24. TRƯƠNG HÚC
(658 - 747)
Trương Húc tên chữ Bá Cao, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Ông là nhà thơ và là nhà thư pháp nổi tiếng thời nhà Đường, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường Thục Úy, về sau thăng đến Hữu suất Phủ trưởng, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung được người đương thời liệt vào “Ngô trung tứ sĩ” (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo”,là một trong nhiều hình thức viết chữ trong nghệ thuật thư pháp. Do vậy, ông và Hoài Tố, người cùng thời, được người đời xưng tụng là “Cuồng thảo nhị tuyệt” tức hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo, là “Điên Trương, Tuý Tố” nghĩa là Trương Húc điên và Hoài Tố say.Tương truyền, Trương Húc đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Đại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình..
41. ĐÀO HOA KHÊ
Nguyên tác 桃 花 谿
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
Phiên âm : Đào hoa khê
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch kỵ tây bạn vấn ngư thuyền :
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên?
Dịch thơ:
Suối hoa đào
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Một chiếc cầu treo ẩn khói sương,
Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ mương
Ngày tàn nước chảy hoa trôi hết,
Động tại khe xanh, đâu nẻo đường?
Suối hoa đào
Ngọc Châu
Dịch 2013
Cầu treo ẩn giữa khói sương
Hỏi thuyền câu tựa bờ mương đôi lời:
Ngày tàn nước chảy hoa trôi
Khe xanh tìm đến mong người chỉ cho?
25. TRƯƠNG KẾ
( - 756 - )
Tên chữ là Ý Tốn. Quê Tương Châu (Hồ Bắc). Đỗ Tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 14 đời Đường Huyền Tông (năm 756), làm chức Diêm thiết Phán quan. Cuối đời Đường Đại Tông, vào triều làm Tư bộ Viên ngoại lang.
42. PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyên tác : 枫 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天
江 楓 漁 火 對 愁 眠
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鐘 聲 到 客 船
Phiên âm : Phong kiều[1] dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô[2] thành ngoại Hàn Sơn tự[3]
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
1. Quạ réo, trăng tà trời đẫm sương,
Bến phong, ánh lửa, giấc sầu vương.
Cô Tô, đêm vắng Hàn Sơn tự
Vẳng tiếng chuông ngân tới chủ xuồng.
Dịch 2011
2. Trăng tà, quạ rú, trời sương,
Bến Phong, ánh lửa, buồn vương giấc hồ
Hàn San ngoài trấn Cô Tô
Nửa đêm vẳng tiếng chuông chùa vọng ngân
Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều
Ngọc Châu
Dịch 2013
Quạ kêu sương lúc trăng tà
Cầu Giang ánh lửa lập lòa sương đêm
Cô Tô ai đậu con thuyền
Hàn San chuông gọi nửa đêm vọng về.
26. TRƯƠNG TỊCH
(765 – 830)
Trương Tịch tự là Văn Xương. Quê ở Ô Giang, Hoà Châu tỉnh An Huy. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 799 đời Đường Đức Tông. Đang làm Bí thư lang, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ. Rồi lên chức Thuỷ bộ Viên ngoại lang. Cuối cùng làm Quốc tử tư nghiệp.
43. TIẾT PHỤ NGÂM
Nguyên tác : 節 婦 吟
君 知 妾 有 夫
贈 妾 雙 明 珠
感 君 缠 绵 意
系 在 红 羅 孺
妾 家 高 樓 連 苑 起
良 人 執 戟 明 光 裏
知 君 用 心 如 日 月
师 夫 誓 擬 同 生 死
完 君 明 珠 雙 淚 垂
恨 不 相 逢 未 嫁
Phiên âm : Tiết phụ ngâm
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt.
Sư phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,
Hận bất tương phùng vị giả thi.
Dịch thơ : Khúc ngâm tiết phụ
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Biết em đã có chồng,
Tặng em đôi ngọc châu.
Cảm ơn chàng ngỏ ý,
Bên mình em giữ lâu
Lầu gác nhà em gần ngự uyển,
Chồng em đứng gác cửa Minh Quang.
Biết chàng tâm sáng như vầng nguyệt,
Tình nghĩa vợ chồng cốt thuỷ chung.
Gửi lại hạt châu đôi dòng lệ,
Tiếc không cùng gặp lúc còn xuân.
Tiết phụ ngâm
Ngọc Châu
Dịch 2012
Biết rằng em có chồng
Vẫn tặng đôi châu ngọc
Giấu tình chàng trong bọc
Cài vào áo lót hồng
Lầu nhà, Ngự Uyển gần không
Chồng vác kích canh cửa hồng Minh Quang
Biết lòng chàng sáng như gương
Nghĩa phu thê em phải mang trọn đời
Ngọc châu trả lại chàng thôi
Tiếc thay người chẳng gặp người trước kia.
27. VƯƠNG CHI HOÁN
Vương Chi Hoán quê ở Tịnh Châu nay là huyện Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông sinh vào thời nhà Đường. Thơ ông nổi tiếng một thời, thường hay cùng với Vương Xương Linh, Thôi Quốc Phu và Trịnh Hộ xướng hoạ. Ông thi nhiều lần không đỗ. Thơ của Vương Chi Hoán thường được các nhạc công thời đó phổ nhạc
44. XUẤT TÁI
Nguyên tác : 出 塞
黃 河 遠 上 百 雲 間
一 片 孤 城 萬 仞 山
笛 羌 何 須 怨 楊 柳
春 風 不 度 玉 門 關
Phiên âm : Xuất tái
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận[4] san.
Khương[5] địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn[6] quan.
Dịch thơ : Ra ngoài biên ải
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Hoàng Hà xa tắp trắng mây đan
Một bức thành đơn giữa núi ngàn.
Tiếng sáo Khương sao ai oán liễu,
Gió xuân chẳng đến Ngọc Môn quan.
Ngoài biên ải
Ngọc Châu
Dịch 2013
Hoàng Hà mờ trắng mây đan
Trường thành đơn độc giữa ngàn non xa
Sáo Khương ai oán liễu tà
Gió xuân chẳng đến quan hà Ngọc Môn
45. ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU
Nguyên tác : 登 鹳 雀 樓
白 日 依 山 盡
黄 河 入 海 流
欲 窮 千 里 目
更 上 一 層 樓
Phiên âm : Đăng Quán Tước lâu
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Dịch thơ : Lên lầu Quán Tước
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Mặt trời đã khuất núi cao,
Hoàng Hà uốn lượn chảy vào biển khơi.
Muốn nhìn ra tận chân trời,
Một tầng lầu nữa, xin mời leo lên.
Lên lầu Quán Tước
Ngọc Châu
Dịch 2013
Mặt trời khuất hẳn phia non cao
Uốn lượn Hoàng Hà nhập biển trào
Ai muốn nhìn nơi trời tiếp đất
Mời leo tầng nữa thử xem sao.
28. VƯƠNG DUY
(699 – 759)
Vương Duy tên chữ là Ma Cật, người huyện Ky thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi đời Đường Huyền Tông, làm quan đến Lại Bộ Lang trung. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông bị ép ra làm việc. Sau hết loạn, ông được tha và phục chức nhờ ở bài thơ Ngưng Bích trì. Về sau ông làm đến Thượng thư Hữu thừa. Ông còn giỏi về âm nhạc và hội họa. Tranh sơn thuỷ của ông nổi tiếng đại biểu cho phái Nam Tông. Người đời thường khen ông là “trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ”. Đối với Phật giáo đương thời, ông có địa vị cao trong Thiền phái Nam tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật (Lý Bạch được gọi là Thi Tiên, Đỗ Phủ được gọi là Thi Thánh)
46. NGƯNG BÍCH TRÌ
Nguyên tác : 凝 璧 池
萬 户 傷 心 生 也 烟
百 何 官 日 再 朝 天
秋 槐 花 落 空 宮 俚
凝 璧 池 头 奏 管 絃
Phiên âm : Ngưng Bích trì
Vạn hộ thương tâm sinh dã yên,
Bách quan hà nhật tái triều thiên.
Thu hòe hoa lạc không cung lý,
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền.
Dịch thơ :
Ao Ngưng Bích (1)
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Muôn dân đau khổ bao giờ yên?
Quan lại khi nào được yết thiên?
Hoa hòe thu rụng, quanh cung trống,
Ngưng Bích đàn vang tiếng sáo huyền
Thơ viết ở ao Ngưng Bích
Ngọc Châu
Dịch 2013
Muôn dân khổ bao giờ yên
Trăm quan còn được ngước lên bệ rồng?
Hòe thu rụng, cung trống không
Đàn vang Ngưng Bích, sáo cùng họa theo.
47. TRÚC LÝ QUÁN
Nguyên tác: 竹 里 館
獨 坐 幽 篁 裏
彈 琴 復 長 嘯
深 林 人 不 知
明 月 来 相 照
Phiên âm : Trúc lý quán
Độc toạ u hoàng lý,
Đàn cầm phục trường khiếu,
Thâm lâm nhân bất tri,
Minh nguyệt lai tương chiếu
Dịch thơ: Quán Trúc Lý [7]
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
1. Một mình bên khóm trúc,
Đánh đàn, lại hát vang
Rừng thẳm ai biết được
Trăng sáng chiếu ánh vàng.
2. Một mình dưới bụi tre xanh,
Chơi đàn ta lại một canh hát dài,
Rừng sâu chẳng có một ai,
Ánh trăng sáng rực chiếu hoài đến ta
Quán Trúc Lý
Ngọc Châu
Dịch 2013
Mình ta bên khóm trúc
Chơi đàn rồi hát vang
Nơi rừng xanh ai biết
Rực sáng ánh trăng vàng.
29. VƯƠNG HÀN
( - 710 - )
Tên chữ là Tử Vũ. Người đất Tần Dương, Tĩnh Châu (Sơn Tây) Trung Quốc. Đỗ Tiến sĩ đời Đường Huệ Tông (năm 710). Làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Cuối đời làm Tư mã tại Dao Châu
48. LƯƠNG CHÂU TỪ
Nguyên tác: 涼 州 詞
葡 淘 美 酒 夜 光 杯
欲 飮 琵 琶 馬 上 催
醉 臥 沙 場 君 莫 笑
古 来 征 戰 幾 人 回
Phiên âm: Lương Châu[8] từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Dịch thơ:
Khúc từ biệt Lương Châu
Phạm Đình Nhân
Dịch 2003
1. Rượu ngon muốn một chén say,
Đàn kia, ngựa đấy vơi đầy dục ai!
Sa trường mặc kẻ say dài,
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về?
Dịch 2012
2. Rượu quý Bồ Đào muốn thỏa thuê
Tỳ bà lại dục ngựa mau đi
Say mềm nằm đó ai chê được
Chinh chiến từ xưa mấy kẻ về
3. Bồ Đào rượu ngọt chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa đi
Say ngủ chiến trường cười cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?
Giã từ Lương Châu
Ngọc Châu
Dịch 2013
Rượu bồ đào chén lưu li
Tì bà đã giục ngựa đi mất rồi.
Sa trường say, ngủ môi cười
Xưa nay chính chiến mấy người hồi quê?
30. VƯƠNG XƯƠNG LINH
( ? – 756)
Nhà thơ Trung Quốc đời Đường. Tự là Thiều Bá. Quê đất Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. Đỗ tiến sĩ năm 727 đời Đường Huyền Tông được bổ làm Hiệu thư lang. Sau vì sơ xuất bị hạ làm chức Uý tại Long Tiêu, phía tây sông Tương. Khi trở về quê nhà gặp lúc loạn lạc, bị Thứ sử Lư Khâu Hiến giết chết vì tư thù.
Vương Xưong Linh được người đương thời gọi là Thi Thiên tử.
49. KHUÊ OÁN
Nguyên tác : 閨 怨
閨 中 少 婦 不 知 愁
春 日 凝 粧 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 壻 覓 封 侯
Phiên âm: Khuê oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch thơ :
Hận phòng the
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Phòng the thiếu phụ há chi sầu,
Tô điểm, ngày xuân lên trước lầu.
Bỗng thấy ven đường vương sắc liễu,
Hối xui chàng kiếm tước phong hầu.
Nỗi lòng khuê phụ
Ngọc Châu
Dịch 2005
Tươi trẻ nàng đâu biết nỗi sầu.
Điểm trang xuân sắc bước lên lầu.
Ngắm đường xanh liễu lòng chợt hối.
Xui chàng chinh chiến mộng "phong hầu".
50. TÂY CUNG XUÂN OÁN
Nguyên tác : 西 宮 春 怨
西 宮 夜 靖 百 花 香
慾 卷 珠 帘 春 恨 長
邪 抱 雲 和 深 見 月
嚨 巃 澍 色 印 昭 扬
Phiên âm : Tây cung xuân oán
Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương,
Dục quyển châu liêm xuân hận trường,
Tà bão Vân hoà thâm kiến nguyệt,
Mông lung thụ sắc ấn Chiêu Dương.
Dịch thơ :
Oán hận mùa xuân ở Tây cung
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Đêm thanh hoa ngát chốn Tây cung,
Gượng vén rèm châu hận nhớ mong,
Ôm ấp cung đàn trăng sáng tỏ,
Chiêu Dương cây khuất bóng mông lung
Oán hận mùa xuân ở Tây cung
Ngọc Châu
Dịch 2013
Đêm thanh hoa ngát Tây cung
Vén rèm vừa hận vừa mong một người
Ôm đàn dạo dưới trăng ngời
Mông lung cây khuất bóng trời Chiêu Dương
--------------------------------------------------------------------------
Ngọc Châu giới thiệu phần 7 tập
"108 BÀI THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH"
Phần thứ Hai
THƠ ĐƯỜNG DỊCH
CỦA CÁC TÁC GIA VIỆT NAM
(Gồm 58 bài thơ chữ Hán của 36 nhà thơ xếp theo thời gian)
************
1. THIỀN SƯ VẠN HẠNH
(?-1018)
Thiền sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thuở nhỏ thông minh khác thường, thông suốt Tam học. Lớn lên xem thường công danh phú quý. Năm 21 tuổi, xuất gia cùng thiền sư Đinh Huệ theo học Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức, nay là Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Sau khi Thiền Ông tịch, thiền sư kế tiếp trụ trì chùa Lục Tổ và chuyên tu tập pháp “Tổng trì tam ma địa”. Sư được vua Lê Đại Hành kính trọng thường mời Sư đến hỏi việc nước. Sư có công đóng góp trong việc lên ngôi vua của Lý Thái Tổ.
Năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), ngày rằm tháng năm, Sư gọi đệ tử đến căn dặn, nói kệ rồi thị tịch.
51. HỮU HOÀN VÔ[9]
Nguyên tác: 有 還 無
身 如 電 影 有 還 無
萬 木 春 荣 秋 有 枯
任 運 盛 衰 無 怖 畏
盛 衰 如 露 草 頭 鋪
Phiên âm : Hữu hoàn vô
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hữu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Dịch thơ:
Có rồi không
Phạm Đình Nhân
Dịch 2011
Thân như ánh chớp có, không
Cỏ cây xuân thắm mênh mông thu buồn
Mặc cho suy thịnh không cùng
Thịnh suy như hạt sương đông đầu cành.
Có - Không
Ngọc Châu
Dịch 2013
Đời như ánh chớp, có rồi không
Cây lá xuân tươi, thu héo cong
Suy thịnh tùy nghi cùng thế thái
Thịnh suy như sương giọt đầu đông
2. ĐẠI SƯ MÃN GIÁC
(1052 – 1096)
Đại sư Mãn Giác tên huý là Trường, người họ Lý sau đổi sang Nguyễn, quê làng Lũng Điền, huyện An Cách. Thân phụ là Lý Hoài Tố làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang, đi sứ nhà Tống năm 1073. Đại sư vốn tinh thông Nho học, Phật học, được vua Lý Nhân Tông ban hiệu là Hoài Tín. Sau khi xuất gia được thiền sư Quảng Trí truyền tâm ấn. Sau về trụ trì chùa Cửu Liên Giác Nguyên, xây gần cung vua và được vua Lý phong cho làm Hoài Tín đại sư đứng đầu Giác Nguyên thiền viện. Sau vua lại xuống chiếu phong cho chức Nhập nội đạo tràng Tử y đại sa môn, được dự bàn chính sự. Ông thuộc thế hệ thứ 9 dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (năm Bính Tý - 1096) đời vua Lý Nhân Tông, sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Bài kệ thị tịch đó chính là bài Cáo tật thị chúng (sau còn gọi là Nhất chi mai)
Cáo tật thị chúng trở thành một tác phẩm thi kệ nổi tiếng của văn học Lý-Trần, một tuyên ngôn triết học Phật giáo ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương.
52. CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Nguyên tác: 告疾示衆 (一枝梅)
春 去 百 花 落
春 到 百 花 開
事 逐 眼 前 過
老 從 頭 上 來
莫 謂 春 殘 花 落 盡
庭 前 昨 夜 一 枝 梅
Phiên âm: Cáo Tật Thị Chúng (Nhất chi mai)
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân lai bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch thơ:
Có bệnh bảo mọi người (Một nhành mai)
Phạm Đình Nhân
Dịch 2011
1. Xuân tàn trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười,
Sự đời qua trước mắt,
Tuổi già trên đầu rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.
2. Xuân đi hoa rụng tơi bời
Xuân về hoa lại mỉm cười với nhau
Dòng đời qua trước mắt mau
Trên đầu tóc đã điểm màu thời gian
Chớ tin xuân hết hoa tàn
Đêm qua một nhánh mai vàng trước sân.
Một cành mai
Ngọc Châu
Dịch 2013
Xuân đi trăm hoa rã
Xuân về ngàn hoa cười
Đời trôi qua mắt người
Tóc đen thành trắng xóa
Chớ tin xuân hết hoa tàn nhá
Đêm qua sân trước nở nhành mai.
3. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
(?- 1141)
Thiền sư Không Lộ họ Dương, quê ở Hải Thanh, trấn Sơn Nam hạ, nay thuộc tỉnh Nam Định. Nhà nhiều đời làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề theo tu hành đạo Phật. Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1050-1065) đời Lý Thánh Tông Sư cùng đạo hữu là Giác Hải đi vân du, dấu kín tông tích, đến chùa Hà Trạch tu tập thiền định. Rồi sư thấy tâm thần, tai mắt ngày càng sáng láng thông tỏ, bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn nghìn phép lạ. Sau Sư về quê hương dựng chùa trụ trì.
53. NGƯ NHÀN
Nguyên tác: 漁 間
萬 里 清 江 萬 里 天
一 村 桑 柘 一 村 煙
漁 翁 睡 著 無 人 喚
過 午 醒 來 雪 滿 船船
Phiên âm: Ngư nhàn
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuy trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền
Dịch thơ:
Cái nhàn của ngư ông
Phạm Đình Nhân
Dịch 2011
Nước biếc trời xanh vạn dặm sâu
Một thôn sương khói, một thôn dâu
Ngư ông ngủ tít không ai gọi
Quá ngọ tỉnh ra, tuyết ngập đầu.
Ngư nhàn
Ngọc Châu
Dịch 2013
Trời xanh nước biếc thẳm sâu
Một thôn sương khói, thôn dâu liền kề
Mặc cho ngư ông ngủ mê
Trưa mới tỉnh, tuyết tràn trề thuyền câu
54. NGÔN HOÀI
Nguyên tác: 言 懷
迭 得 龍 蛇 地 可 居
野 情 終 日 樂 無 餘
有 時 直 上 孤 峰 頂
長 嘯 一 聲 寒 太 虛
Phiên âm: Ngôn hoài
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
Dịch :
Tỏ lòng
Phạm Đình Nhân
Dịch 2011
Chọn nơi linh địa an cư
Ngày ngày vui thú chẳng từ nơi đây
Khi lên đỉnh núi tầng mây
Tiếng kêu lành lạnh vang đầy trời đêm
Nỗi lòng
Ngọc Châu
Dịch 2013
Đất thiêng chọn để sống an vui
Vui thú tháng ngày chẳng muốn rời
Đỉnh núi lên nhìn mây thắm sắc
Đêm nghe lành lạnh tiếng chim trời
4. TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
(1230-1291)
Tuệ Trung thượng sĩ tên húy là Trần Tung, là con đầu của An Sinh Vương Trần Liễu, là anh cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là bác ruột của vua Trần Nhân Tông. Ông có công trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên năm 1285 và 1288.
Từ nhỏ, ông đã tỏ ra có phẩm chất cao sáng, thuần hậu và yêu mến đạo Phật. Tuệ Trung không xuất gia, là một cư sĩ nhưng ông có trình độ thiền học rất cao. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng mà nay còn lưu giữ trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Đó là một tài liệu rất quý giúp việc tìm hiểu tư tưởng Phật giáo thời Trần nói chung và của Tuệ Trung thượng sĩ nói riêng.
Trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, nhiều tác phẩm của ông không những thể hiện một cách xuất sắc tư tưởng thiền học mà ở đây còn thể hiện một tài năng văn học.
55. KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO
Nguyên tác : 勸 世 進 道
四 序 循 環 春 復 秋
駸 駸 已 老 少 年 頭
榮 華 肯 顧 一 場 夢
歲 月 空 懷 萬 斛 愁
苦 趣 輪 迴 如 轉 轂
愛 河 出 沒 等 浮 漚
逢 場 亦 不 摸 來 鼻
無 限 良 緣 只 麼 休
Phiên âm: Khuyến thế tiến đạo
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thâu (thu),
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu.
Phùng trường diệc bất mô lai tị,
Vô hạn lương duyên chỉ má hưu
Dịch thơ :
Khuyên đời vào đạo
Phạm Đình Nhân
Dịch 2012
Năm tháng qua dần thu lại xuân
Tuổi son ngoảnh lại tóc phai dần
Vinh hoa phú quý là cơn mộng
Năm tháng long đong cái nợ nần
Nỗi khổ trầm luân lưu chuyển mãi
Ái tình chìm nổi kiếp phù vân
Cuộc đời nếu chẳng nhìn ra gốc
Vạn kiếp duyên lành chẳng đến gần
Khuyên đời học đạo
Ngọc Châu
Dịch 2013
Thu đi xuân đến, năm qua
Tuổi xanh trôi, đã phôi pha mái đầu
Vinh hoa phú quí là đâu
Long đong chỉ thấy nợ sầu quanh năm
Trầm luân khổ ải xoay vần
Yêu thương lận đận phù vân kiếp người
Nguyên do gì hỡi cuộc đời
Duyên lành vạn kiếp xa rời tầm tay.
5. TRẦN NHÂN TÔNG
(1258 – 1308)
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, con của vua Trần Thánh Tông, lên ngôi vua năm 20 tuổi (1278), Ở ngôi 15 năm, đến năm 1293 (35 tuổi) thì nhường ngôi cho con, sáu năm làm Thái Thượng hoàng, rồi xuất gia năm 41 tuổi (1299) được chín năm thì mất, thọ 51 tuổi. Từ nhỏ, đã có ý không muốn làm vua, lớn lên thông minh, hiếu học, nhiều tài, ham đọc sách Phật và nghiên cứu thiền học. Ông tôn thờ Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy. Khi xuất gia lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau đổi thành Trúc Lâm Đầu Đà, có công xây dựng nên thiền phái Trúc Lâm ở núi Yên Tử. Trúc Lâm Đầu Đà trở thành vị tổ đầu tiên của Phật giáo Trúc Lâm. Trúc Lâm Đầu Đà còn là tác giả của nhiều tác phẩm như : Thiền Lâm Thiết Chỉ Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Đại Hương Hải ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự và nhiều bài viết bằng chữ nôm. Các tác phẩm trên hiện nay còn để lại một số trích in trong sách Tam Tổ Thực Lục, Việt Âm Thi Tập và Toàn Việt Thi Lục.
56. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO[10]
Nguyên tác: 居 塵 樂 道
居 塵 樂 道 且 隨 缘
饑 則 餐 兮 困 則 眠
家 中 有 寶 休 尋 覓
對 境 無 心 莫 問 禪
Phiên âm: Cư trần lạc đạo
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Dịch :
Sống đời vui đạo
Phạm Đình Nhân
Dịch 2011
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà vật quý thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền
Sống đời vui đạo
Ngọc Châu
Dịch 2013
Ở đời vui đạo tùy duyên
Đói thì ăn, mệt ngủ liền vô lo
Vật quí chẳng nên mong chờ
Tĩnh tâm ngắm cảnh, thiền cho đẹp đời.
6. TRƯƠNG HÁN SIÊU
(? – 1314)
Trương Hán Siêu (?-1314), danh sĩ đời Trần, tự Thăng Phủ, quê làng Phúc Thành, huyện Gia Khánh, nay thuộc thành phố Ninh Bình. Ông vốn là môn khách của Hưng Đạo Vương. Năm 1308 được bổ làm Hàn lâm học sĩ, qua nhiều chức rồi thăng đến Gián nghị Đại phu Tham chính sự. Ông mất, được truy tặng Thái bảo. Ông có bài Bạch Đằng giang phú nổi tiếng và nhiều thơ văn khác. Ông cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn bộ Quốc triều đại điển. Bài thơ Dục Thúy sơn của ông được khắc trên sườn núi Dục Thúy (núi Non Nước) Ninh Bình.
57. DỤC THÚY SƠN
Nguyên tác : 浴 翠 山
山 色 尙 猗 猗
遊 人 乎 不 歸
中 流 洸 塔 影
上 介 啟 喦 扉
浮 世 如 今 別
嫻 名 誤 是 非
五 虎 天 地 闊
好 放 舊 渔 期
Phiên âm: Dục Thuý Sơn
Sơn sắc thượng y y .
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt
Nhàn danh ngộ tạc phi,(1)
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phóng cựu ngư ky
Dịch thơ:
Núi Dục thúy
Phạm Đình Nhân
Dịch 2005
Sắc núi vẫn xanh trong,
Khách đi không trở lại.
Bóng tháp in giữa dòng,
Cửa trời lên thượng giới.
Cõi đời như cách biệt,
Mới hiểu rõ sự đời.
Ngũ hồ trời đất rộng,
Nơi câu cũ ta ngồi.
Núi Dục Thúy
Ngọc Châu
Dịch 2013
Sắc núi vẫn mãi xanh trong
Khách đi liệu có hẹn mong quay về?
Tháp in bóng suối sơn khê
Lên thượng giới cửa trời kia mở đường
Cõi người tách biệt xa phương
Sự đời như thể tỏ tường thêm ra
Ngũ hồ trời đất bao la
Nơi câu cũ, giờ đây ta lại ngồi
7. MẠC ĐĨNH CHI
(1280 – 1350)
Mạc Đĩnh Chi tự Tiết Phu, quê làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đỗ Trạng nguyên năm 1304, vua thấy tướng mạo xấu có ý chê, ông dâng bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen giếng ngọc) khiến vua khâm phục. Ông làm quan trải ba đời vua Trần Anh Tông, Minh Tông và Hiến Tông, làm đến Tả Bộc xạ Đại liêu ban. Từng đi sứ Trung Quốc hai lần, được các danh sĩ nước ngoài khâm phục. Ông mất năm 1350 thọ 70 tuổi. Ông có nhiều tác phẩm còn để lại đăng trong Toàn Việt thi lục.
58. ĐỘNG ĐÌNH HỒ
Nguyên tác : 洞 庭 湖
雲 涛 雪 浪 四 谩 谩
砥 住 中 流 屹 一 山
鶴 跡 不 來 松 歲 老
妃 魂 猶 在 竹 痕 班
乾 坤 卵 破 洪 蒙 後
日 月 平 浮 浩 渺 間
岸 芷 汀 蘭 無 限 興
片 心 空 羨 白 鷗 閒
Phiên âm : Động Đình hồ[11]
Vân đào tuyết lãng tứ man man,
Chỉ trụ trung lưu ngật nhất san.
Hạc tích bất lai tùng tuế lão,
Phi hồn[12] do tại trúc ngân ban.
Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,
Nhật nguyệt bình phù hạo diểu gian.
Ngạn chỉ đinh lan vô hạn hứng,
Phiến tâm không tiển bạch âu nhàn.
Dịch thơ :
Hồ Động Đình
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Sóng mây mưa tuyết bốn bề bay
Một ngọn non nhô mặt nước này
Tùng cũ vẫn nguyên, không vết hạc
Trúc Phi còn đó, lệ vơi đầy
Đất trời tan vỡ thời hoang vắng
Nhật nguyệt bồng bềnh giữa thức mây
Chen chúc nhành lan bên sóng nước
Nhàn như chim trắng rẽ trời mây.
Động Đình hồ
Ngọc Châu
Dịch 2013
Mây, mưa, sóng, tuyết bay bay
Hồ xanh chỉ ngọn núi này nhô lên
Không vết hạc, tùng vẫn nguyên
Hồn xưa phi lệ lưu truyền trúc cây
Đất trời tan buổi chia tay
Bồng bềnh nhật nguyệt vào mây mịt mờ
Cành lan chen chúc ven bờ
Rẽ mây chim trắng nhạt nhòa nhàn du.
59. TRƯỞNG AN THÀNH HOÀI CỔ
Nguyên tác : 長 安 城 懷 古
木 落 禾 刁 帝 業 移
李 家 收 得 版 圖 歸
山 圍 故 國 规 模 小
竹 暗 荒 城 草 木 非
古 寺 僧 鐘 敲 落 日
斷 溪 牛 笛 弄 斜 暉
英 雄 舊 事 無 尋 處
獨 倚 江 亭 看 翠 微
Phiên âm : Trường An[13] thành hoài cổ
Mộc lạc hoà điêu đế nghiệp di,
Lý gia thu đắc bản đồ quy.
Sơn vi cố quốc quy mô tiểu,
Trúc ám hoang thành thảo mộc phi.
Cổ tự tăng chung xâo lạc nhật,
Đoạn khê ngưu địch lộng tà huy.
Anh hùng cựu sự vô tầm xứ,
Độc ỷ giang đình khán thuý vi.
Dịch thơ :
Nhớ thành Trường An xưa
Phạm Đình Nhân
Dịch 2008
Cây cỏ tiêu điều, vua đổi thay,
Đất đai nhà Lý dựng nên đây.
Núi vây đất cũ quy mô nhỏ,
Tre phủ thành hoang không cỏ cây
Chùa cổ chuông ngân chiều xế bóng,
Khe sâu tiếng sáo vút tầng mây.
Anh hùng việc cũ tìm đâu được,
Tựa chốn đình ta ngắm cảnh này.
Dịch 2008
Nhớ Trường An xưa
Ngọc Châu
Dịch 2013
Thay vua, cây cỏ tiêu điều
Đất đai nhà Lý vương triều từng xây
Núi vây miền đất nhỏ này
Thành hoang thưa cỏ tre dày bao quanh
Chùa cổ chiều ngân chuông thanh
Khe sâu vút tiếng sáo nhanh lên trời
Hùng anh tích cũ đâu rồi
Sân đình nhìn ngắm một thời vàng son.
(còn tiếp lần 8)
[1] Phong Kiều : địa danh vùng phụ cận cửa Xương môn, thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô
[2] Cô Tô : thành phố Tô Châu ngày nay
[3] Hàn San tự : Ngôi chùa ở phía tây Phong Kiều, có 2 nhà sư tên là Hàn San và Thập Đắc trụ trì tại đây, nên chùa mới có tên là Hàn San
[4] Nhận : đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc thời xưa bằng 6,48m hiện nay.
[5] Khương : một dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, xưa hay gọi là rợ Khương.
[6] Ngọc Môn quan : Cửa ải ở phía Tây huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc.
(1) Đầu đề do người dịch đặt. Vương Duy làm bài thơ này khi đang bị loạn An Lộc Sơn buộc phải ra làm việc. Một hôm Lộc Sơn mở đại tiệc ở ao Ngưng Bích, Vương Duy nghe chuyện ấy, cảm thương làm bài thơ này nói lên suy tư của mình. Nhờ bài thơ này, sau khi loạn dẹp yên, Vương Duy được tha tội và được phục chức
[7] Quán Trúc Lý ở trong trang Võng Xuyên của Vương Duy
[8] Lương Châu tức là tỉnh Cam Túc ngày nay
[9] Đầu đề do tác giả đặt
[10] Đây là bài thơ bằng chữ Hán, là phần kết của Cư trần lạc đạo phú, một bài phú bằng chữ nôm nổi tiếng của Trần Nhân Tông.
(1) Có bản ghi là : Trần thế kim như thị, Phù sinh ngộ tạc phi
[11] Động Đình hồ : hồ nổi tiếng ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
[12] Phi hồn : Tương truyền bà Tương Phi khóc chồng là Thuấn ở Tương Giang, nước mắt chảy xuống đất mọc lên thành một loài trúc, gọi là Tương Phi trúc.
[13] Trường An : thành Trường An ở phủ Trường An đời Lý, đời Trần đổi phủ thành châu, đời Nguyễn lại gọi là phủ, là phần đất thuộc tỉnh Ninh Bình. Sau khi nhà Lý đời đô về Thăng Long, thành Trường An dần dần thành hoang phế