Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.102
123.139.175
 
Rồi, những ngày sau đó trên quê hương
Lâm Bích Thủy

                      

                                      

             Tiếp : Yến Lan Qui cố hương

             Trích Hồi ký “về người cha thi sĩ

             của Lâm Bích Thủy                      

 

Ngày mới về; tất cả đã thay đổi; con sông nước trong xanh cạnh nhà bác Sáu Mai; xưa má thường ra giặt giũ; nay khô cạn, trơ sỏi đá, rác rến lấp đầy một nửa. Chiến tranh đã xóa đi nhiều dấu ấn thời trai trẻ của nhà thơ. Hoài niệm và thực tiễn cứ đan xen, chập chờn thực hư, nhớ nhớ, quên quên. Và, cuộc sống thực tế trong mỗi gia đình hiện rõ. Nói đâu xa, nhà chị dâu (vợ bác Sáu) có thằng cháu nội, vì trốn lính, sống chui rúc dưới hầm, lâu ngày bị phù, người xanh mướt, bẩn thỉu, ngô nghê lại nghiện rượu; không công ăn việc làm, xin được đồng nào của dượng thì bỏ vào rượu đồng ấy! Hơn bốn mươi tuổi mà chỉ biết làm mỗi công việc “báo đời” vào người mẹ ốm yếu gần 80 tuổi…

Tất cả điều đó như muốn xô dạt ý nghĩ trụ lại quê trong ba tôi ra xa. Song le, nghĩ đi nghĩ lại tình quê lại choán hết tâm hồn ông – thật là một sự đam mê kỳ quái:  

 Bình Định đây, từng sợi tơ ngọn tóc

 Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ

……………………………………                        

Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở

Hồn ta nay ước choáng cả không gian

Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa.

Bừng lên - bừng, thành một cuộc hoa đăng

  Chiến tranh đã đi qua, nhưng còn đây, trước mắt nhà thơ là những cháu bé áo quần xộc xệch, mặt mủi lem luốc nhặt từng mảnh phế liệu. Cụ thể và đau xót hơn, đó là “chút chít trẻ con lai”. Nó là chứng nhân của tội ác chiến tranh, là nỗi đau không hình hài phải chịu bao hệ lụy của cuộc chiến, xót xa lắm! Chúng là hình ảnh của quá khứ và là hình ảnh sống động của tương lai, bởi chúng là con người bằng xương, bằng thịt làm tim ông nhức nhói .

Vỏ chai, họp găm đau lòng hố cỏ

Tiếng xới tìm chút chít trẻ con lai…

  Song, với cái nhìn đúng đắn kết hợp giữa tinh và sự tiếp cận mọi bối cảnh người, vật ở góc độ con người, nhà thơ cảm nhận được từ sự mạnh mẽ lớn lao đôi khi thể hiện rõ ràng, tinh tế nơi cái nhỏ bé, bình thường. Thời đại mới với bao thay đổi vĩ đại của dân tộc đang diễn ra, hình ảnh trong thơ ông vẫn là cuộc sống mang tinh thần thời đại, trên hết là cuộc sống mới đang về trên quê hương:

Lớp học bình dân đông theo tiếng kẻng

Nét chữ cong nghiêng hoa lúa đầu mùa

Kẻ tóc bạc tay dây đầy mực tím

Miệng ráp vần như trẻ lại bi bô

    Những xúc cảm dạt dào từ trong sâu thẳm bỗng trào lên trong nhà thơ như một sự giao hòa thân thiết giữa người và thiên nhiên: “Thị trấn này tuy nhỏ nhưng nó đã ăn sâu vào máu thịt tôi một cách sâu nặng, thiêng liêng, khó giải thích được

                  Cây me mẹ tựa

Từ bữa ra đi chị ẵm bồng                                                                                   

Nay về trẻ xóm gọi bằng ông

Bạn xưa còn có cây me cụt

                  Mưa xói mòn nơi mẹ tựa trông

 

Việc chọn quê làm nơi dừng chân của ba tôi đã gây không ít thắc mắc đối với các nhà báo  “Thưa ông, sau ngày giải phóng Miền Nam, ông thừa sức tìm cho mình một nơi ổn định, tại Thành Phố Hồ Chí Minh hay một thành phố khác, điều kiện sống tốt hơn”. 

  Đây cũng là câu hỏi mà gia đình tôi từng đặt ra. Khi bị hỏi dồn, ông chỉ im lặng; bởi có ai thấu được tâm sự còn ẩn sâu trong trái tim già nua của cha tôi

Nhìn nhau cho tạng mặt mày

 

Hành trình còn một quãng này nữa thôi     

                                             

Sơn Thanh Thủy Tú qua rồi

 

Chỉ còn suối trũng đá lồi đợi ta 

 

Chần chừ bước nhọc khó xa        

                                                           

 Ngày thời ngắn ngủi cái già hẩm hiu

 

Hay còn vì gốc gác của cội nguồn tình thân ruột thịt, máu mủ :

 

Mười tám năm xa phần mộ mẹ

 

Chị gần, sức yếu khó tìm thăm

Thị trấn An Nhơn nhỏ bé, đìu hiu, bình dị là vậy, nhưng là ngọn lửa âm ỉ cháy mãi trong tim người thi sĩ ấy.  Đã có bao nhiêu cảnh, vật trở thành hồn quê trong thơ ông? Về cảnh thì muôn màu sắc, về tình thì mênh mông. Một khúc sông thân quen bị lãng quên để rồi một ngày gặp lại hóa thiêng liêng cao quí:      

Sông vẫn sông xưa nước đổi nguồn

Uống vào khang khác vị quê hương         

                                                                   

   Chút vì tuổi trẻ từng bơi lặn

Kỷ niệm hòa vào hóa nhớ thương

(Sau một công trinh Thủy lợi- An Tường 1989)

 

 Nhà thơ không chối bỏ quê, song lại chối từ tất cả đề nghị của con và lời khuyên của bạn.  Ông biết quá đi chứ! đô thị luôn là sức hấp dẫn đối với con người về tinh thần, vật chất; nhất là ở tuổi gần đất xa trời như ông. Nhưng Tình quê ở trong ông rất cụ thể và thực tế, ông có thể nắm bắt đưọc nó.  Những ngày mới về, phát hiện người hàng xóm lấn sang nhà  mình 0,3m dọc, 13m dài. Má tôi tiếc của lải nhải suốt, bảo ba kiện lấy lại. Còn ba thì ngăn cản “Bà đừng làm vậy mếch lòng láng giềng, người ta sẽ bảo cán bộ ở Bắc mới về đã lo giành đất của dân. Thôi chịu thiệt chút xíu mà được lòng bà con lối xóm. Bà không nghe người ta nói “Bán bà con xa mua láng giềng gần hay sao?”. Dẫu uất ức nhưng má tôi đành ngậm đắng cay cho làm ngọt.

             “Khác thể phần em sao tằn tiện

 Một đời mắt lệ chỉ rưng rưng

Cậu Ba Thành vừa là bạn học, vừa là anh vợ, lại là đồng nghiệp. Những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám đã dẫn đầu đoàn dân quân đi cướp chính quyền của bọn phản động về trao cho Cách mạng. Trước khi đi tập kết, ba gửi chiếc rương đựng toàn bộ bản thảo, một sổ ảnh do chú Mịch Quang chụp và những sáng tác từ trước, đến khi đi tập kết, nhờ cậu giữ hẹn hai năm sau về nhận lại. Nhưng cậu sợ người ta biết còn quan hệ với người Bắc Việt đã đem đốt ra tro những đứa con tinh thần đó của ba! Dù tiếc đức ruột nhưng ba không nỡ trách cậu; trái lại, ông nhìn thấy cảnh sống của cậu mà cảm thương: không lương bỗng, con đông, túng bấn, bệnh hoạn không tiền mua thuốc. Tới thăm thấy cậu nằm bẹp trong góc tối, ôm ngực ho khù khụ, người như xác ve; ông viết thư cho tôi, lời lẽ thống thiết khiến tôi không nỡ từ chối  “Con ơi! làm cách nào giúp cậu Ba! Cậu ốm nặng lắm rồi, chẳng tiền thuốc. Tới thăm cậu, ba nhìn tấm thân còm dính chặt trên gường mà thương quá. Con cố tìm cách giúp cậu. Ba biết nhà mình ai cũng khó nhưng còn có nhà nước lo, cậu có ai đâu! vậy con hãy vì “lá rách đùm lá nátcon nhé.

  Nhận được thư, tôi liền đi tìm chị Ba, bà con xa của cậu, ở cách tôi vài trăm thước. Hai chị em bàn nhau, mỗi người chút đỉnh mua đường, sữa, thuốc và ít tiền, gửi xe cơ quan “Animex” ra. Cầm gói quà “của người phúc ta”, ba tôi hăm hở tới đưa cậu liền. Sau đó, viết thư báo cho tôi biết: “Cậu con nhận được quà, cảm động khóc hu hu; nước mắt tràn ướt đôi gò má hóp, thương lắm. Cậu xuýt xoa: Trời ơi! quí hóa quá dượng ơi, quí quá! Từ tấm bé đến giờ tôi chưa được ai cho quà nhiều thế này. Nếu có viết thư cho cháu, dượng chuyển lời cảm ơn dùm tôi nhé!

Tuy đất nước đã vẹn toàn nhưng cuộc sống người dân thị trấn còn có gia đình bữa ăn, bữa nhịn. Ngay như ba má tôi, dù có lương hưu, song chẳng thấm vào đâu. Nhu cầu đơn giản về sinh hoạt, nước sạch, chỗ vệ sinh rất tệ. Nhà ở giữa chợ, ngày phiên phải hứng chịu mọi thứ từ trong ấy phát ra: tiếng ồn, mùi hôi tanh của cá mắm, mùi hoa quả hư, mùi phân gia súc, gia cầm v.v.. Vấn đề sinh hoạt giải trí cho thanh, thiếu niên không có gì…

Tóm lại, nhịp sống, lối sống những ngày sau giải phóng rất đơn điệu, khó khăn, nhàm chán! Thế mà, không hiểu sao lại giữ được chân ba tôi vững đến thế?! Nếu nói ông hoàn toàn không có sự lựa chọn giữa đi hoặc ở là phủ nhận sự thật. Sau vài năm, thư ra Hà Nội cho bác Khương Hữu Dụng, ông đã viết: “Tình hình trong này hơi buồn vì không khí, con người, cách nhìn chưa hòa nhịp - thật cũng ái ngại...”

Tuy nhiên, khó khăn thì khó khăn, vẫn hơn những ngày sống xa quê! Và bất luận thế nào, chúng ta cũng phải thành thật với chính mình. Những năm đầu mới giải phóng; người dân  thị trấn muốn làm người tốt cũng thật khó. Thị trấn bé nhỏ như một xã hội thu gọn; có đủ cả; nhiêu khê, rối rắm và hủ lậu! Mới đầu, người dân ở đây đều tỏ lòng tin yêu, tôn trọng cán bộ Rừng về hay Bắc vô. Nhưng chế độ nào cũng có người tốt, kẻ xấu. Người có chức thì hách dịch, cửa quyền, áp đặt v.v.. làm rạn nứt niềm tin yêu và quí trọng của người dân, khiến cho số người trước đây có dính dáng với chế độ cũ tâm trạng khá phức tạp; vừa vui cái vui chung của đất nước được vẹn toàn, nhưng lại dè dặt, thận trọng giữ kẻ từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói vì nghĩ mình là người có tội, khiến họ phải bỏ quê tìm đường thoát thân.

   Ngay như trường hợp ba tôi, cán bộ nghĩ hưu từ Bắc về mà cũng không tránh khỏi sự theo dõi của một vài anh cán bộ trẻ mới tiếp quản. Có lẽ điểm khởi đầu của mọi rắc rối là chuyện về hành động nhà thơ đi sau linh cữu cụ Phan Khôi. Họ lý luận logic là: “Tạì sao ở Miền Bắc, khi Phan Khôi qua đời, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, lúc đó, có hàng trăm người mà chẳng một ai ngoài gia đình mà chỉ mỗi Yến Lan dám đưa ông đến nơi an nghĩ cuối cùng. Phan Khôi là người cầm đầu nhóm VNGP phản Đảng phản dân. Vậy có thế nào đó Yến Lan mới thế chứ?

 Điều thứ hai cũng là dấu hỏi sau cái tên Yến Lan và có người theo dõi để xem Yến Lan có liên hệ với Quách Tấn đang ở Nha Trang? Ông này là Ngụy, đã làm việc cho Chế độ Cộng hòa Miền Nam VN.

Họ canh me cả với má tôi. Nhìn thấy bà trong buổi họp Tổ dân phố, có người hạch sách “Sao lại mời bà này đến họp làm gì?”. Nghe má kể mà tôi tức cả ruột. Sao người ta cố chấp đến thế? bây giờ là thời nào mà ấu trĩ vậy!? Nơi tôi ở - Cư xá Thanh Đa / TP.HCM, mỗi lần họp dân, lãnh đạo Phường, khu phố tìm mọi cách để dân tới: nào giấy mời, loa miệng và cả việc động viên bằng vật chất như cho ½ cân đường, hoặc 10.000đ. Vậy mà chỉ có Tổ Trưởng, tổ Phó, và vài cán bộ hưu trí đến họp. Đằng này, má tôi, với tinh thần tự giác cao, chẳng cần động viên bằng đường, tiền vẫn đi họp thì bị cấm! Vì thế, bà muốn quay ra Hà Nội hoặc vào Sài Gòn sống với con cháu. Nhưng ba vẫn khăng khăng điệp khúc “Bà đi đâu thì đi, tôi chỉ ở quê thôi!” Thật tình tôi không hiểu nổi!

 

   Nhà thơ Thanh Thảo nhớ lại: Ngày Yến Lan còn khoẻ, thỉnh thoảng tới thăm ông tôi còn thấy những gánh hàng quê mà bà con buôn bán ở chợ gửi lại tại nhà ông khi chợ tan, chờ hôm sau bán tiếp. Vợ chồng Yến Lan vui lòng cho họ gửi mà không đòi một xu lệ phí, không giống như bây giờ ai có xe ô tô hay xe máy gửi tháng đều phải đóng những khoản tiền khá đáng kể. Từ khi ở 37 Hàng Quạt-Hà Nội về hưu sống tại chợ Bình Định này, nhà Yến Lan vẫn nghèo. Nếu ngày ở Thủ Đô, thời túng bấn, nhà Yến Lan vẫn hàng tháng giành dăm ký gạo “hỗ trợ” cho nhà thơ Quang Dũng-một người bạn thân và làm cùng cơ quan nhà xuất bản Văn Học-vì Quang Dũng vốn người to lớn luôn cảm thấy…đói khi ăn suất gạo tiêu chuẩn 13 ký/tháng, thì khi về Bình Định, dù gạo tiêu chuẩn vẫn còn, nhưng không ai nhờ đó mà…giàu lên được. “Không được sống xin cho cùng được thở” (Bình Định 1935), tôi đọc câu thơ này mà thấy xa xót trong lòng, một câu thơ như vận cả vào đời thơ Yến Lan. Có cảm giác như Yến Lan khổ cả đời, cho tới khi ông nhắm mắt lìa trần, cái nghèo cái khổ cũng chưa buông tha…”.

Lâm Bích Thủy
Số lần đọc: 2347
Ngày đăng: 05.04.2014
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trở lại cố hương! - Lâm Bích Thủy
Gửi hồn ra Đông Hải - Văn Thành Lê
Ghi chép Februar - 2014 - Nguyễn Hồng Nhung
Ghi Chép December-2013 - Nguyễn Hồng Nhung
Ghi chép November - 2013 - Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Nhung
Ở đó sông có một mùa buồn - Ngọc Vinh
Đại-hội Triết-học Thế-jới kì 23 tại Đại-học Athens, Greece từ 4 tới 10 tháng 8 - Nguyễn Quỳnh USA
Cách mạng tháng Tám ở quê tôi - Lâm Bích Thủy
Buổi ra mắt sách Đại nguyện của đá & tác giả tác phẩm Người đồng hành quanh tôi - Minh Nguyễn
Cùng một tác giả
Tình lên ngơ ngác (truyện ngắn)
Chàng Ngốc (truyện ngắn)
Thư cảm ơn (sự kiện)