24. TRƯƠNG HÚC
(658 - 747)
Trương Húc tên chữ Bá Cao, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Ông là nhà thơ và là nhà thư pháp nổi tiếng thời nhà Đường, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường Thục Úy, về sau thăng đến Hữu suất Phủ trưởng, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung được người đương thời liệt vào “Ngô trung tứ sĩ” (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo”,là một trong nhiều hình thức viết chữ trong nghệ thuật thư pháp. Do vậy, ông và Hoài Tố, người cùng thời, được người đời xưng tụng là “Cuồng thảo nhị tuyệt” tức hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo, là “Điên Trương, Tuý Tố” nghĩa là Trương Húc điên và Hoài Tố say.Tương truyền, Trương Húc đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Đại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình..
41. ĐÀO HOA KHÊ
Nguyên tác 桃 花 谿
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
Phiên âm : Đào hoa khê
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch kỵ tây bạn vấn ngư thuyền :
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên?
Dịch thơ:
Suối hoa đào
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Một chiếc cầu treo ẩn khói sương,
Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ mương
Ngày tàn nước chảy hoa trôi hết,
Động tại khe xanh, đâu nẻo đường?
Suối hoa đào
Ngọc Châu
Dịch 2013
Cầu treo ẩn giữa khói sương
Hỏi thuyền câu tựa bờ mương đôi lời:
Ngày tàn nước chảy hoa trôi
Khe xanh tìm đến mong người chỉ cho?
25. TRƯƠNG KẾ
( - 756 - )
Tên chữ là Ý Tốn. Quê Tương Châu (Hồ Bắc). Đỗ Tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 14 đời Đường Huyền Tông (năm 756), làm chức Diêm thiết Phán quan. Cuối đời Đường Đại Tông, vào triều làm Tư bộ Viên ngoại lang.
42. PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyên tác : 枫 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天
江 楓 漁 火 對 愁 眠
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鐘 聲 到 客 船
Phiên âm : Phong kiều[1] dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô[2] thành ngoại Hàn Sơn tự[3]
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
1. Quạ réo, trăng tà trời đẫm sương,
Bến phong, ánh lửa, giấc sầu vương.
Cô Tô, đêm vắng Hàn Sơn tự
Vẳng tiếng chuông ngân tới chủ xuồng.
Dịch 2011
2. Trăng tà, quạ rú, trời sương,
Bến Phong, ánh lửa, buồn vương giấc hồ
Hàn San ngoài trấn Cô Tô
Nửa đêm vẳng tiếng chuông chùa vọng ngân
Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều
Ngọc Châu
Dịch 2013
Quạ kêu sương lúc trăng tà
Cầu Giang ánh lửa lập lòa sương đêm
Cô Tô ai đậu con thuyền
Hàn San chuông gọi nửa đêm vọng về.
26. TRƯƠNG TỊCH
(765 – 830)
Trương Tịch tự là Văn Xương. Quê ở Ô Giang, Hoà Châu tỉnh An Huy. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 799 đời Đường Đức Tông. Đang làm Bí thư lang, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ. Rồi lên chức Thuỷ bộ Viên ngoại lang. Cuối cùng làm Quốc tử tư nghiệp.
43. TIẾT PHỤ NGÂM
Nguyên tác : 節 婦 吟
君 知 妾 有 夫
贈 妾 雙 明 珠
感 君 缠 绵 意
系 在 红 羅 孺
妾 家 高 樓 連 苑 起
良 人 執 戟 明 光 裏
知 君 用 心 如 日 月
师 夫 誓 擬 同 生 死
完 君 明 珠 雙 淚 垂
恨 不 相 逢 未 嫁
Phiên âm : Tiết phụ ngâm
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt.
Sư phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,
Hận bất tương phùng vị giả thi.
Dịch thơ : Khúc ngâm tiết phụ
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Biết em đã có chồng,
Tặng em đôi ngọc châu.
Cảm ơn chàng ngỏ ý,
Bên mình em giữ lâu
Lầu gác nhà em gần ngự uyển,
Chồng em đứng gác cửa Minh Quang.
Biết chàng tâm sáng như vầng nguyệt,
Tình nghĩa vợ chồng cốt thuỷ chung.
Gửi lại hạt châu đôi dòng lệ,
Tiếc không cùng gặp lúc còn xuân.
Tiết phụ ngâm
Ngọc Châu
Dịch 2012
Biết rằng em có chồng
Vẫn tặng đôi châu ngọc
Giấu tình chàng trong bọc
Cài vào áo lót hồng
Lầu nhà, Ngự Uyển gần không
Chồng vác kích canh cửa hồng Minh Quang
Biết lòng chàng sáng như gương
Nghĩa phu thê em phải mang trọn đời
Ngọc châu trả lại chàng thôi
Tiếc thay người chẳng gặp người trước kia.
27. VƯƠNG CHI HOÁN
Vương Chi Hoán quê ở Tịnh Châu nay là huyện Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông sinh vào thời nhà Đường. Thơ ông nổi tiếng một thời, thường hay cùng với Vương Xương Linh, Thôi Quốc Phu và Trịnh Hộ xướng hoạ. Ông thi nhiều lần không đỗ. Thơ của Vương Chi Hoán thường được các nhạc công thời đó phổ nhạc
44. XUẤT TÁI
Nguyên tác : 出 塞
黃 河 遠 上 百 雲 間
一 片 孤 城 萬 仞 山
笛 羌 何 須 怨 楊 柳
春 風 不 度 玉 門 關
Phiên âm : Xuất tái
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận[4] san.
Khương[5] địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn[6] quan.
Dịch thơ : Ra ngoài biên ải
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Hoàng Hà xa tắp trắng mây đan
Một bức thành đơn giữa núi ngàn.
Tiếng sáo Khương sao ai oán liễu,
Gió xuân chẳng đến Ngọc Môn quan.
Ngoài biên ải
Ngọc Châu
Dịch 2013
Hoàng Hà mờ trắng mây đan
Trường thành đơn độc giữa ngàn non xa
Sáo Khương ai oán liễu tà
Gió xuân chẳng đến quan hà Ngọc Môn
45. ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU
Nguyên tác : 登 鹳 雀 樓
白 日 依 山 盡
黄 河 入 海 流
欲 窮 千 里 目
更 上 一 層 樓
Phiên âm : Đăng Quán Tước lâu
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Dịch thơ : Lên lầu Quán Tước
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Mặt trời đã khuất núi cao,
Hoàng Hà uốn lượn chảy vào biển khơi.
Muốn nhìn ra tận chân trời,
Một tầng lầu nữa, xin mời leo lên.
Lên lầu Quán Tước
Ngọc Châu
Dịch 2013
Mặt trời khuất hẳn phia non cao
Uốn lượn Hoàng Hà nhập biển trào
Ai muốn nhìn nơi trời tiếp đất
Mời leo tầng nữa thử xem sao.
28. VƯƠNG DUY
(699 – 759)
Vương Duy tên chữ là Ma Cật, người huyện Ky thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi đời Đường Huyền Tông, làm quan đến Lại Bộ Lang trung. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông bị ép ra làm việc. Sau hết loạn, ông được tha và phục chức nhờ ở bài thơ Ngưng Bích trì. Về sau ông làm đến Thượng thư Hữu thừa. Ông còn giỏi về âm nhạc và hội họa. Tranh sơn thuỷ của ông nổi tiếng đại biểu cho phái Nam Tông. Người đời thường khen ông là “trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ”. Đối với Phật giáo đương thời, ông có địa vị cao trong Thiền phái Nam tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật (Lý Bạch được gọi là Thi Tiên, Đỗ Phủ được gọi là Thi Thánh)
46. NGƯNG BÍCH TRÌ
Nguyên tác : 凝 璧 池
萬 户 傷 心 生 也 烟
百 何 官 日 再 朝 天
秋 槐 花 落 空 宮 俚
凝 璧 池 头 奏 管 絃
Phiên âm : Ngưng Bích trì
Vạn hộ thương tâm sinh dã yên,
Bách quan hà nhật tái triều thiên.
Thu hòe hoa lạc không cung lý,
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền.
Dịch thơ :
Ao Ngưng Bích (1)
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Muôn dân đau khổ bao giờ yên?
Quan lại khi nào được yết thiên?
Hoa hòe thu rụng, quanh cung trống,
Ngưng Bích đàn vang tiếng sáo huyền
Thơ viết ở ao Ngưng Bích
Ngọc Châu
Dịch 2013
Muôn dân khổ bao giờ yên
Trăm quan còn được ngước lên bệ rồng?
Hòe thu rụng, cung trống không
Đàn vang Ngưng Bích, sáo cùng họa theo.
47. TRÚC LÝ QUÁN
Nguyên tác: 竹 里 館
獨 坐 幽 篁 裏
彈 琴 復 長 嘯
深 林 人 不 知
明 月 来 相 照
Phiên âm : Trúc lý quán
Độc toạ u hoàng lý,
Đàn cầm phục trường khiếu,
Thâm lâm nhân bất tri,
Minh nguyệt lai tương chiếu
Dịch thơ: Quán Trúc Lý [7]
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
1. Một mình bên khóm trúc,
Đánh đàn, lại hát vang
Rừng thẳm ai biết được
Trăng sáng chiếu ánh vàng.
2. Một mình dưới bụi tre xanh,
Chơi đàn ta lại một canh hát dài,
Rừng sâu chẳng có một ai,
Ánh trăng sáng rực chiếu hoài đến ta
Quán Trúc Lý
Ngọc Châu
Dịch 2013
Mình ta bên khóm trúc
Chơi đàn rồi hát vang
Nơi rừng xanh ai biết
Rực sáng ánh trăng vàng.
29. VƯƠNG HÀN
( - 710 - )
Tên chữ là Tử Vũ. Người đất Tần Dương, Tĩnh Châu (Sơn Tây) Trung Quốc. Đỗ Tiến sĩ đời Đường Huệ Tông (năm 710). Làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Cuối đời làm Tư mã tại Dao Châu
48. LƯƠNG CHÂU TỪ
Nguyên tác: 涼 州 詞
葡 淘 美 酒 夜 光 杯
欲 飮 琵 琶 馬 上 催
醉 臥 沙 場 君 莫 笑
古 来 征 戰 幾 人 回
Phiên âm: Lương Châu[8] từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Dịch thơ:
Khúc từ biệt Lương Châu
Phạm Đình Nhân
Dịch 2003
1. Rượu ngon muốn một chén say,
Đàn kia, ngựa đấy vơi đầy dục ai!
Sa trường mặc kẻ say dài,
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về?
Dịch 2012
2. Rượu quý Bồ Đào muốn thỏa thuê
Tỳ bà lại dục ngựa mau đi
Say mềm nằm đó ai chê được
Chinh chiến từ xưa mấy kẻ về
3. Bồ Đào rượu ngọt chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa đi
Say ngủ chiến trường cười cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?
Giã từ Lương Châu
Ngọc Châu
Dịch 2013
Rượu bồ đào chén lưu li
Tì bà đã giục ngựa đi mất rồi.
Sa trường say, ngủ môi cười
Xưa nay chính chiến mấy người hồi quê?
30. VƯƠNG XƯƠNG LINH
( ? – 756)
Nhà thơ Trung Quốc đời Đường. Tự là Thiều Bá. Quê đất Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. Đỗ tiến sĩ năm 727 đời Đường Huyền Tông được bổ làm Hiệu thư lang. Sau vì sơ xuất bị hạ làm chức Uý tại Long Tiêu, phía tây sông Tương. Khi trở về quê nhà gặp lúc loạn lạc, bị Thứ sử Lư Khâu Hiến giết chết vì tư thù.
Vương Xưong Linh được người đương thời gọi là Thi Thiên tử.
49. KHUÊ OÁN
Nguyên tác : 閨 怨
閨 中 少 婦 不 知 愁
春 日 凝 粧 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 壻 覓 封 侯
Phiên âm: Khuê oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch thơ :
Hận phòng the
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Phòng the thiếu phụ há chi sầu,
Tô điểm, ngày xuân lên trước lầu.
Bỗng thấy ven đường vương sắc liễu,
Hối xui chàng kiếm tước phong hầ
...