CHƯƠNG II
TÍNH KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN
2.TÍNH QUẢNG DIỄN VỀ KHẢ CẤU THỰC TẠI ĐA KHÔNG GIAN.
2.1ÂM HƯỞNG THA TÍNH.
Đặt định trong không gian, chẳng khác gì, ngoài một sự gieo rắc vào âm hưởng của điều gì đó chính quy thực tại. Có thể trong những biểu hiện đối với biên vùng ở bất cứ mọi sự nhìn nhận nào về thực tại, cũng luôn luôn ẩn chứa những điều lọt ra khỏi tầm kiểm soát của ngôn ngữ diễn giải. Hướng định đến thực tại, để nhìn nhận về chính nó cho những gì bỏ ngõ là một điều hiển nhiên.
Tính sáng sủa của mọi diễn giải, đòi hỏi điều gì đó được minh bạch trong từng kết luận về mỗi sự trùng lặp là không thích đáng. Không điều gì có thể soi chiếu vào biên vùng của thực tại mà am hiểu hay nhận ra ở đó được những tư suy cố hữu nhất, cho chính định hình về bản thể. Hữu thể cố gắng nhìn nhận nó như một thành phần của những nền móng phông vỡ vào trong huyền nhiệm miên tục, bản thân nó mang điều gì đó, được coi là mờ ảo khi đặt định chúng trong quan hệ với cái vô nghĩa.
Quán xét về phía những khả năng tạo dựng thành mỗi một cung cách hướng đến huyền nhiệm, bản thân hữu thể luôn mong muốn trong chính mình một cung cách cụ thể, để lĩnh hội điều gì đó, được cho là đúng đắn đối với mọi quy tắc, mà bản thân nó, luôn mong muốn dược diễn giải một cách rành mạch hơn. Cái cụ thể nào của thực tại, rồi cũng dựa trên những gì chính thống cho mọi đặt đinh về phía hư ảo đó.
Trong khoảnh khắc gieo rắc ấy, bùng cháy lên một nghịch lý, mà bất kể mọi sự cố gắng nào, nhằm dung hòa tính nghịch lý đó, đều mang đến/dẫn dắt như hướng về phía bức tường tượng trưng cho một ngõ cụt, của niềm tin khát khao (có khi kiêu mạn) về sự tự tri chính những gì tự tin nhất. Không một mang vác nào, chắc chắn như vậy, soi vào thực tại mà có lý trong tuyệt đối tính hay được bù đắp cho một kết quả chung quy nhất, đối với bản thân hành trình nhận thức của nhân loại hướng về.
Điều gì là khả quy rồi cũng sẽ được trao cho chìa khóa đi vào mê cung của sự khả quy tương xứng. Bất kể một bản ngã nào cũng đều là hiện thân cho chính hữu thể có tương quan đối với huyền nhiệm của thực tại.
Cảm thức mang đồ thức chấm định những khuynh lực bức phát nên bên trong lộ trình diễn giải của chính bản thân cảm thức, khu biệt và định vị vùng khả trương lắp ghép có tổ chức, bởi sự chi phối của tác động lấp đầy ngoại giới có ý tính miên viễn chính bản thân cảm thức. Khuấy động bên ngoài những ấn kí mơ hồ hòa hợp trong mọi cung cách phô diễn biến thái dị dạng của xác suất xảy ra. Từ trong lòng mỗi biến cố, khi nó đưa đến một hệ quả mà chính mỗi hệ quả đó định niệm nên bên trong bản thân cảm thức, những tương tranh hoàn trộn bản nhiên, để phục sinh sự phóng tán tha tính.
Khuấy động bên ngoài, nhằm tạo tác động để tì một cách nhẹ nhàng lên chính sự tiếp xúc với cái coi như đó là nội vi. Từ đó, ấn kí sẽ được tạo ra một cách mơ hồ, nhằm hòa hợp trong mọi cung cách phô diễn biến thái dị dạng xác suất. Khi chính mỗi biến cố sự kiện là cách đặt định, để quy hồi về tổng thể thì ấn kí qua những phô diễn xác suất đó, nhằm đi đến một cách trực diện đối với điều chính quy như nó là tất cả hệ quả của những khuấy động nên bằng các tiềm tố. Không thể yêu cầu hay đặt ra những cách thức hàn lâm nhằm đưa đến những đòi hỏi đối với chính sự ấn kí đó, mà theo cái cách ta muốn có cái này hay cái khác. Cũng khó mà có thể thiết lập được tính chất xuất diễn nên/thành của những phôi dẫn từ các ấn kí đó. Phô diễn là phôi dẫn cho sự uốn nắn chính những gì chứa đựng trong tính chất phô diễn, để hướng đến một đối tượng nào (bất kì). Hòa hợp ấn kí, đó chỉ có thể mang lại chút cảm tưởng, dường như là mơ hồ ở phía chủ thể mà thôi, ngoài ra, không còn gì khác nữa để hòa hợp ấy đóng vai trò như hệ quả của chính những phôi dẫn đi đến nội vi (bên trong), so với biến thái cách xảy ra phương thức kiểm tỏa của những nghịch dị, với mong muốn khả tức cho những điều gì coi như đó là khác đi, hay không giống với những điều như trước đó nó đã thấy. Về phần xác suất được nêu ra trong quá trình ấn kí đó, thì không gì khác, sự liền mạch cho công cuộc phát xuất nên chính những điều kiện, cho về/đổ bộ đến hoặc lấp đầy đi/khởi tạo một cách đầy đủ, luôn là một quá trình, mà ở đó, có sự xả thải của những phân tử vào ngóc ngách ngập tràn những tính năng đơn điệu đôi khi có phần giảo hoạt.
Và từ đó, khi tiền tố của nó chính là đồ thức chứa đựng nên những khuynh lực bức phát từ nội vi cảm thức. Bằng/thông qua lộ trình diễn giải, nội vi cảm thức thực hiện sự quy hợp nên những phương thức định chung chuẩn mực, đối với những thể hình, mà xâm nhập nên (khi tính đến như thế được gán cho cái tên biến tướng) thì cũng luôn là vì tiềm tố đó mà thôi. Khuynh lực bức phát được khởi thảo một cách suông sẻ lắm mới có những khả năng phi thường, nhằm quán xét tất cả những phân trùng ngoại biên, ở tất cả các đối tượng, để bức phát là bức phát về những cái gì (đối tượng nào?) mang tính chiết xuất đồng nghĩa với chính ngoại diên của sự bức phát đó.
Chấm định, như nó có như thế mà khuynh lực bức phát mới có những/đủ động lực để hoàn thành dự trình bức phát, đem lại kết quả thành công mĩ mãn mà thôi. Chấm định là mức độ tập trung đối với mọi sự kế thừa có chủ đích, của điều gì đó, được cho là tập trung ở những diễn trình mà bước kế tiếp/sau đó luôn là sự truyền hưởng. Chấm định là cách để đặt ra để thống nhất toàn bộ những căn tố nhằm kết tụ lại mọi sự dự tính đồng đẳng và ngưng trùng, khi bước vào trận địa giữa các bên tham chiến chẳng hề nhân nhượng hay cả về gì ở trong chừng mực, với mức độ luôn được hiện lên bằng với chính sức điều động mang lại từ điều kiện rao bán những gì đó, gói gọn trong tính chọn lựa giữa các mức độ.
Khi chấm định hoàn thành bước tiếp xúc (đến) và chạm vào diễn trình tiếp theo, thì lập tức nó quay trở về phía sau, đồng thời, nhường lại chỗ cho vùng khả trương lắp ghép có tổ chức bên trong không gian cổ điển. Vùng khả trương lắp ghép này là vùng/môi trường có sự quy chuẩn của những liên thông dật ứng về phía/về lại những đối tượng. Khi đó, mới đến và chính chất cho quá trình lấp đầy ngoại giới có ý tính miên viễn từ chính bản thân cảm thức, có vùng khả trương lắp ghép là khu vực luôn biến thiên độ phát sinh không gian đến độ cao trào nhất. Chính ở đây, mà những dự phóng về những điều gì đó, có cho nó như là hay, coi nó như những kiện tính cho mọi phông nền dẫn khởi đi ra từ căn tố đồ phồn nào đó, ngày càng được đổ đầy tràn vào và lấp đầy đi một cách không ngừng nghỉ. Ngoại giới, chính vì thế, mà chứa đựng tính khả cấu đặc sệt lại trong mọi tính phóng xuất mang bản tính đột sinh vào ngoại vi. Chi phối tác động lấp đầy ngoại giới mang/chứa đựng ý tính miên viễn, đối với bản thân cảm thức đương lượng trong một thế giá ngang bằng.
Do đó, mà bản nhiên sẽ thẩm thấu vào trong trạng thái đặc sệt đó của ngoại vi, nhằm tạo sự giải phóng mọi mô phỏng về phông nền biên kiến/hiệu chỉnh cho chính những cung cách thoái trào về lại phía chính đối tượng, mà ở đây, là nội vi tại vị trong chủ thể. Bản nhiên sẽ khởi dẫn nên những khải thành, cho mọi sức lực kìm nén bấy lâu nay, nhằm đặt để cho bước/hướng định về phía hệ quả của các biến cố. Hệ quả đó, được đặt ra như muốn thúc đẩy chính sự khiêu khích nội vi chủ thể dùng chính năng lực của mình, để thực hiện phương pháp thẩm thấu hữu thể, với cung cách đương lượng ngang bằng như thế nào. Bằng với mọi quy cách diễn giải nên chính quy trình dựng xây mọi biểu hiện cho những xung lực, đi từ bản nhiên mọi cấp cấu nào đó, được gia bội lên đến những hạn độ cực thịnh, sẽ là điều chính quy cho mọi giới tuyến phân trùng nên với mỗi tư cách khi chính tư cách, nhằm biểu đạt cho là như vậy, với những bổ túc cần thiết, để chính bản thân cảm thức sẽ thực hiện được quy trình dự phóng nên quá trình hội thông với chính ngoại vi (tất nhiên, là ngoại vi đó, bằng với hay ít nhất ra, trong phần lớn cơ cấu của chính nó cũng như ngang mức với huyền nhiệm bản thể thực tại).
Tiếp theo cho sự hội thông, đó chính là giai đoạn quan trọng hơn bao giờ hết mà những tương tranh hoàn trộn bản nhiên, được phản phục không ngừng trong vòng quay liên tục tiến diễn nên/không ngừng trở nên/thành hình như thế. Điều đó, dường như luôn được coi là đúng với những quy tắc hội thông trước đó. Bước đi của sự gợi mở vĩ đại nhất, bước khởi dẫn nên điều gì đó quá thiêng liêng và tráng lệ đến ngỡ ngàng, những sức vóc của nó (khiến cho mọi phép quay trong vô cực chiều trong không gian Hilbert cũng phải thỏa mãn quá chừng đi, cho chính tác động mà mình (cũng có thể nói nó cho chính nó, mang lại như thế, là vì nó) đã tạo ra). Tức là, đi từ tương tranh có được đó, ta có thể hồi quy về lại với chính những điều động mong muốn dẫn khởi nên những tiềm tố, đặt định những bổ túc, không gì khác đi, chính là sự phóng tán tha tính. Phóng tán tha tính đồng nghĩa với việc “ontology” phải được xét đến như tư cách của điều hiệu triệu mới lạ một cách phi thường. Không và rất khó có thể, dùng chính lý tính để chứa đựng mọi tri thức có được về công cuộc phóng tán này được, mà chỉ có thể và chắc chắn như vậy, trên chính âm hưởng của tha tính, ta mới biết được tầm cỡ của sự phóng tán tha tính đó là như thế nào, mà tha tính là cách phân lãnh nên tất cả điều gì đang có, được lấp đầy trên căn tố dự phóng một cách đầy tràn sự phóng tán từ chính bản thân cảm thức, về phía những biểu thị mang tính đang là.
Bản thể tôi một khi đã tồn tại thì phải ý thức được rằng, nó đang được biểu thị trong một không gian, đồng thời nó phải thu nhận được những phản tỉnh ý thức bao chứa nó trong không gian đó. Bản thể tôi bằng với tư cách hiện diện của hữu thể. Trong ý thức, dự tính được rằng, mỗi một không gian biểu thị nên ở đó (tức trong chúng) những đối tượng được lấy nó làm trung khu cho chính những không gian ấy. Điều mà mỗi một không gian làm là biết rõ mình được nhìn dưới khía cạnh đang có của một bản thể tôi. Ý thức tồn tại của bản thể tôi, trong cung cách ứng phó với những khả quyết, trong tư cách đặt định quan hệ với chính những không gian, thì luôn luôn được sắp đặt cho những ưu thế không gì cưỡng lại được. Với chính ưu thế đó, mà trong không gian chứa bản thể tôi, khi bản thể tôi đóng vai trò làm trung tâm cho chính không gian thì chính thật điều kiện cho bản thể tôi tồn tại luôn được biểu thị trong một không gian.
Khi bản thể tôi ý thức được sự có mặt của mình, thì ngay chính lúc đó, nó phải phản tỉnh để sự tự ý thức quay về lại, khảo sát cho ra đời điều minh chứng đối với mọi hệ quả, có được từ sự định vị của mỗi truy tầm không gian hay phối cảnh dưới cái nhìn bản thể, được hạn định trong một thuộc tính nào đó, chỉ có thể thông qua sự phản tỉnh mới có khả năng quy chụp/thâu tóm lại được. Phản tỉnh ý thức còn là cách để bản thể biết nó sống như thế nào với tư cách như một bản thể. Không gian có cự lại cho những khả năng giới hạn đối với mọi thể phách của những nhen nhóm nhân tố chính thức cấu nạp vào trong tận vùng biên của mỗi hạn độ. Riêng/duy chỉ có những phản tỉnh ý thức về chính bản thể tôi, được biểu thị qua những khởi nguyên không gian, được dẫn nhập vào trong nó luôn được cho thấy bởi bất kì điều gì đó có đến với hàng trăm tư cách khác nhau. Khi nhìn nhận về phía linh động nhất, đối với chỉ dẫn/cắt ghép trong mọi bộ phận ngày đêm lưu chuyển thì có thể đi đôi với chính những điều kiện để đặt định hay kêu gọi cho chính sự phóng tán nào, cũng là mức độ xuất diễn cho tha tính, nhằm đặt ra để thực hiện công cuộc tương tranh với ngã tính. Tha tính là cơ trình để biểu sinh nên chính những tha thể. Tha tính đặt ra như một đối ngẫu với chính cái được gọi cho một khái niệm (cụ thể như chính tên gọi) là ngã tính, chính muốn nói đến nhiều hơn việc tha tính, được kết tập nên một cách khải lộ khả hữu, hơn nữa, để không gì khác đi nhằm tăng cường hệ thống mở của cơ cấu bản thể tôi.
Khơi động những xung kích từ phía giác độ của bản thể tôi, định mức trên những cung cách sơ nhiên hành động hóa cảm bản thể tôi phóng chiếu vào trong tính ưu hóa của mỗi một không gian bất kì. Mà trong mỗi một khả năng phóng chiếu của sự giác độ cảm quan, trích xuất từ sự ưu hóa của hành động phô diễn gom góp bên trong tức thời tính của đương độ trực giác tính. Lúc đó, bản thể tôi thực hiện một cuộc tồn vong lộn ngược bởi định lực có chủ ý cho sự hư vô hóa chính bản thân mình.
Xung kích thì lúc nào cũng thế, cố vươn vai về phía trước như rành mạch cho tính ý hướng của đối tượng được sáng suốt hơn. Xung kích được khơi động nên thì có thể thấy được rằng, khả năng tác động có thể hướng về phía nào đó là được đề hướng một cách rành mạch/mạnh mẽ. Xung kích phát tán mọi tiềm năng, để từ đó, mọi ẩn số xem như là được điều động mang dự phóng của những quy chuẩn đoán định rạch ròi. Xung kích không vì những ngoại lệ, mà còn vì, chúng được phân bổ (chính xác và quan trọng nhất, ở đây, được nói đến là chúng được khơi động) từ yếu độ bản thể tôi, xung kích hướng về phía vũ trụ cổ điển mà xuất phát của nó là từ phía giác độ bản thể tôi. Giác độ là cốt lõi cho một điểm chỉ của những tự quy chính bản thể, hạn định trong mức độ trên những cung cách sơ nhiên linh động trên chính bản thể tôi. Bản thể tôi với sự có mặt của mình trước mọi sức căng biên độ biến tính tức thời, nhằm khai phóng vào bên trong cung cách sơ nhiên hành động đó chính bản thân cảm thức, mà biểu đạt qua hành động hóa cảm bản thể tôi. Định mức trên những cung cách sơ nhiên hành động hóa cảm bản thể tôi, phóng chiếu vào trong tính ưu hóa của mỗi một không gian bất kì. Hóa cảm đó, như đã nói, phóng chiếu vào trong tính ưu hóa, mang trong nó những quy chuẩn, hẳn là điều sẽ không thể phủ nhận và bàn cãi gì nhiều thêm nữa. Tính ưu hóa của mỗi một không gian bất kì là mức độ quy hướng về chính những phân vùng không gian mà tự hành động hóa cảm của bản thể tôi, chứ không gì khác, mới có như thể nó đã mang/bao chứa mọi sự đặt định có định hướng về mỗi một không gian bất kì. Phỏng chiếu vào trong là hành động thu gộp mọi ảnh hưởng chạm đến vi phần của chính hành động hóa cảm bản thể tôi. Cung cách sơ nhiên là mức độ phỏng chiếu để quy giản/kết tập nên hạn độ định khối vững chãi nhất.
Để từ trong những khả năng phóng chiếu của giác độ cảm quan sẽ đi/xuất phát từ chính hành động hóa cảm bản thể tôi đó. Khả năng ấy, được phát biểu rằng, bằng với tác động của mọi biên vùng thành phần trong không gian cổ điển, sẽ luôn được làm ngưng kết lại bằng những thể cách phối cảnh trên chính những giác độ cảm quan chính bản thân chủ thể. Khả năng phóng chiếu đó, như chính nó, chứa đựng định mức trên cung cách sơ nhiên hành động hóa cảm chính bản thể tôi. Giác độ cảm quan, nhấn mạnh đến nó, như cầu thị để mức độ đáp ứng từ sự định hình chính mỗi tác động từ bản thân chủ thể, mà quan trọng hơn hết, từ trong nó, là bản thân cảm thức với những đường hướng của bất kì mỗi một phô diễn gom góp nào, cũng luôn được định đoạt cho chính nó bằng sự tự trị không mang bất kì một yếu tố ngoại lai nào. Phô diễn tổng hợp lại nên bên trong cảm thức nhưng không với chỉ mọi các định phần cảm thức, mà chỉ trong tức thời tính của đương độ trực giác tính bên trong chính cảm thức mà thôi. Tức thời tính của đương độ trực giác tính, được hiểu như là khoảng tiếp giao trên một đương lượng nhỏ nhất, của sự tiến diễn những phân bổ vào mọi ngóc ngách không gian cổ điển. Đương độ trực giác tính được hiểu như là khả năng mà trong một sự hạn định chóng vánh nhất, bên trong nó, kết tập được những điều ước hẳn nhiên một cách quân bình trên mọi đối tượng khó có sự xáo trộn hay trách cứ từ bất kể một chỉ trích nào. Tức thời tính, được đặt trong quan hệ với đương độ trực giác tính, cũng như làm cho sự cơ cấu hóa trên những phân đoạn di trùng man nhiên, được phân lập trên những mức độ coi như đó là ngắn ngủi nhất. Giác độ cảm quan trích xuất từ sự ưu hóa, ý muốn nói rằng, cảm quan chỉ trích nên trên nó những phân độ quảng cách, bởi chính những lai căng xuất phát từ phồn tạp thực tại. Ở trong mỗi định cảnh, mà bất kể mỗi một chủ chốt nào cũng được quy giản thành muôn vàn những dải kết cấu chất chứa trong nó sự phán truyền hạn độ những phẩm tính nghiêm khắc, của tự trị chính mỗi phân lập khả năng của cộng hưởng những hạn độ tính đó. Ưu hóa phô diễn là đặt trong cách thức, mà tính tích cực xuất phát từ mọi điều phán truyền lưu chuyển trên những phân phối, khó mang đến những hệ quả rạch ròi và cần mẫn trong từng tác động, đối với mọi kiềm chế nhằm thanh lọc tức thời tính mang tất cả mọi sự đổ bộ dồn dập xâm nhập vào chính những phân trùng của nội vi, nhưng luôn luôn được tính đến, do đó, đối với đặt định cho tức thời tính (ấy) chứa đựng những căn tố thắt chặt trên mức độ hội thông của đương độ trực giác tính.
Đồng thời với chính mọi biểu hiên đó, thì bản thể tôi giờ đây đã thực hiện một cuộc tồn vong lộn ngược, bởi định lực có chủ ý cho sự hư vô hóa chính bản thân mình. Tồn vong lộn ngược có nghĩa là sự điều động đi về trên những biểu sinh tha tính chính chủ thể. Xuất phát từ cố định của mọi quy hướng về với nó thì sự kiện tồn vong lộn ngược đó bản thể tôi, từ đó trở nên bị thoái lui đến vô tận, ngang bằng với bước tiến của sự mở rộng không giới hạn của hòa tan biểu sinh tính. Tích tụ bên trong mọi cuộc tồn vong, theo chiều ngược lại, chính thức từ đó sẽ thăng hoa đi đến những hạn độ khó có sự tái định của mọi quy tắc thăng giáng bất bình thường, khi xét đến một hiện tượng bất kì nào đó, dĩ nhiên, là khảo sát trong chính quá trình tồn vong mang sắc thái như thế. Khó có được một quy tắc đồng bộ nào, được vạch ra một cách chín chắn nhất, đối với những hệ quả mang tính định xuất của những/mọi phối cảnh theo hướng đối ngẫu trở lại những cung cách biểu hiện ra bên ngoài, của những căn nguyên đối với cái được coi như đó là mang tính định lực.
Khai sinh tính định lực là đặt trong quan hệ đầy tiềm năng của chính mỗi một phân vùng nào, đi từ định lực đó, mang trong mình sự chân chính của những khả thể. Định lực bào mòn đi phẩm tính hướng định thì mọi ngẫu sinh nên những cương vực cộng tồn vào không gian, để từ đó dẫn khởi đi từ định lực có chủ ý, cho sự hư vô hóa chính nó, tức bản thể tôi, được đặt trong quan hệ nào đó mà nó có. Không chỉ trong những gì, mà coi như đó, tính chủ ý hướng về sự hư vô hóa chính bản thể tôi là điều được khải thị nên những ưu huyền tuyến tính thường hằng của tính chất hoàng gia, trong công cuộc chủ ý có gia bội từ định lực ấy. Không chỉ và rất rõ ràng rằng, điều kiện mà gia lực truyền hưởng vào để hư vô hóa có khả năng phán đoán một cách thật chu toàn và lành lặn, thì luôn được đặt ra trong yêu cầu và biểu kiến nên thành những quy chuẩn, là luôn được đặc cách cho mọi cuộc hợp thức hóa coi như (là) điều quan trọng phải sẽ được luôn tăng cường hơn, không những cấp số, mà luôn tĩnh lặng gia cố vào hơn nữa điều tinh túy/rành rọt, của mọi cuộc hoan ca sẽ là khải huyền đối với mọi điều, mà định lực có chủ ý sự hư vô hóa đó như gieo rắc vào chính những truyền hưởng, được khả thi đối với mọi định lực truy xuất nên cuộc hoan ca. Đi từ chính thực của mọi sự truy xuất về phía cộng tồn nào cũng sẽ là gạn lọc cho bằng được những tái thiết dựa trên tha tính, luôn được đặc cách cho chính khởi nguyên của mọi sự cộng sinh, như đã nói đến trên tiến trình biến cố với sự kiến tạo không gian.
Vì cộng sinh, cho nên, bản thể tôi ý thức được rằng, bản thể tôi đang hiện hữu thì cũng đồng nghĩa với việc bản thể tôi đang bị phân mảnh thành phi – bản thể tôi trong những không gian đa hợp. Tha tính, giờ đây, mới thực sự đảm nhận trách nhiệm huy hoàng của mình. Trong công cuộc hiện hữu của bản thể tôi, tha tính luôn bị khỏa lấp vào cương vực huyền nhiệm thực tại, được giao cấu trong chính bản thân nó (tức là bản thể tôi). Tha tính định đoạt quan hệ của những đợt lưu xuất gạn lọc thẩm định nào, cũng là sự khế hợp từ mọi phôi sinh cho chính điều được thoái thác từ đó trở đi. Như khi mà, mỗi một cộng sinh gia lực cho tha tính khả nhiễm những hưởng ứng gia cố vào bên trong hạn độ cấu nạp nên (thành) các chất chứa, đối với mọi cung cách kiểm tỏa có chứa đựng những gì mà phát khởi nên, hay từ đó, dẫn khởi đi đều được tính đến trong những đặt định công bằng ngang ngửa.
Điều quan trọng, ở đây, là điều mà được sự ý thức từ phía bản thể tôi về phân vùng hư vô hóa chính nó. Lúc này, trên chính phân vùng như thế, tức hư vô hóa, quá trình đó sẽ hình thành/hiện diện nên phi – bản thể tôi đang bị phân mảnh trong công cuộc thoái trào từ chính bản thể tôi, như bước hiện trình đẹp đẽ nhất từ những không gian đa hợp. Có định hướng, mà cho ta biết rõ thì đều được sáng suốt một cách hiển nhiên, coi như chính hành động gia lực truyền hưởng vào một cách xán lạn hơn bao giờ hết. Đối với sự định hình nên bất kì mỗi một quy chụp nào, từ bản thân chủ thể tôi thì phi – bản thể tôi được đặt ra trên những đối tượng rõ ràng nhất.
Đối tượng đó, được biểu hiện trên chính mọi cung cách hưởng ứng từ những định xuất lưu động trên chính cái cũng được coi như với tính chất phồn tạp này. Tất nhiên, từ đó, sự đối trọng phải được đặt trong quan hệ song đôi của chính mỗi thành phần mà thôi. Đối trọng là hệ quả của phôi sinh thành hình từ mỗi một thành phần, như đã nói, để viện dẫn rằng, đây đó, có cho dù trên bất cứ mỗi một phương diện nào cũng than thở chính sự tự quy hạn định được như thế một cách sáng rõ, không gì cầu thị cho mỗi một lưu chuyển nào hoài nghi như thế nữa. Để rồi, khi quá trình tái tổ hợp diễn ra, phi – bản thể tôi sẽ lưu xuất trên chính thành phần trù bị, có đối phó về phía những cảm tác chế tạo nên từ nó, được phóng trợ từ tha tính phóng tán vào những phân ngạch của không gian đa hợp. Phóng tán tha tính là cơ sở cũng như động lực để thúc đẩy sự thịnh hành chính thực đồng nguyên trên/đối với lộ trình dẫn xuất nên phi – bản thể tôi mà thôi (ngoài ra không tìm được điều gì mang cấu tố mạnh mẽ hơn thế nữa). Tìm đến bản sao chính là minh định cho phóng tán tha tính.
Bằng cách định lượng khả năng tái cấu trúc của mỗi một không gian liên hợp khả vi, tôi có đủ can đảm để có thể khẳng định rằng, có vô vàn những bản sao khác chính bản thân tôi đang tồn tại trong những khả năng có thể xảy ra, ở những hợp cảnh của vũ trụ cổ điển này. Ở đây, không gian liên hợp khả vi khác gì so với không gian hay so với không gian cổ điển? Không gian là không gian chỉ chung cho mọi không gian, còn không gian cổ điển là không gian đang có như thế này đây. Đối với liên hợp khả vi đóng vai trò làm tính chất không gian thì khái niệm này được hiểu như chính tính chất đó, được hạn định ra trong diễn giải cho rằng, tính liên hợp được nói lên một cách liên tục, khả vi trong nó như là điều mà mọi sự giao cấu giữa các không gian thành phần tương tác với nhau, để nảy sinh nên những đồng phôi liên hợp khả vi đó. Như thế, liên hợp khả vi là không gian được nảy sinh từ tính chất (hay như đó, là chứa đựng được không gian như thế) bức phát ra từ sự giao cấu của những không gian thành phần.
Khả năng tái cấu trúc không gian liên hợp khả vi là trong một gián tiếp định hình nên tính tồn vong của chính không gian cổ điển. Khả vi liên hợp không gian luôn được nhắc đến, trên bước tái cấu trúc, nhằm muốn đặt ra quy chuẩn cho sự thăng giáng có biến điệu từ những lưu độ ở phía đối tượng, đặt định cố hữu bị ném ra khỏi quỹ đạo thành hình, mà bấy lâu nay, nó có được.
Khả năng tái cấu trúc đó sẽ hôn phối cho những bước đi kế tiếp những bước tiến luôn có sự uốn nắn từ phía những định liệu đối với tha tính. Đặt xuống đây, bằng cung cách trợ niệm, ta có thể thấy tha tính bao bọc trong mọi dẫn xuất lưu tâm đến những sơ cầu đáp ứng, trên chính điều được hiện diện là sẽ đồng phôi trong giao cấu của bất kể mọi sự đoán định nào. Bằng chứng là với mỗi một mức độ tha tính khả nhiễm vào dẫn xuất đó, thì khẳng định cho yếu tố cố định có được, trong lộ trình hướng đích đến với bất kể mỗi một điều kiện nào, cho mỗi “alter ego” hoạch định những chính đáng điều kiện đặt trong liên đới, với hệ hình bản thể mang tính cố hữu. Khi đó, qua cái nhìn của chủ thể trang bị những điều đó, sẽ luôn được ban cho cái mà ta gọi là tự tin chính đáng, đối với kết luận về những bản sao khác mình (khác bản thể tôi) đang lưu xuất, trên những không phận khác nhau, cũng ở trong không gian, nhưng khác không gian cổ điển, đang trong/gắn với hệ quy chiếu chính bản thân tôi đây.
Tha tính xâm nhiễm vào, để cho kết luận đó (mới) được đặt định trên một thái độ tự tin như thế. Phân tích trên chính tha tính được phóng tán vào, ta mới có thể làm rõ hơn hệ quy chiếu này. Nghĩa là, khi tha tính khả nhiễm vào ý hệ trên lộ trình tiến diễn của cảm thức, thì bùng cháy luôn ở đó những năng thức cho lương tri tập kết về lại, với những gì nguyên ủy của mọi sự so sánh có đối khu, trên chính những gì mà bản thân nó nhìn về phía hệ quả, coi như một cách hết sức tràn đầy hiển nhiên. Tha tính phóng tán, do đó, nó trở nên kịch liệt khỏa lấp vào trong mọi ưu hệ tối đẳng nhất, của hợp quần, mà cảm thức mang đến cho chính nguồn gốc của sự phóng tán tha thể. Tha tính phóng tán cảm hóa vào bên trong nó, những không phận, dĩ nhiên, là đối với chủ thể và những khả thể, mà giờ đây, đối trọng đó, được gia bội hóa ngày càng đậm nét và cung ứng nên (đến) sự kiến lập những mô thể, giờ này đầy tràn và vươn ra (đến) những biên chế của mọi thao tác hồi quy, cho chính mỗi hành động dựng hình đầy đủ tính chất khởi tố như thế. Tha tính mới thực sự không như những gì tính chất khác được dẫn khởi đi, mà từ đó, nó cho thấy những ưu việt của căn nguyên mọi thể hình luôn bơm tràn sức sống vào chính nó, khi tha tính đóng vai trò là nguồn gốc của mọi sự gia nạp, từ đó, quá trình khởi tạo nên những hợp lưu phản phục của đối tượng nào (bất kì) khác nó, là luôn mang một hiện diện rõ ràng.
Chính khi tha tính xâm nhiễm vào bản thể tôi mà liên thuộc của tất cả những định chế phối cảnh đó, tha tính mới đóng vai trò quan trọng trong sự phân lập, theo yêu cầu từ chính mỗi hạn độ cho chủ thể. Xâm nhiễm được định hình từ tha tính đó, phải luôn được diễn ra trong một môi trường, mà ở đây, không gì khác đang là hợp cảnh của vũ trụ cổ điển này. Hợp cảnh ấy, sẽ được bơm đầy bởi các sự kiện và lấp dần những khuyết thiếu chiếm hữu những phân bổ thoái hóa. Hợp cảnh vũ trụ cổ điển là phương thức tồn tại cho những động lực của tha tính. Động lực tha tính là biểu mẫu của những phổ hệ, theo bất kì mọi lưu chuyển cường sát nào, đến an nhiên tiệm vị một cách rành mạch nhất. Căn tố của động lực đó, chính là bổ sung cho mọi hòa tan về dự phần hội lãnh của bản thân chủ thể tôi, mang những quy trình đề xuất lên trên phân phối gián tiếp, đến những cơ trình hay như tính chất trực tiếp, đến lộ trình chung lập nên biểu đồ di mãn tha tính trong mọi đặt định nào, về việc phản tỉnh có được sức căng của những tiềm độ hội thông với chính các “alter ego” luôn được đặt trong một “ontology” đầy đủ ý nghĩa nhất.
Một khi tôi thực hiện hành động phủ định cá nhân bản thân tôi đây để viện dẫn rằng, tôi đây không phải là tôi, mà bản thân tôi chính thực là tôi đang tự hiện khắp các không gian đang tồn tại trong không gian cổ điển này, thì cũng đồng nghĩa với việc tôi minh định cho tính phức hợp tự tại của bản thể tôi.
Hành động phủ định cá nhân bản thân tôi có nghĩa là sao? Chắc chắn rằng, ta sẽ không bao giờ có thể phủ định được thân xác của chính chủ thể, mang sự hiện hữu của bản ngã đóng vai trò ngang bằng chủ thể tính này được. Bằng bất kì cách thức diễn đạt nào cũng thế, cho việc phủ định ấy, cũng luôn chứa đựng tính bất khả đó. Phủ định, hành động mang tính chất như thế đối với bản thân tôi không phải là những gì được/bị phủ định như vậy, mà chính là, quá trình ngoại diên hóa ra khỏi bản thân tôi để tham vấn cho những bản thân khác tôi, nhưng đó cũng là tôi khi tôi, lựa chọn cho mình cách thức khế hợp/thâm nhập vào nó.
Phủ định bao chứa trong nó những tiềm năng, mà đi từ bất kể mỗi một thôi thúc nào, cũng sẽ là điều đúng với tư cách của các nhà hàn lâm lấy đó làm cơ sở. Khó có thể chối cãi cho hành động phủ định đó là hết sức hiển nhiên, nhưng khi được hưởng ứng trọn vẹn cung cách mà nó được cho là sáng giá nhất, đối với chủ thể thì niềm tin lúc này khó có thể bị hoài nghi tuyệt đối. Hoài nghi dẫn dắt đến những bước dự liệu có quy chuẩn đối với ngay chính hành động, mà bất kể mỗi một sự bao chứa nào, cũng sẽ luôn luôn được khởi dẫn đi từ đó những trạng thái chất chứa trong nó tiềm năng hư cấu nào. Để rồi, từ mỗi một quy chuẩn có thẩm định với tính cách của bất kể và rộng ra là cả những sự cố kết nào cũng thế. Phủ định bản thân tôi tương đương với chính hoài nghi tích cực về hạn độ, viện dẫn những thành phần chứa đựng khả năng trọn vẹn, luôn nung nấu trên chính mỗi dự liệu của định phần, từ bất kể đối tượng nào tác động đến hay chịu phương thức tác động có ở mỗi một trung khu nào đó, thâu tóm trong mình khả năng truyền hưởng cho phôi sinh đang ngày càng gia bội cho những chiều hướng tiến đến khải thị, của những li độ gạn lọc ra bất kể mỗi một cấu tố nào bất kì. Khi đó, ta nói rằng, phủ định cá nhân bản thân tôi là sự kiện được tự quy hướng nội về với chính xác những gì căn tố bén gốc, được điều phối qua chính gạn lọc tha tính cấu nạp vào bên trong. Tuy nhiên, điều được huy động như thế/đó, luôn được thực hiện với những cung cách tác chế ngang bằng, với mọi sự dự định như thôi thúc cho các hưởng cảnh truyền dẫn về bất kì mỗi một đối tượng nào, mà đối tượng đó, luôn chứa đựng mong muốn thôi thúc ra bên ngoài.
Đi từ bước kế tiếp của hành động phủ định bản thể tôi, đó chính là sự khẳng định bản thể tôi đây, đang có đó, như thế này, tự hiện khắp các không gian đang tồn tại (tồn hợp có lẽ sẽ hợp lý hơn) trong không gian cổ điển, và từ đó (tức với sự diễn giải như thế), đồng nghĩa với việc hiện diện hóa cho quá trình minh định tính phức hợp tự tại của bản thể tôi.
Một quy tụ trọn vẹn nào, rồi cũng phải có đích đến hay giá trị mà từ đó nó thẩm định được. Trong mọi phong thái biểu hiện của chính quá trình bản thể tôi, tự do lưu động nơi mọi phương hướng có cấu nạp những gia bội truyền lực vào bên trong mình, để từ đó, lưu diễn đi sự định hình của sự kiện phủ định bản thể tôi này. Khẳng định cho việc tự hiện khắp nơi mọi thành tố cấu nạp ở không gian cổ điển đối với chính bản thể tôi đang di mãn trong những đường hướng đó. Chính cách thức kí gửi len lỏi đó, mà bản thể tôi được định hình một cách thông suốt. Khó có thể có được bất kì một sự diễn giải nào là xác đáng hơn, cho sự tự quy ở phía hữu thể, mà ở đó, luôn tính đến những tác động từ tha tính. Có những gia bội mang hiệu lực truyền hưởng cho tha tính được kí gửi vào mọi phương cách nhìn nhận sâu sắc nhất, nhưng cũng có những gia bội kí gửi trong một mức độ coi như khác đi, mang tính hời hợt. Để đảm bảo cho tính liên tục của gia lực truyền hưởng, mà bản thân chủ thể phải có được sự đòi hỏi, từ mức độ kiện toàn khả năng hội thông về với tha tính. Khi tác động từ tha tính tới chủ thể được sáng rõ, thì phức hợp tự tại của bản thể tôi được hiểu như một tính chất nội tại, sẽ khả thi cho sự tri nhận chính chủ thể thông qua cảm thức. Tính phức hợp tự tại là minh giải cho đặc cách vào trong miên trường tâm hệ, của chủ thể, có được những điều lượng trụ vững trước mọi sự xâm nhập, nhằm cố định (nói một cách gay gắt hơn là gia cố vào tính cực đoan, của sự yếu mềm phản tỉnh từ phía chủ thể). Mọi quá trình hoạt xung để đem lại hệ quả phản tỉnh, luôn khi nào cũng bị ngăn chặn, bởi vì, khó có được một thôi thúc/động lực nào, đủ khả năng cho mọi sự trình xuất hiện diện nên bước đột phá vào bên trong những thao tác lưu hành chính tâm hệ. Ở đây, nhờ có gia lực truyền hưởng của tha tính, nên mới có hệ quả qua tâm hệ đó, được điều phối nên những cấu hình minh giải cho tính phức hợp tự tại. Mọi hệ quả nào cũng xuất hiện trong những quá trình. Đi từ năng lực truyền hưởng mà trên mỗi mức độ giao cấu vào bên trong, ta đủ tư cách để khẳng định được rằng, phức hợp tính luôn tồn tại bên trong (nội vi) ngay khi chính những gì mà nó dường như không được nhắc đến. Nhưng tha tính khả nhiễm vào, thì nó liền bung vỡ và hiện minh.
Do đó, tiềm lực nội tại của ý chí luôn ấn định một động lực ngày đêm thôi thúc quá trình thoát xác nơi chủ thể. Tiềm lực đó, hàng ngày, bị hãm lại bởi sự gia cố vững chắc của thức năng tri giác. Chính tiềm lực đó, buộc hữu thể chỉ hạn định sự tri nhận từ phía thế giới này, vào nó, không gì khác đi, ngoài con đường thông quan chủ thể; nó không biết một chút gì đến sự tồn tại của tha tính, đóng vai trò như một cơ sở nền tảng cho mọi sự hiển minh, đem đến hệ quả sáng giá nhất đối với chính sự hiện diện của hữu thể.
Ý chí là kẻ mang lại sự định danh cho tha tính. Không thể kể đến bất kì điều gì có thể làm phai nhạt hay lu mờ đi thức năng tri giác, ngoài ý chí, thông qua tiềm lực nội tại của chính nó. Tiềm lực đó, là gia bội tính hằng hữu của những xung năng, được đặc cách trong một hướng đi luôn luôn hiện diện một cách rõ ràng, cho mọi thao tác cung ứng trên từng chặng với nó đóng vai trò như một dự phần. Tiềm lực kiểm tỏa mọi sự biên kiến nên mọi tha thể, đang luôn chờ/mong mỏi có sự đóng góp vào mọi cuộc đạp đổ chính đích đến, luôn nhắm vào thức năng tri giác của chủ thể tính không khi nào bị rạn vỡ. Tiềm lực của ý chí trong nội tại của nó bùng lên dữ dội và luôn được chờ đón như một sự thừa nhận điều gì đó không thể bàn cãi. Động lực từ chính những căn tố có trong ý chí chính là xung lực điều động mạnh dạn nhất, cho cuộc kiến thiết/xây dựng nên quá trình hoạt xung mọi phóng nhập thẩm thấu vào, để tận hiểu nguồn cơn chính những gì sẵn có trong hữu thể.
Nội tại tiềm lực đó, hướng đến mong muốn luôn đưa ra/trở thành từ những thôi thúc của quá trình thoát xác nơi chủ thể. Giới hạn của biểu sinh nào đó, có căn tố tha tính kiến lập nên luôn kết tập trong những phân trùng năng động, đóng góp tích cực vào những cuộc vật lộn với tồn sinh chính chủ thể tính, không một động lực nào đó, mà không gia cố cho mình có được những đặc cách bằng phi vụ hướng tha. Chính tính hướng tha (tha khởi không tính đối tượng kề cận phân đích như những chủ thể người) của ý chí, nơi chủ thể, mà hãm lực của chủ thể tính, có những lúc, bất lực trước quá trình đó. Tính hướng tha không những chỉ rõ tính chất của quá trình thoát xác, mà đồng thời, nó đóng vai trò là cơ sở (như một căn tố chủ đạo), vào sự điều động quá trình thoát xác đó. Nó như thể là điều kiện khó có bất kì một sự thay đổi nào, đối với chính nó, khi nó luôn là căn nguyên của mọi phôi sinh, đang trong quá trình hợp quần với mọi xung lực dự phóng ra khỏi chủ thể. Tính hướng tha tự minh mặc khải cho mình những cơ sở, cũng như động lực không thể không nói như một sự chính đáng.
Trên dự phần của ý hướng tính nơi cảm thức về phía chủ thể, lấy cơ sở nền tảng cho sự tự do hoạt xung của tha tính, ngẫu biến bên trong bản thân các không gian viễn trình. Tha tính có xâm nhập hay chỉ trong cơ hội, mà nó có thể như thế, tất nhiên, cũng sẽ luôn là phụ thuộc bởi ý hướng tính nơi cảm thức chủ thể. Dọi phóng và phản tỉnh. Tha tính là hạt nhân cho mọi cơ sở đem đến trong quá trình lưu chuyển của những dòng đệm xung, nên những ngẫu biến mà bản thân chủ thể hiểu điều đó rất rõ. Nó bất lực và dường như tiên cảm được sự cáo chung của mình là sẽ đến trong một ngày nào đó không xa.
Chính tính hướng tha đóng góp vào trong sự tự do hoạt xung này, mà cầm cự đi đâu hay cỡ nào đi nữa, cũng sẽ luôn đảm bảo cho tha tính ngẫu biến bên trong các không gian viễn trình (sự bày ra quá trình). Tính hướng tha đệm xung vào sự tự do ngẫu biến của tha tính, từ đó, căn tố đảm bảo đối với mọi sự dự trù đều được thực thi hay niêm phong một cách cẩn mật, mà nếu phá rối có mạnh lên đi chăng nữa thì cũng phải cố cầm cự trong những phút giây kí gửi mọi thành phần, coi như đó luôn mang tính tương ưng và đồng phôi. Mọi thể lý đều giản cách vào trong phương thức nhằm hòa hợp mọi phong hóa có được bằng khởi sắc đầy đủ và luôn luôn đảm bảo cho nó có được những bộ quy tắc trọn vẹn. Sẽ rất khó để có thể diễn giải ra lộ trình tính hướng tha được thực hiện hay như chính những khởi thảo nên, và bất kể một đòi hỏi nào, thêm nữa cũng sẽ khó giải quyết nổi, điều đó là bất kham.
Tha tính ngẫu biến bên trong bản thân các không gian viễn trình là lúc mà tha tính quy tụ những khởi điểm trong vai trò là căn nguyên của mọi đặc cách, khó có sự đả phá hay gây chia rẽ nào từ những gì ngoài bản thân nó. Cũng có lúc, mà chính sự ngẫu biến đó, luôn gia bội cho hiệu lực truyền hưởng mọi quá trình tha tính khởi sự nên thì lúc nào nó cũng luôn được biết đến, như chính những khởi sự đó là sẽ luôn được bổ túc và gia cố hơn nữa cho tha tính. Mọi sự đồng bộ có ở lộ trình hướng đích của tha tính luôn quy chuẩn cho tha tính có những diệu năng đặt ra/trên một cách ngang bằng với thức năng có trong chủ thể. Thức năng hay diệu năng đều được kiến lập trên mọi sự dự phóng, diệu năng là phổ biến nhưng không được coi như một vai trò đầy đủ của điềm nhìn nhận khách quan.
Nhưng lại có một nghịch lý rằng, mềm dẻo ảnh tượng lạc loài trong triển thời về mức độ kiến lập nên sự đảm bảo chắc chắn của thành trì tự tồn chủ thể. Đó như là mánh khóe của chủ thể trong quá trình hướng đến đích nhắm của dự phóng tha tính vào chính những ngẫu biến sai khác đi, hay chuẩn bị dự tính đem nó phân bổ vào trong những phân ngạch/hạng mục của mình. Chính giảo hoạt tính, giờ đây, của chủ thể biểu hiện và được thực thi một cách sáng rõ nhất. Giảo hoạt tính không bao giờ cạn khô cho sự chấp hữu chủ thể. Tha tính, vì thế, mà sẽ rất khó để có thể thực hiện những lưu động của mình, nhằm phát sinh những dự trù tha thể hóa chính chủ thể.
Đó không là gì khác ngoài cách thức chủ thể tăng cường giảo hoạt tính ấy trong chính mình. Điều mà mọi đề xuất đối với sự trung thực chính chủ thể là không nên tin tưởng. Chủ thể mang vác trong mình, giờ đây, những ảnh hưởng thật sự sâu đậm của giảo hoạt tính. Cái đó cũng khó mà trách chủ thể, vì nó không làm như thế không được. Cái khó, ở đây, là tính bảo thủ đến mức cực đoan của chủ thể tính luôn là một điều gì đó ghê tởm, mà sự tha hóa như một hậu quả tràn trề xảy ra như hiện nay, chính là một cáo buộc cho chủ thể tính cái đó không phải là một sự gán ghép hay cáo buộc vô căn cứ, mà luôn đòi hỏi sự khẳng định khó có thể đi đến một sự phủ nhận gay gắt. Giảo hoạt tính, có như thế, mới thắng vượt lên trên mọi bá quyền của chính chất mọi sự phóng tán từ ý chí, nhưng không phải lúc nào, nó cũng thực hiện được những dự định của mình một cách suông sẻ. Nói cách khác, cái đáng thương ở đây, cho mọi chủ thể là chính bản thân chủ thể tính quá cố chấp trong mọi hành động phục sinh sự phóng tán, mang đến hồi cố của những tiệm cận đến hạn độ khả nhiên cho mọi sự chính đáng đối với mọi mức độ kiến lập nên sự đảm bảo chắc chắn của thành trì tự tồn chủ thể. Mềm dẻo ảnh tượng trong triển thời về mức độ kiến lập, chỉ được coi như mọi khả tính linh động có trong bản thân ảnh tượng, luôn được hun đúc cho chính những phẩm giá đầy màu sắc nhưng không kém phần giá trị. Ở những chỉ dẫn, để đi vào tính mô phỏng những lượng thức diệu năng trong sự đối ngẫu với chính thức năng tri giác có trong chính bản thể, thì mọi cuộc trợ ứng phù phiếm nào, không hẳn là sẽ khả hữu cho những li độ rạch ròi được, giữa đâu là lượng thức diệu năng và giữa cái gì là sẽ được thức năng tri giác (trong chủ thể) đóng vai trò làm trung tâm của mọi lộ trình kết tập hay kiến lập nên. Điều đó luôn được và cần phải căn cứ trên chính định tính của huyền nhiệm thực tại này qua khía cạnh của cái được gọi như là bản nguyên.
Nói bản nguyên, ứng điệu với tồn vong của chủ thể. Tuy chủ thể luôn có hành động giảo hoạt để che lấp đi là thế nhưng bản nguyên của thực tại luôn chỉ định cho mức tồn vong của chủ thể là bất khả phi thực thi. Bản nguyên đó, trong những thời khắc bao chứa, phông vỡ luôn ngưng đọng lại mức trùng kết mọi ngang ngửa, đến mức độ là như nhau đối với mọi hình thể/đối tượng mang tính hiện diện, cho dù nó là thường hằng tính trong chuỗi dạng có vẻ như. Nhưng điều đó, không thể làm nản lòng đối với chính những mong mỏi được thực hiện, bởi vì, mong mỏi, đó là chính đáng và niềm tin có được từ chính bản nguyên này là một hạnh phúc.
Bản nguyên có sự sáng giá của nó khi đặc cách của chủ thể với sự hiện diện của nó, khi thỏa mãn mong ước của nó, luôn là không được vững bền. Bản nguyên soi rọi mọi điều coi như đó là tất nhiên của những phân bổ liên ngành những khả năng ngang bằng nhau, trong mức độ hiện diện của không riêng gì chủ thể. Bản nguyên quả thật đã làm nên điều mà chính những gì cũng không muốn có được hơn nữa là như thế. Tính chứa đựng ở vị trí toàn hảo của bản nguyên là điều không cần bàn cãi nhiều hơn nữa ở đây làm gì. Cái gì có ở đó, tức là, có ở bản nguyên cũng luôn luôn đi trong/bên cạnh những tương quan sáng giá nhất, và cho đó, có như là những dị biệt thì bản nguyên là điều như thể bất khả chối cãi. Cái có lý khi cho về hay đối với riêng bản nguyên là điều cần được tính đến trong sự định mức của những căn tố hoàn chuyển, những ngẫu biến có trong bản nguyên và mọi cách thức kiện toàn hơn nữa, cũng phải đứng trước mức độ bất lực là trên hết. Cái luôn có lý do cho mọi sự thành hình đối với bản nguyên là mức độ cố kết của nó luôn hướng đến với tồn vong của chủ thể. Đặt cơ sở trên những thứ tính khác thì bản nguyên, sẽ rất khó để nó có thể có, những điểm tựa vững chãi trong công cuộc định hình nên điều gì đó, có ích hơn đối với những gì nó sẽ làm và có thể làm được như thế. Điều được cô đúc trong nó (tức bản nguyên) là điều mà mọi sự đả phá vào cuộc tồn vong chủ thể, để thắng vượt mọi sự chống lại thái độ (hành động đả phá ấy là không thật sự đúng đắn). Bản nguyên hình thành như nó vẫn có đó, cho dù, mọi sự tiêu biến ở bất kể một bộ phận nào đó, cho dù là nhỏ nhất, cũng luôn đặt để nó vào trong công cuộc xây dựng và bảo tồn chính những luồn lách của mọi mưu mô, để chứng minh cho tài trí và sáng suốt của những lừa lọc vô đạo đó. Mọi tha hóa có ở tràn đầy không thật sự cho chính bản nguyên mà thật sự bởi căn nguyên từ chính những hội thông được với tính tồn vong của chủ thể.
Vì tồn vong, nên dao động triền miên luôn bị cô lập trong điều động xung khắc những ứng hệ toàn chuyển tha tính. Tất nhiên, là dao động đó sẽ được đặt trong một điểm nhìn nhận hoàn toàn khác. Có dao động thì tha tính mới thụ nạp vào những gia lực, từ đó, truyền hưởng đi đến tâm hệ (mà trung tâm ở đây là cảm thức). Dao động chỉ đặt ra như một ngoại lệ là bởi vì dao động đó, thăng giáng vượt cấp (nhiều khi thái quá trong ảnh hưởng mau chóng) nhằm hướng đến hệ quả xán lạn nhất (đôi khi chỉ trong những gì dự định mà thôi). Dao động triền miên là điều được đặt ra như thế luôn là tích cực, nó chỉ được coi là tiêu cực, khi nó đã vượt thoát khỏi sự kiểm tỏa chính đáng của lộ trình hướng đích đến ứng hệ toàn chuyển tha tính.
Dao động là dao động để thắng vượt mọi sự đổ bộ để công phá vào thành trì của nền móng vững chãi chủ thể tính. Triền miên như là tính chất được nói đến, bởi nó bị coi như cô lập trong điều động mang tính xung khắc những ứng hệ toàn chuyền tha tính. Ứng hệ, vì mọi cuộc lưu chuyển đều đệ trình đến sự dựng hình nên mọi phản ứng của rất riêng hệ quy chiếu đó. Xung khắc vì là đặt định trong quan hệ chủ - tha nên nói xung khắc thì cũng là điều thật sự dễ hiểu. Toàn chuyển tha tính là phối tận để đi đến tận cùng, những gì được đặc cách và vạch ra từ chính tha tính điều động/chi phối nên. Mọi sự cố gắng để thắng vượt từ dao động triền miên, luôn là trạng thái cô lập tích cực trong điều động đó, mà mọi ảnh tượng nào, được biên kiến trong chính tái cơ cấu đối với/trên sự điều động thì cũng đều được coi như là những kết quả của triền miên đó. Thắng vượt vì không bị hãm lực dễ dãi, nên có triền miên như tính chất dao động của nó – chỉ chủ thể, do đó, mới có sự thắng vượt, được nói đến, ở đây, thì coi như thế là cũng hợp lẽ phải.
Dao động không là triền miên thì sẽ gắn chặt vào sự cố kết hạn định từ chính chủ thể. Dao động triền miên chính là nhắm đến thời trường. Dao động triền miên, vì thế, mới điều động trong ứng hệ toàn chuyển để đảm bảo sự kiện toàn của chính mình. Vì là triền miên nên viễn cảnh cực tính cũng sẽ luôn khởi lập nên chính căn túc cho toàn chuyển tha tính. Cô lập luôn là mức phối tận đối với chính liên kết tự bản thân những gì sâu kín nhất, đối với căn tố hạn định trong chủ thể. Điều chủ thể không mong muốn là sự cô lập đó bị giải thể đi, tức là, chủ thể coi như đó là khó đảm bảo được mức định đối cấu trúc, cho chính mình với mong muốn phổ cập những định dẫn để gia cố cho chính tính bảo thủ đến mức cực đoan rách nát của mình.
Âm hưởng tha tính càng sâu đậm đến chừng nào đi nữa thì thiết tạo của những biến cố khơi gợi nên cuộc truy phục cho bản mệnh chú ý phiếm định vào thời trường càng sâu sắc đến chừng đó. Ở đây, mối quan hệ giữa biến cố trong vai trò kiến tạo không gian, để rồi từ chính sự kiến tạo đó sẽ chính là quá trình hội thông với âm hưởng tha tính, trong công cuộc thiết tạo nên lộ trình truy phục cho bản mệnh chú ý phiếm định vào thời trường. Để từ đó, kết tập nên một đối tượng cho chính quá trình chú ý phiếm định vào thời trường, coi như là ở đó, đã, đang và sẽ qua đi luôn đồng thời phải bắt buộc có một cái gì đó chứng kiến sự qua đi. Mà như thế, thì chính âm hưởng tha tính đã hoàn toàn xác lập nên được những giới hạn, mà mỗi khả năng có cho nó được như nó là thế, luôn mở ra những cuộc truy phục, để có sự rành mạch về hệ quả đem lại đối với chính sự diễn giải (nói như thế, để bao quát tất tần tật những gì là khả năng thực tế cộng hưởng với khả năng mô phỏng, luôn đầy ắp trong mọi sự diễn giải).
Bản mệnh của chú ý phiếm định vào thời trường là hướng đến chính đối tượng chứng kiến sự diễn ra của những chuỗi sự kiện. Cho dù là sự kiện đó, ở bất cứ đâu, nhưng khi nó đạt được trong chú ý định nói đến là thời trường thì luôn được bổ túc cho những động lực xuất phát từ chính âm hưởng tha tính nơi chủ thể. Bản mệnh chú ý là cách tỉa tót bản thân chú ý không đòi hỏi bất cứ một lặp lại nào, hơn nữa, của chính chú ý đề cập đến những xung năng gom góp vào mình mọi định tính minh nhiên, luôn được khế hợp cho mọi thao tác cảm hóa chính bản thân chủ thể. Phân định vào thời trường là luôn luôn cho mọi quy tắc đã trở thành nguyên lý, mọi cái đều được bổ túc như chính sự đề cập đến các ngõ ngách của công cuộc, từ chính chú ý phiếm định vào thời trường, từ đó khởi sinh những cộng tồn vào không gian hạn định thành những cương vực đối với mọi biểu sinh thành hình cho những tha thể. Mọi tác động từ âm hưởng tha tính là tự nội trong chính nó – tức chủ thể, nhưng tác động không chỉ là tự nội mà còn là phóng trợ vào thời trường, luôn luôn được lưu xuất ra ngoại vi, để dẫn đi từ đó mọi diệu năng lượng thức của công cuộc khai sinh nên các cộng tồn, đảm bảo ngang bằng trên các cương mục khó có sự dật ứng, tức là biên kiến nên những thiết tạo được đáp ứng hay trong cách quy phục, mà ở đó, chính âm hưởng tha tính là đồng bộ như bước phân lập nên mọi sự kết luyện chủ - tha thể tính.
Tha tính mang trong mình những âm hưởng mà khó có được sự tách ngăn những đùa cợt không đáng có và khó chê trách chúng là những gì không đáng tin một chút nào từ sự phục sinh bản mệnh về chính nó. Không thể chứa đựng diều gì sâu xa hơn những điều giữa bản nguyên của thực tại này, mà không làm rõ ở những điều khoản của sự tương trợ từ tha tính xâm nhập phóng tán khả nhiểm vào miên trường của tâm hệ. Tha tính dóng vai trò là động lực của mỗi một mọi xung kích để thể hiện những bước đi đầy ý nghĩa cho công cuộc chung quy hướng đến toàn thể. Tha tính không màu nhiệm đến mức siêu việt như những gì chúng ta diễn giải, để rồi từ đó, cách chúng ta hiểu về nó chứa đựng đầy những màu nhiệm. Điều đó là không nên như thế. Tha tính cộng hưởng cho chủ thể tính làm đầy những hưởng lực mang gia bội đến, có cho nó là đầy đủ thì cũng sẽ luôn được kiện toàn không ngừng. Nó đối sánh bằng cách đặt sự tự quy về với những điều phối, mà năng lực của nó là khả thi cho mọi điều được thực hiện hoặc sẽ được thực hiện. Dưới mọi phối ảnh, luôn luôn trong cách nhìn về phía miên trường của tâm hệ, điều đó ngang ngửa với chủ thể tính đang đóng vai trò là ngôi ba, nhưng có sự kết hợp của ngôi một trong chính quá trình này có cho đó là sự tự hư vô hóa chính bản thân chủ thể? Dĩ nhiên hữu thể là tự nội, nhưng tự nội thôi chưa đủ mà hữu thể còn là phóng ngoaị bởi những câu thúc cho (đối với những gì xuất phát từ tha tính). Có đầy dủ những mãnh lực mà tha tính hun đúc nên và quyện vào trong đó, những gì tinh túy nhất thì đó luôn là những cái được khải lộ, cho mọi việc làm đáng được kích động nên tự trình của biến thể công cuộc ngẫu sinh mọi sự phóng tán ra bên ngoài, qua những đợt cường xuất di mãn tính kết luyện thành phức khả di trùng những ngẫu tượng, hướng đến một viển ảnh cực tính tha ngã đầy ắp những hiệu lực truyền hưởng cho đồ phồn thực tại này. Mọi dị phức tính đi ra từ chính công cuộc vật lộn của chủ thể tính với tha tính, luôn được hạn định trong miên trường chủ thể, bởi chính nó, được khảo sát đồng thời ngay khi nó đang có trong vũ trụ cổ điển đóng vai trò bao chứa nó, cho nên, mọi phức khả trùng tính đi ra từ nó, đều hợp quy và thâu tóm trên mọi sự phóng tán những hệ hình sơ khởi, gom góp mọi công cuộc dựng hình của các tha thể tính dẫn khởi nên các âm bản ngang bằng với chính hiệu lực của chủ thể như chính nó đang tồn tại trong những vũ trụ thứ cấp khác nhau. Tha tính dấy lên, nghĩa là công cuộc phóng tán của nó bắt đầu dẫn đến sự kiện dị phức tính hình thành và rồi sẽ kéo theo lộ trình chủ thể tính tự di mãn, để nhắm đến hệ quả cuối cùng là tạo nên một toàn cục viễn ảnh cực tính cho hệ hình tha ngã. Tha tính là căn tố chủ đạo cho mọi truy phục về khả cấu thực tại đa không gian.