỹ đạo, mà khả năng mô phỏng sự kiện có thể khơi gợi nên, hay phác họa ra một cách rõ nét. Điều còn tùy thuộc vào một cơ sở nào không chắc chắn thì bao giờ cũng luôn chứa đựng một sự hoài nghi tối thiểu. Bản thân sự kiện kết lập nên không gian mà chính sự kiện được khởi đi từ các biến cố luôn đảm bảo trong định mức lập luận, hẳn sẽ khó vi phạm bất cứ một quy tắc nào, cho dù quy tắc đó, có như thể được nói đến mang tính sắp đặt của những dự trình vào mọi phân khu mà bản thân nó, đang cố gắng đương lượng trong từng mức độ chẳng thể khi nào làm cạn kiệt đi bất cứ một niềm tin, về sự kiến tạo không gian giản cách khả giải cho chính vai trò của chúng như thế.
Tác động mang sắc thái phối cảnh ở không gian này sẽ luôn đưa đến một tác động thành phần trong từng bước phát triển của những sự kiện hay biến cố có khả năng xảy ra ở những không gian khác nó.Có thể chúng ta đã biết về khái niệm toàn ảnh (holography) trong vật lý hiện đại. Thì chính luận điểm này, hẳn sẽ là một hệ quả không gì khác từ chính nguyên lý đó. Một tác động, ở đây, có thẻ làm cho ngọn lửa cháy dữ dội hay dòng sông đóng băng dày đặc hơn nữa, ở đâu đó. Đi từ sự liên hệ mang tính mật thiết giữa những cơ cấu vĩ mô được sắp đặt trên chính những gì, mà mỗi thành phần trong cơ cấu đó, hạn định nghiễm nhiên là luôn chứa đựng những nỗi mong ước thỏa đáng bất kì đối với mỗi tính chủ đạo phân lập nên trên cơ cấu chính sự liên hệ đầy tiềm năng đó. Bước phát triển bao chứa tác động và đi từ một phân vùng này, để rồi mang lại cho phân vùng khác một dấu ấn. Không thể kể đến như bất cứ điều gì mà sự liên hệ ấy lại được cho là ngoại lệ. Có thể khi không biết về một hiện tượng ở không gian này thì làm sao có được sự hạn định đối với những gì diễn ra ở không gian kia, một sự cần đáp trả mà mỗi bản thân chính chúng đã hằn chứa đựng như thế rồi. Cho nên, khi sự liên hệ mật thiết đó đứng ra để hạn định tất cả những gì mà nó có hay được điều phối nên, thì cũng ở chính nó (tức bản thân không gian bao hàm đó) có mang đến sự chịu đựng đối với bất kì mỗi một điều gì, cũng đều là cách, mà ta luôn hằng suy nghĩ về chính sự kiện tương ứng mỗi tiềm năng đó sẽ có thể chứa đựng những mục ruỗng mà ta không lường trước được.
Cơ cấu ấy, hoạt động một cách tinh vi, để đi từ bất kì một sự tác động nào hẳn cũng sẽ mang lại đối ứng trong cung cách biểu hiện bên trong mỗi không gian, đến cái mà chúng ta có thể làm là thoát li tất cả mọi tập quán trong cách diễn giải khác đi này, mà ta đang thực hiện thì luôn được cho bằng giá trị đối sánh và thậm chí còn rành mạch hơn những gì ta tưởng. Bất kể điều gì được cho là xuất phát từ một điểm nhìn này, để kêu gọi về phía không gian kia, nhưng tất cả sự kêu gọi như những lời rao mời đầy quyến rũ, thì cũng luôn cần một sự tỉnh táo của suy nghĩ để biết đâu là đúng đắn và đâu là những thích ứng một cách cơ giới/máy móc mà trong một chừng mực nào đó gần như là giả tạo.
Cho nên, bất kể mỗi sự kiện đương diễn nào cũng nằm trong trạng thái phân vùng của vô số những khả năng không gian khác nhau, được vạch ra, trong chính hệ quả từ mỗi một sự kiện chính quy nào đó mang lại. Điều đó là đồng bộ mà sự tái hiện nó, ở đây, như bước đà quy kết cho sự kiện có được những đối sánh đứng trước hồi nan giải. Sự kiện có hai loại: sự kiện đương diễn và sự kiện khả năng. Khi tính đến sự kiện đương diễn mà nhìn nhận về nó trong mức độ quãng tính gắn với biến cố phát sinh không ngừng nghỉ thì sự kiện đương diễn không được coi là tồn tại. Nhưng thử đặt trong một trường hợp riêng biệt nào đó, mà hệ quy chiếu chúng ta xem xét về sự kiện đó, là một sự kiện đương diễn, thì bất kể khi nào nó diễn ra, nó cũng là trạng thái phân vùng của vô số những khả năng không gian khác mà thôi. Những trường sức không gian, theo Einstein, được nối kết vào nhau theo hình cái bọt nước, nhưng trạng thái phân vùng không gian, sẽ không thể được hình dung như chính những cái bọt nước đó ghép lại với nhau. Mà ở đây, sẽ là sự kết cấu hóa một cách linh hoạt giữa các trường sức không gian bao chứa mỗi sự kiện được cho phép trong quá trình xảy ra không hạn định. Không gian, mà rộng hơn là trạng thái phân vùng của không gian, chính là sự kết lập từ các trường sức không gian đó lại với nhau, điều này được nói đến như cơ sở cho tính đương diễn có ở mỗi sự kiện được diễn ra suông sẻ là vì thế. Cho nên, đối với mỗi hành động có thẩm tra một cách đúng đắn nhất về mọi quy ước thu được từ giải trừ những gì không liên quan thì sự kiện đương diễn cũng thế thôi, bằng với chính khả năng của mình đào thải đi những gì không đáng có. Đối với mỗi một sự việc xảy ra trên cơ sở của chính nó như phân vùng nào cũng được cho là điều động nên từ những gì chính đáng nhất, thì bất kể một sự kiện hay là một quy ước nào, cũng gắn liền với chính mỗi sự kiện đương diễn đó với không gian khả cấu vào trong trạng thái phân vùng, của rất nhiều các sự kiện đương diễn, chứ không phải chỉ có một mình một bóng của riêng một sự kiện đương diễn. Điều gì được coi là khác đi so với trước kia, ở đây, mà nếu nói như thế thì sự kiện đương diễn được lặp lại một cách máy móc trên những trạng thái đó của toàn bộ kết cấu các trường sức không gian? Dĩ nhiên không như vậy, mà chính ngay bên trong mỗi sự kiện đã chứa đựng những phôi sinh khuynh hướng, nó được quy về cho vô định hình chất chứa bên trong nó, như lăng kính soi vào đều trơ vơ, vì ở đó, cũng chẳng thấy được những điều gì mà ta còn cho nó là điều như ta hằng mong ước.
Và vì thế, sự kiện chính ngay những kẻ giảo hoạt. Tức là, muốn nhấn mạnh đến khởi thành của những cương vực mà sự kiện đó thao tác nên trong tình trạng bị giằng co và sâu xé không cùng trước các đợt cuồn cuộn thăng giáng miên tục. Nghĩa là, trong một tương quan nào đó, ta có thể hiểu sự giảo hoạt được trao cho chính sự kiện muốn đề cập đến những phân trì hạn độ, như thế, việc xác lập nên mỗi sự kiện thuần túy cực kì khó khăn đối với mỗi sự nhìn nhận này. Nhưng hơn hết, tính giảo hoạt đó đã mang lại một bước tiến đem quy chuẩn vào sự đúng đắn, để những gì đăng đối được hiện minh trong kết phần có sự tương trợ thích ứng. Có thể khi đi từ sự kiện, mà chúng ta có thể nói về sự kiện như những gì nó vẫn chính là nó, hay là cái cách mà chúng ta có được hình ảnh về chính điều gì mà rất có ý nghĩa. Điều kiện để cho sự kiện trở thành đúng đắn, thì bất kì một điều gì, có căn nguyên từ mọi cơ số về công cuộc đệ trình đối với mọi nguyên tắc.
Giảo hoạt tính của sự kiện muốn nói rằng, giảo hoạt là kẻ chỉa mũi nhọn vào cường độ sỉ vả đối với bất kì một trung khu nào có sự giả cách về nó khi luôn hướng định đến điều gì đó, mà nó cho là có ý nghĩa. Sự kiện bất kì nào cũng đều không được mong muốn như chính những gì mà nó gom góp vào, để chính vô cùng điều hoài nghi được sắp đặt về phía chúng. Sự kiện điều động những phương cách, mà trong cơ cấu, nó luôn muốn hiển thị nên điều gì được cho là minh bạch, ít ra đối với chính nó, nhưng phương cách thì vẫn là phương cách, từ biểu hiện mà có được ở đó những ngẫu phối, thì khi ấy, chúng ta mới thấy được sự kiện ngay lúc này đang trào dâng nên những định hình giả cách nói tới như thế này. Điều gì có cho là đồng bộ thì cũng chính nó luôn mong muốn có được những dự phần vào trung tâm mà sự cách ly để ra đời điều gì đó bị gián đoạn.
Kẻ giảo hoạt luôn nung nấu trong mình ý chí sắp đặt nên ngẫu phối của bất kì mỗi một thứ kiện tính nào, mà trung khu thực tại, đều được nó gán cho cái cốt lõi nhất đói với chính nó, khi mà với riêng nó, là đều đáng cần phải được xem xét. Hay ít ra, là trong một sự trình/qua hiển minh nào đó, nên chúng ta mới thấy được sự kiện đang di mãn ra ngoài phương cách, mà từ đó, nó được mô phỏng như những gì vẫn được hiểu là đã từng hiểu như thế.
Do đó, hội nhập của sự kiện là đương diễn những biến cố trong trình tự đón nhận các khả năng tiến đến vô cùng với mức độ đón nhận là ngang nhau. Để khơi sâu vào trong chính tiềm tố mà mỗi một quan năng chủ thể hiểu rõ thì luôn luôn cần và được tính đến cho công cuộc hội nhập của sự kiện. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, mà bất kể những khả năng hội nhập vào sự kiện mang tính đương diễn thì cũng đều là trình tự chứa đựng bất kì một sự tự tin mang tính cẩn trọng nào đó. Hay trong cung cách biểu hiện về phía bất kì mỗi một điều gì mà ta không nắm được, tất nhiên, là sự nắm bắt đó được hiểu như một sự nắm bắt còn đang đón đợi đối với/về phía những gì, mà công cuộc hội nhập của sự kiện cũng vạch nên, trong trình tự đón nhận ngang bằng các khả năng mô phỏng.
Tiềm thể nào cũng đường hoàng một cách danh giá cho cung cách nắm bắt được lộ trình quy hợp về bất kể một sự chân chính nào làm nên từ nó. Mức độ đón nhận là ngang nhau, tức sự thụ nạp vào trong những xác suất không xê dịch về một cán cân nào, để tính đến/trình ra sự hơn thua/ít-nhiều ở những kề cận đang còn nung nấu ở đâu đó.
Về phía không gian cổ điển, hội nhập sự kiện đương diễn nên trình tự đón nhận hẳn là đáp án cho mọi ẩn số của sự kiện khởi đi từ biến cố luôn được đặt trong mong muốn kiện toàn. Cóp nhặt mọi sự rơi vãi nào đó để cất công dựng xây, không được cho là vô ích trên chính điều gì mà ta đây coi nó là những nét vẽ sáng ngời của bất kể một bước đi nào. Và ở đó, ta còn thấy biến cố được vẽ ra về một phân vùng hay cũng với những sự dẫn nhập vào công cuộc ấy, mà trình tự đón nhận của bất kì điều gì trở đi, khi tiến đến vô cùng cũng đều nhen nhóm nên bên trong sự kiện cách nó những bước đi mang tính xâm nhập. Công cuộc đón nhận về phía nào đó trong những cung cách đón nhận là ngang nhau để hứng lấy hệ quả đối với mỗi một sự định hình trong bản thân chúng ta, hẳn sẽ luôn chứa đựng những trình tự đón nhận có ý nghĩa. Đón nhận là sắp đặt nên điều gì đó, mà ở đây, chúng ta nói về chúng (sự kiện khởi đi từ biến cố trong công cuộc hội nhập) sẽ là những điều gì được đền đáp một cách xứng đáng, đối với mong mỏi chưa bao giờ đem lại tính chất triển khai đi đến vô hiệu hóa toàn bộ hệ thống.
Và công cuộc đón nhận nào cũng đặt cơ sở trên tác động định niệm của cảm thức. Tác động định niệm của cảm thức mang tính chất một triển thời về không gian tự phát, thụ nạp trong hư cấu những khả năng cho mọi xác suất của mỗi một biến cố thực hữu xảy ra.
Không gì khác, mỗi một không gian được hình thành từ chính tác động định niệm của cảm thức là vấn đề rất đáng lưu ý ở đây. Đối với không gian, hay nói rõ hơn, là biến cố khởi đi những sự kiện đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành không gian, luôn tồn tại trong những xác suất cố hữu. Điều này đã được nhắc đến trước đó qua những khả năng và mô phỏng. Tuy nhiên, liệu điều đó, được trình bày như thế, có được cho là sáng tỏ hay chưa? Bởi khả năng và mô phỏng chỉ là hệ quả đối với những xác suất từ mỗi một biến cố mà thôi. Do thế, mà tác động định niệm đó của cảm thức luôn mang tính chất một triển thời về không gian tự phát. Điều được thụ nạp ở đây, trước hết, chính là xác suất cho mỗi biến cố được xảy ra, hay phải chứa đựng những khả năng được xảy ra, trên tất cả mọi phương diện của sự đón nhận đến với chúng được khởi đi từ những xác suất thành hình từ đó.
Tác động định niệm của cảm thức là sự tương tác giữa cơ cấu tiền niệm bên trong cảm thức với những gì được cho là bên ngoài, như thế, vị trí đặt định đối tượng đó có đúng không? Ở đây, một điều đúng cũng bất khả và nói nó sai cũng không thể. Trước hết, cơ cấu tiền niệm sẽ tạo dựng những động lực nhằm phối cảnh trong cái nhìn chủ thể về chính bản thân chủ thể, để chủ thể xác định được vị trí của anh ta trong không gian, mà anh ta hiện hữu tương ứng với không gian đó. Khi công cuộc được tiến hành và đồng thời có sự duy trì của những hoạt lực tự bên trong, thì khi đó, tác động định niệm sẽ thực hiện bước dời chỗ qua điều được coi là tách biệt, có như thế, nó mới mang thực chất của tầm vóc vĩ đại chính cơ cấu không gian tri giác mà nó vẽ ra. Và cũng đồng thời, trực giác tính tham gia vào công việc thấu thị trực tiếp sự ngăn cách giữa những phân vùng, giữa những lưu động tồn tại bên ngoài (đối với chủ thể), và sự lưu động để hiện diện rõ rệt những phân vùng, như thể luôn tồn tại trong thế giới, mà không gian cổ điển, rộng ra là của bản thân chính thực tại.
Tính chất triển thời biểu hiện về không gian tự phát, tưởng chừng như những định liệu đó luôn khởi xướng đến mức tương ứng, thì cũng đồng nghĩa với những gì còn lấp lửng nửa chừng là một cách diễn giải không gì khác. Trong khoảnh khắc tức thời ấy, từ bên trong ra bên ngoài, như sức lực nào đó mà bấy lâu nay bị kìm nén giờ này bung toả hẳn ra, bắn phá vào bất kì mỗi một phương vùng (hay là cung cách đi tìm sự tự trị của mỗi một biến cố đối với việc hình thành (nên) không gian). Điều ta cho là tự phát ở đây, có thể trong thành phần mà chúng ta hiểu được mỗi một khi sự kiện tức thời đó, giải phóng dưới dạng tính chất của tác động định niệm thì sẽ là điều mà ta đây có được về những trạng thái đối khu, tất nhiên, đó cũng là một điều dễ hiểu. Tính chất ấy, chính quy để khởi đi từ cảm thức, bởi dù gì đi nữa, thì chính trong lòng cảm thức đã chứa đựng những xung lực mà trong một mức độ tương đương nào đó, chính những xung lực này một khi bộc phát ra để nhắm vào vô số các đối tượng cần phải nắm, thì giờ này dường như sự đón nhận cần được đón nhận, hay đang được chờ đợi, đã đạt đến một trạng thái bão hoà và lúc này nó đã mang những cứ liệu không thể bắt bẻ được nữa.
Tiến trình cứ thế tiếp tục, để rồi chính sự thụ nạp trong hư cấu những khả năng cho mọi xác suất từ mỗi biến cố thực hữu xảy ra. Ở đây, liệu rằng có mâu thuẫn gì chăng? Một bên là hư cấu, một bên là thực hữu đi từ hư cấu để gây ra hệ quả đối với thực hữu. Dĩ nhiên là không mâu thuẫn, trong sự quy định của chính quy bước đường tư duy, để bất kể một sự khởi đi nào từ biến cố đóng vai trò như một khởi đi thứ cấp, ngay khi khởi đi nguyên cấp từ cảm thức. Đảm bảo bước đường từ xác suất đến khả năng và cuối cùng là mô phỏng thì mọi đặt định về hư cấu – thực hữu xảy ra, trong trường hợp tổng quát này, luôn được nhìn nhận như một xu hướng tất yếu, có đó bởi truy phục vào cứu cánh, mà chính nó mang lại cũng đều cho ra đời những dự phần ứng lãnh đối với toàn bộ kết cấu tư duy, khi định hình vị trí của tôi đây trong không gian (đây là không gian nói chung, chứ không phải không gian cổ điển, không gian được nói đến như một không gian thuần tuý không gian).
Vì thế, tiết điệu của tính khảo cấu không gian thấm nhập vào những tầng vỉa cảm thức thuần tuý mang trương độ triển thời đang hoạt động trong cuồng lưu mọi biến cố sắp xếp nên sự liên thuộc nội tâm hữu thể. Cái đáng nói ở đây chính là điều mà sự in hằng của những mong muốn cho điều gì đó diễn ra/hiện kiện trong chính điều gì đó được coi là tồn tại ở bên trong (nói như thế, tất nhiên, không có nghĩa là đặt trong quan hệ với những gì bên ngoài). Đặc cách đối với sự xuất hiện, ở đây, mà làm cho điều xuất hiện để đi đến sự tác động mang tính qua lại, đồng nghĩa với điều gì đó gạn lọc đi bằng hai chiều. Được thực hiện bởi những diễn ra bên trong chủ thể làm thành sự lưu động đối với điều gì đó, được coi là mang tính chất đối ứng của hệ hình mang tương tác hoàn trộn về một phần và một phần chất chứa ở sự kiện không hoàn trộn khi những phù lưu ấy, chưa đóng kín trên từng bước đi của chính nó vào sự đeo bám quá chừng được coi như là cũ kĩ.
Tiết điệu trong bất cứ một tiềm năng hiện diện nào, rồi cũng sẽ mang sự khảo sát làm thành cơ cấu về đối tượng (khảo cấu), cho nên, ở bất kì một điểm nào cũng sẽ là tương đương với mô phỏng về phía tiềm năng ẩn chứa những điều không thể. Một khi chúng ta nói rằng, điều kiện để sự tự thành đối với mỗi biến cố trong kiến tạo không gian luôn được quy giản trên chính niềm tin mà ta nhắm đến sự tiết điệu này. Để đơn giản hóa đi những chuỗi dạng dữ liệu, khi sự thấm nhập vào, ở đây, đang trong tình trạng lưu chuyển thành biến thái cách hiện trình đối với cung phần lịch trình về phía những tầng vỉa của cảm thức thuần túy. Bất kể một sự chú ý nào cũng đều là sự chú ý luôn đón đợi trong tư cách mà nó cho phép tiết điệu được quy giản hay là không quy giản như một bước đệm đối với tình trạng thấm nhập đó vững chắc hơn. Có lẽ, sẽ đúng trong những điều gì đó, mà có cho nó bằng những biến thái cách, để sự có đủ tiến dần đến dự phần sở hữu thì mọi âm hưởng chính điều gì đó đều phải được coi như âm sắc của thực tại.
Trên từng bước nhịp điệu mà có sự trở về trong lưu động những khuôn phép thì oái oăm lắm mới có thể cho ra điều gì đó quá ư là vững chãi, đối với mọi quy tắc nằm trong liên quan về trương độ triển thời luôn tái diễn (chứ không phải tiếp diễn) bằng chính những gì được trừu xuất ra qua tương ưng thứ cấp. Bất kể vấn đề có được coi là lạm dụng thì cũng phải gán cho chính nó những cụ thể hóa đối với bất kì mỗi một bàng quan giả cách thì khi đó tính cuồng lưu trong chuỗi hoạt động của mọi biến cố mới có được những đặc ân, trong tiến trình quy hồi nói trên diễn ra một cách suông sẻ. Bằng với chính điều gì đó, khi mà bất kể mỗi một trạng thái cất cánh những bước đi liên tiếp đối với mọi cụ thể hóa, và nếu được đương biến trong một dàn trải thành hình của rất nhiều khuynh hướng thì chính tiết điệu sẽ đem đến cho cuồng lưu những quảng cách về tần số biến điệu vi vu, y như là sự phát tiết bất kì một đạo lộ thanh âm nào được truyền đến bên tai ta. Trong khi điều đó xảy ra thì nội tâm của chủ thể cũng sẽ hòa giải những đệm tấu trên mô hình liên thuộc khả vi, mỗi đối với bất kể sự lạm dụng nào, mà nó thâu tóm hay có được đi nữa thì bằng nội tâm chúng cũng chẳng có dính líu một xu nào trong kho ý nghĩa chính nó.
Không thể quán xét bất kì một điều gì cho tính cuồng lưu mọi biến cố mà khả năng hợp trội của nó – chỉ biến cố - sẽ luôn là triển thời; ở đây, không có một sự đối kháng hay mâu thuẫn nào được nói ra mang ý nghĩa hoặc tự mà phải tính đến cung cách của khuynh hướng biểu hiện những đột biến, trong từng bước thu nạp vào đối với chính sự gia hưởng trường sức không gian nhằm tính đến các tột cùng của việc trừu xuất đối ngẫu biên bỉ. Khả năng thấm nhập ấy, phải được thực hiện và bắt buộc phải được thực hiện, nếu không sẽ rất khó để chủ thể hiểu rõ một cách sâu sắc về hữu thể, mà nói tóm lại cho phương pháp đó, coi như là thẩm thấu hữu thể. Qua những gì mà phương pháp ấy mang lại thì mới đặt ra được cơ sở/nền tảng thật sự vững chắc, cho công cuộc tiếp nhận những tri thức về sự dự phóng vào miên trường, của những dị phức trùng tính trong hệ hình huyền nhiệm bản thể thực tại. Nói không chừng, nếu không là như vậy, hay rõ ràng hơn, là không có được sự thẩm thấu đó thì sự mù tịt sẽ còn đeo bám dai dẳng/trường kỳ.
Sắp xếp bởi việc xây dựng từ bên trong bản thân cảm thức như mang tính thiết định về phần cung ứng những dữ liệu đang từng ngày bị thao túng đối với chính bản thân mỗi sự kiện. Tức là, chính mỗi sự kiện được cố định trước sẽ dễ dàng bị hư hỏng đi, hay nói một cách khác rằng, chính bản thân sự kiện đó - nó không còn là nó nữa, mà lý do chính ở chỗ, sự sắp đặt/sắp xếp việc xây dựng đối với phía (đi từ đó) ở cảm thức đến không gian thì bản thân mỗi sự kiện sẽ bị lôi cuốn vào trong một dòng chảy khó tìm lại được đâu là khởi đầu, để đi vào nơi chốn của những gì có cơ sở nhất. Khi mà sự cố định trong đường hướng dẫn đến những khả năng như vậy, thì tính thiết định của cảm thức về phía không gian cổ điển sẽ luôn mang những tan chảy (nó không còn là nó theo một cách diễn giải khác đi), thì dù rằng, bất kể một sự tổ chức/sắp xếp lại chính nó cũng khó lòng được điều tiết đối với những gì mà coi như đó là chính quy.
Sự kiện được khởi đi từ biến cố hay đặt biến cố trong tác động trực xuất vào đối tượng, mà ở đó, sự kiện chứa đựng những dữ liệu, thì đối với bất kì một sự mong muốn khả hữu nào cho chính biến cố đó, như một lời biện hộ mang tính chất trong sáng của nó, hẳn sẽ còn để lại nhiều dấu hỏi đáng quan trọng. Qua việc làm mà biến cố được dẫn khởi nhằm đi đến lộ trình chứa đựng sức mạnh quan trọng vào trong chính nó thì luôn luôn tác động mang vào cho chính nó, có được những gì tương xứng với việc làm đó – mà nó có, như thế, nhằm để đảm bảo cho bằng với tiên liệu trên tương quan luôn có sẵn những sức ghì chặt vào mức độ hôn phối có quy cách, hay chứa đựng những giả năng cho bao điều hư tưởng là không được cất lên một tiếng nói ở đây.
Chúng ta thấy rằng, điều gì/sự việc như thế nào cũng đã một khi mang trong mình sự triển khai tự nó thì luôn luôn mang tính tự do đối với mọi quy tắc mà bất kì một phương cách ứng xử nào được tinh lọc đến tận cùng như thế? Đối với những điều kiện cho sự việc có những thôi thúc như cố vin vào trong sâu thẳm của điều gì đó được sắp đặt bởi chúng, hay từ trước, điều chính quy mang đến những phân bổ ngoạn mục vào thao tác, mà khẳng định một cách thật sự chính xác phải là cung cách mang tính tự trị khởi lập nên ở bất kì đâu đó, trong không gian cổ điển, đi từ chính mỗi một biến cố.
Mỗi một biến cố thiết đặt vào trong bản thân không gian hồi quy về với nó một phân vùng lắp đặt hiện hữu cho tha tính có cơ hội xâm nhập vào ấn tượng hiện minh nơi chủ thể.
Điều mà nó thiết đặt sẽ là điều mà chính nó sẽ phải làm để có thể đương đầu với những chốt chặng không thể cưỡng lại được. Biến cố - không gian, không gì khác hơn, một lộ trình đầy màu sắc của thực tại này. Bản thân trạng thái phồn tạp là hệ quả cho chính hình thức được thấy về phía không gian cổ điển trong từng phân bổ đối với vai trò mỗi một biến cố. Biến cố thiết đặt vào trong không gian cũng chỉ để khứ hồi/mang về nó những dự phóng mà thôi. Không có bất cứ điều gì mà biến cố được cho là rãnh rổi, kể cả khi xét đến sự kiểm toả, của bất kì điều gì mà bản thân biến cố đó trình hiện các khả năng sắp đặt nên chính nó.
Biến cố - không gian, cặp đôi mà tính đến sự mở cửa của nó là cả một màu sắc những gì huyễn tưởng chăng? - Không, đối với tương quan sẽ liên tục dàn trải sốt sắng trên những hệ hình có sự hoạt xung vào trong phân vùng cảm thức, để ấn kí tường minh vào mỗi một không gian về phía cơ cấu lộ trình trên quỹ đạo chung hợp của thực tại. Trong (đối với) những dự kiến đào thải về bất kì mỗi công đoạn sắp đặt cho dị thể tính tràn ngập vào biến cố, để dẫn khởi đi điều mà công cảm thoái chuyển, khi chảy qua không gian cổ điển, luôn đệ trình đến những ngẫu biến tương sinh vào lúc nào cũng được tương quan để định vị mang tính quy chuẩn cho mọi phông nền.
Hãy cố gắng gạt bỏ qua bất kì mỗi một tiết điệu nào mà chính bản thân tiết điệu đó cầu cứu đến để đội ơn chúng thì hãy tỉnh thức trong trạng thái biến cố vẽ nên luôn là những ngẫu biến phát sinh trên tương quan, mà chính nó được lấy làm điển hình. Để bất cứ điều gì có được cho là đón đợi hay đã thực sự tồn tại ở đó rồi thì mong muốn suông sẻ hơn cũng không thể. Cũng có điều, nói nó tương quan, một khi dẫn nhập đến với bức thành trì những hoạt động phai phôi từ mọi miền dữ liệu truyền hưởng, cũng luôn tự động thực hiện bước tiến so với những gì tiệm cận đến điều được cho là nghịch dị của những khả thể. Án chừng trong tiềm phôi sinh mà mong cầu dự trù cũng sẽ vẫn luôn được mang ra để mong mỏi trong từng điệu bộ, mà có cho đó là đểu cáng, cũng khó có thể không bị loại trừ một cách chính danh.
Dẫn nhập đó, được đặt định trên tác động của biến cố thì luôn luôn tính đến dị phức trùng tính có ở trước để gợi ra những biểu tượng di mãn vào trong bất kể mọi sự phân vùng nào, của khả năng, đem lại chính chủ thể, mà tha tính được biểu hiện. Điều khơi dòng cho mọi biến nhập được xem như hệ quả vĩ đại nhất của biến cố trên tiến trình quy hồi về chính điềm nhiên mong muốn có một diễn giải là sự hiện diện của tha tính cũng theo cung cách mà ta đã gợi ra như thế. Tức là, tha tính được đương lượng trên chính những ngẫu phối đi từ bản thân mỗi sự kiện, mà từ đó, dẫn nhập để đi vào chủ thể luôn được chấm định bởi ấn tượng hiện minh nơi chính chủ thể, bằng với những tác động của tha tính. Ấn tượng hiện minh là điều gì đó phập phồng trong trạng thái thăng giáng của mọi biểu hiện đối với chính tha tính trong chủ thể. Ở đây, nhằm muốn tạo cho tha tính có được những khả độ tương xứng với chính nó trong tác động ngang bằng với điều được dự phóng về phía đương mức tiềm năng ấn kí trong chủ thể. Một biến cố, do đó, chính muốn nói rằng, mà trước đó, ta đã nhấn mạnh đến vai trò/tác động trong sự định hình không gian, ngoài ra biến cố còn được hiện ra để cơ cấu hoá cho tha tính hiện diện trong chủ thể, bằng những phông nền khả năng.
Đi từ tác động thẩm thấu hữu thể mà chính phương pháp đó đóng vai trò làm điều tiên quyết cho tha tính có được động lực thâm nhập vào chủ thể, nhằm chọn lấy những vị trí, mà ở đó, nó có thể ngẩng cao đầu để thực hiện một cuộc đối thoại với hữu thể chứa đựng ngã sinh tính trong chính chủ thể tồn tại hữu thể đó. Có thể dẫn dắt cho tha tính xâm nhập vào trong trường hệ của những xung động đối kháng, đó sẽ là cung cách mà biến cố thể hiện ra một cách rõ ràng nhất, đối với chính vai trò của nó, mà không một đối tượng nào, được chọn lấy có thể tạo ra những bước đi như thế, để cầu thị đến mong muốn được rõ ràng, ở chính mỗi chặng đường xâm nhập sẽ chất chứa điều khẳng quyết về ngay bản thân chủ thể cũng đã và đang vạch ra cách thức hoạt động cho chính mình. Cho nên, biến cố được xem như kiện tính của tha tính và đồng thời nó cũng được xem như phối tính đối với ngã sinh tính chính hữu thể, như một khái quát trọn vẹn nhất về biến cố.
Luận lí sẽ thực sự khơi dòng nên tương tranh định vị mãnh liệt xuất phát ngang bằng với những sắc thái mang khuynh lực ý hướng ứng xuất triển thời mong manh, trên tính quảng diễn của những hệ hình lí thuyết về sự đặt định cho một biến cố không gian. Luận lí, ở đây, muốn thực hiện được những điều vừa nêu không còn cách nào khác ngoài sự kiện không thể vi phạm bất cứ một quy tắc nào có sự trì hoãn ở trong đó. Để rồi đón đợi bất kể một cái gì cũng đều là dự phần toàn lãnh đối với những điều mà nó rõ thấy. Luận lí được ứng biến trên nguyên tắc ngang bằng những sắc thái mang khuynh lực chấm định về phía nó các điều hướng biểu hiện rạch ròi khảo cứu bằng bất kể điều gì được đặt định cho chính nó.
Trên cơ sở của tính quảng diễn những hệ hình lý thuyết, mà từ đó, mỗi không gian được định hình thì với đầy đủ các tính chất sẽ luôn được coi là đối với những trình tự thảo sẵn. Luận lí luôn gợi ra như thế bởi đối với điều gì quá ư là trọn vẹn một cách tuyến tính. Và chính điều đó luôn tiềm ẩn những cung phần đối ngẫu với sự vạch nên điều gì được coi là hiển nhiên nhất. Cho dù cái đó có làm nên bất kể vấn đề nào không chịu sự tác động trong một phân phối thì ở nơi chốn, chỉ những vùng mà sự khả thi mang hiệu lực để truyền đi, trên chính lộ trình cấu nạp vào bên trong bản thân nó hay luận lí đó được có ý nghĩa sẵn sàng trong chính bản thân chứ không ở đâu khác.
Luận lí chất chứa của những điều thân thuộc. Ràng buộc cũng chỉ là vi phạm quy tắc không được thích ứng chính bản chất mỗi một đối ngẫu của dự hướng vào trong chính bản thân luận lí đề nên. Lụi tàn đi trong những biểu hiện đối với quy định được khởi sẵn từ tất cả điều gì chứa đựng/tiềm ẩn trong nó, mang cung cách biểu hiện của chính luận lí về công cuộc điều hành các đường nước bước đi đối với lộ trình mà chung hợp nào, cũng là sự khả thi chính đáng trong yêu cầu của tất hữu những điều mong mỏi đến ở biểu hiện luận lí là liên thuộc vào trên chính lộ trình được coi như hợp quỹ đạo ấy. Đồng nhất đối với quy tắc lập trình bên trong bản thân luận lí thì bất kể một sự cầu ứng nào, để mỗi phân viện tạo dựng cho mình có những địa hạt du hành qua toàn bộ trừu xuất, cũng được coi là hợp chuẩn ngang bằng mọi quy xét, ít nhất ra là thích ứng đối với chính luận lí đó.
Vì thế cho nên, không một cơ sở tiếp hậu nào mà lại không thể khẳng định được một cách chắc chắn rằng, nó sẽ được đảm bảo trong mức độ tái thiết cơ cấu lại trên tổng phần linh động của mọi sự ngang bằng với những ước đoán được thích nghi về lại những kích động khi ngoại giới xâm nhập qua chủ thể muốn ghi khắc tính luận lí hiển nhiên cho bản thân ý thức.
Kích động là điều quan trọng mà hơn hết những thôi thúc để cấu thành tác động. Tác động chính mang cách thức mà mọi sự phô diễn vào trong phương thức biểu hiện của những biến cố. Kích động luôn được dựng hình (thành) bất kể cung cách nào đó, mang lại sự điều tiết đối với việc cầu sinh nên vùng miền mà không gian từ đó được dẫn khởi đi. Có thể nói rằng, đối với kích động, nó luôn đảm bảo trong chính những điều phối mà bản thân tổng phần cơ cấu được biểu hiện một cách linh động.
Đi từ sự kích động sẽ khơi dòng cho một tiếp hậu tiến vào thành trì của những điều được tiến diễn sau nó. Cho nên, cơ sở tiếp hậu đặt ra để điều lực hướng định kích động chính những tiềm tố mong muốn có được sự thích nghi. Do vậy, kích động và tiếp hậu bổ khuyết cho nhau để khỏa lấp vào trong vẻ chân chất của thực tại này. Mặt bổ khuyết được vét cạn trong long sâu thẳm bức bích họa có từ tâm hệ. Nó là sự kế tục của những chặng đường trước đó, bên trong tính căn lập nên chính quá trình khởi thảo biến cố. Tiếp hậu là tái diễn cho công cuộc trước đó được tương sinh đối với cung cách khởi thành vĩ đại của mỗi một biến cố dẫn đi những sự kiện để định hình bằng năng lực của riêng nó.
Xét đến đây, thì cái được gọi là trường cảm thức bên trong tâm hệ trên cơ cấu tiền niệm đã định hình nên một tổng phần linh động nhất. Sự linh động đó, được biểu thị qua dải trình lộ đạo có thẩm định của những quy tắc ngang bằng và cân xứng đăng đối ở bên trong. Mức độ tái thiết nên nội vi, nó cũng sẽ, luôn được phân bổ đối với chính chúng. Điều tái thiết đó luôn được đảm bảo cho những định hình bền vững, mà tất cả vấn đề khơi nhập trong dòng chảy phân bổ loại hình nào cũng sẽ là. Sự tái thiết đó, đóng vai trò căn nguyên đối với dòng chảy tràn trề bên trong tổng phần linh động ấy.
Đi từ tính câu thông về tổng phần linh động bên trong cảm thức ra bên ngoài, mà tiếp hậu được đưa vào như một hệ quỹ đạo, đối với quá trình câu thông dẫn khởi đó. Khi ấy, sự tái thiết sẽ thích nghi về lại chính những kích động đã gây ra nó. Nói tái thiết thích nghi về lại những kích động có nghĩa là sự sinh ra đã thực hiện một bước hồi quy đến chính nguồn gốc đã sinh ra mình. Trên tuyến tính tiệm tiến, cho nên, công cuộc tuần hoàn luôn được đặt ra bởi yêu cầu về lại đó, giữa hai yếu tố ấy. Cái biểu thị chính quá trình tiệm tiến mang tuyến tính, mà bất kì một sự dẫn khởi nào đi từ kích động (bất kể một sự kích động không níu kéo hay vương vấn) đối với bất kể một sự tác động ngoại lai nào. Sự lui về/về lại của chính sự tái thiết đối với quá trình ngẫu sinh.
Tuy nhiên, không chỉ đi từ cảm thức mà chính cơ cấu bên trong nó được vận hành, mà sự vận hành đó, còn được biểu sinh cho những quy hợp trong cung cách mang tính chính đáng. Nói như vậy, đồng nghĩa với quá trình ngoại giới xâm kích vào nội giới qua biểu sinh được khả thành và khả hữu tất yếu. Ngoại giới xâm nhập kích ứng chủ thể thì lộ trình tiếp hậu đó, khơi thông, nên nhằm cố định cảm quan vào trong một điều gì cứng nhắc khi sự xâm nhập trở nên tai hại, mà chỉ có thể thông qua sự xâm nhập ấy để chủ thể, quan trọng hơn hết, xác định được vị trí của mình trong thế giới. Khi đó, như thể chẳng khác gì là một đối tượng như bao đối tượng khác về bất kì mỗi một sự vật/hiện tượng nào, hàm chứa trong quá trình đi vào hay trong sự kiện được bào chữa của cung cách tiết điệu, đến những phân vùng nội vi (điều gì đó là) lập dị, hẳn nhiên, cũng có thể có khả năng xảy ra, trong một cung cách như thế hay cũng có thể tương tự như thế.
Khi ngoại giới xâm nhập vào bên trong, nó phân định được những hạn độ chất chứa bên trong mà cảm thức thiết tạo nên. Trên chính điều hành từ cảm thức đóng vai trò làm gốc rễ. Ngoại giới xâm kích không gì khác hơn ngoài mong muốn ghi khắc nên bên trong chủ thể tính luận lí hiển nhiên. Đi từ biến cố trong lộ trình hình thành không gian thì chính đối tượng của nó là ngoại giới với lộ đạo mặc định như đường hướng vạch ra những nguyên tắc cố định bổ trợ cho nhau. Và dù sao đi nữa, thì chính bước đường nguyên cấp trong cung cách đóng vai trò kiến tạo nên không gian không gì khác hơn ngoài những gì được định đoạt bởi chính bản thân biến cố.