Tháng Bảy nào ở quê nhà chẳng”mướt mát” như vậy, vừa bước ra khỏi sân bay, áo lập tức dính chặt vào lưng với một cảm giác ướt át như thể bị rảy nước, như thể để đầu trần đi dưới trời mưa lâm thâm. Cái nóng đẫm hơi nước quê nhà chưa từng gặp ở đâu, mang đến cảm giác „xứ sở”không thể nhầm lẫn khi gặp lại.
Và: đành (âm thầm) chịu đựng cái trạng thái lúc nào cũng như đang ngồi trong szauna (phòng tắm hơi). Nhưng đừng quên: chỉ ở miền Bắc thôi, vì vừa bước ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất, gió sẽ dạt dào lồng lộng, mang hơi nắng khô giòn lùa vào niềm vui khô ráo trào ra từ huyết quản! (hahahahaha….)
Vừa về hôm trước, hôm sau hai mẹ con”đi tua” ra Hạ Long ngay. Rất nhiều năm rồi tôi mới quay lại cuộc hành trình này. Chả có gì thay đổi: cũng lại bắt đầu bằng „giờ cao su”, nghĩa là nhà tổ chức sợ bà con”cao su hóa” nên dặn đến điểm hẹn từ 7h30 sáng, rồi 9h qua đi vẫn chỉ thấy một đám người ngơ ngác, tự trình bày, tự giải thích, tự bực bội với nhau.
Cứ bảo tại sao dân ta có tính hay nghi ngờ, hoảng hốt, phân vân, nôn nóng và…lắm mồm? Cứ bảo tại sao dân ta sau rốt vẫn kiên trinh, bất khuất và…chín bỏ làm mười, khi (tất nhiên) xe vẫn phải (lò dò) đến và ai nấy hoan hỉ trèo lên, quên tuốt, im tất - rút cục vẫn phải xảy ra cái gì đó vào hồi 10h! (Sống ở VN đừng nôn nóng! thiền! thiền đi!)
Hạ long chả có gì khác xưa, từ chuyện cả bọn lại trèo lên một con tàu nhỏ, vừa ăn trưa vừa (giương mắt) nhìn qua cửa sổ những ngọn núi bất động dưới nắng chang chang, đến một cái vịnh, cả bọn buông bát đũa rời tàu, nhễ nhại leo lên những con thuyền nhỏ khác (sau khi trả một khoản tiền riêng) để người dân ở đó đưa đi ngắm hang động xung quanh.
Hạ long chả có gì khác, lúc nào cũng như lần đầu, khi câm lặng (như đám du khách không biết tiếng Việt) thả mình trôi trên con thuyền lững lờ ngắm biển trời ngăn ngắt xanh. Xa xa vẫn những con thuyền chứa cả một gia đình nhiều thế hệ trên đó, ai nấy bận bịu làm chuyện riêng của mình, người lớn loay hoay, trẻ con khóc mếu hoặc chạy đi chạy lại, một con chó lúc đầu ve vẩy đuôi khi thuyền tôi đi qua, nhưng chắc tôi ( chòng chọc) nhìn nó lâu quá, nó bắt đầu gầm gừ rồi sủa toáng lên. Hừ! chó để làm gì nhỉ? nhất là trên mặt nước? hahahaha…
Tôi bắt gặp mình như một (tên) du lịch ba lô vô cảm, không gì làm tôi đặc biệt chú ý, tò mò và gợi cảm xúc, tôi chỉ thầm reo lên khi nhìn thấy hàng phượng vĩ ven đường, tươi tắn đỏ rực rỡ trên nền trời xanh biếc. Con trai tôi trái lại, xúc động thật sự, nó thì thầm nhắc đi nhắc lại bên tai tôi: À, đây là Hạ Long Bay đây.
Chỉ trên đường về Hà nội, ngắm chăm chú những ruộng lúa nước hai bên đường, những chú trâu đen đủng đỉnh gặm cỏ, những mái đầu đội nón cúi rạp xuống cấy mạ, xa xa làn khói đốt đồng bảng lảng trong bóng chiều hoàng hôn…chỉ lúc ấy, tôi biết tôi vẫn chưa hề, chưa bao giờ đi đâu xa khỏi cái đất nước thân yêu quen thuộc này…
Hôm sau, hai mẹ con”đi tua” đến Hoa Lư, lâu lắm rồi tôi mới lại tới đây, có dễ ngót chục năm rồi. Cảnh tượng xưa trong đầu bị thay thế bằng những”công trình” xây dựng hoàn toàn khác, thật lạ, không làm tôi ngỡ ngàng, mà (một lần nữa) tôi lại biến thành một (tên) du lịch ba lô vô cảm.
Xe vừa dừng bánh, một đám đông phụ nữ, trong đó rất nhiều bà già xúm lại, túm lấy đám khách vừa xuống xe bằng những lời mời mọc co kéo như thể đi bắt đền người khác. Ôi Hoa Lư, kinh đô xưa, một ngày biến thành biểu tượng của những cảnh ăn vạ đám đông kinh hãi, những người đàn bà già ấn vào tay mi một cái gì đấy bắt mua, một người lom khom, một người khập khễnh, một người tập tễnh, lao xao ồn ào lải nhải như một bầy ong, và những người thợ ảnh (cứ) chụp tanh tách đám du khách, kiên nhẫn đi (thăm quan) cùng họ, để sau cùng ép họ trả tiền những bức ảnh (không yêu cầu).
Nắng trải chang chang trên cảnh vật núi non biếc xanh hùng vĩ, vậy mà không thể được yên để (chí ít) nghe lòng mình xúc động (chăng?).
Rồi đến cảnh thăm quan cuối cùng: đi thuyền thăm những hang động, một buổi chiều”phơi nắng toàn tập” cùng những người chèo thuyền chủ yếu là phụ nữ. Ở đây, đột nhiên sự vô cảm của tôi…run rẩy.
Tôi và con trai lên một chiếc thuyền nhỏ, người chèo thuyền là một phụ nữ trung niên, không nói không rằng, dáng gầy gò như nhiều người phụ nữ chèo thuyền khác. Chỉ đôi khi, từ một con thuyền trên đường ngược trở ra, người ta hỏi một con số, và người phụ nữ chèo thuyền này cất tiếng trả lời bằng một con số. Sau đó, chị ta lại yên lặng, mải miết điều khiển mái chèo…bằng chân.
Đến lần thứ ba câu hỏi con số vang lên từ những thuyền ngược xuôi, không nén được sự tò mò của mình nữa, tôi hỏi: „Những con số đó là cái gì vậy, hả chị?”. Không nghe tiếng trả lời, tôi quay lại và hốt hoảng, người phụ nữ chèo thuyền mặt trắng bệch, gần như bất động toàn thân, chỉ đôi chân vẫn không ngừng điều khiển nhịp nhàng mái chèo. Tôi chợt nhận ra, người phụ nữ này đang quá mệt, đang lả đi vì một nguyên nhân nào đấy. Tôi nhìn quanh, thật may sắp đến chỗ nghỉ để khách dừng chân.
Đấy là cuối đoạn sông, những con thuyền chở bánh kẹo, nước ngọt, hoa quả và đồ lưu niệm buông sẵn ở đó áp sát lại những con thuyền vừa tới, trước khi quay đầu trở ra. Tôi mời chị chèo thuyền một gói bánh và một chai nước ngọt, chị cảm ơn và lặng lẽ ăn.
Chỉ trên đường ra, quay lại bến, chúng tôi mới trò chuyện nhiều hơn. Chị cho tôi biết, ở điểm du lịch này luôn luôn có khoảng hai nghìn”hộ” đợi số thuyền của mình được xướng lên, nghĩa là đến lượt chủ nhân của thuyền có cơ hội chở khách, mỗi lượt đi được một trăm nghìn đồng (khoảng 5 USD). Tôi tưởng thường xuyên đến lượt chị, nhưng chị bảo, không đâu, khoảng nửa tháng một lần, vì số người đợi đông lắm. Rồi chị kể cho tôi nghe cảnh gia đình nghèo khó không lấy gì làm may mắn của chị.
Tôi nhớ ấn tượng về Hoa Lư trong cái nắng gắt chói chang, trong dáng vẻ mệt mỏi chịu đựng câm lặng của người phụ nữ chèo thuyền, trong cả tiếng reo vui của con trai tôi khi ngước nhìn lên núi thấy một con dê trắng thấp thoáng, hay nhìn xuống mặt nước thấy những hạt đỏ kỳ lạ lốm đốm trên các rễ cây dạt, mà chị chèo thuyền bảo đấy là trứng ếch sẽ nở ra đòng đòng, rồi lũ vịt cỏ trắng muốt bé xíu, gọn nghẽ như một nắm cơm vừa khỏa nước vừa ngoác miệng kêu rõ to…
Những ngày sau đó, rời miền Bắc, hai mẹ con vội vã „bay” vào Nam. Điểm đến đầu tiên là Đà nẵng, một thành phố đẹp, hiện đại, rộng rãi thưa người (quá bất ngờ), nếu người ta chỉ quen với Hà nội, Sài gòn đông đến nghẹt thở. Kẻ đi chơi, đi du lịch truyền nhau câu nói: đây là thành phố đáng sống nhất ở Việt nam. Nhưng một ông tacxi Đà Nẵng bảo tôi: ở Đà Nẵng không có việc làm, khó kiếm tiền lắm.
Có lẽ điều nổi bật nhất ở Đà nẵng là những cây cầu hiện đại mới xây, và bức tượng Phật cao nhất VN ở chùa Linh Ứng. Nhưng tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi đi ca nô ra Cù Lao Chàm và đến Hội An. Nghe nhiều, đọc nhiều, xem nhiều về Hội An, nhưng tận mắt ngắm Hội An vào buổi tối, khi các phương tiện giao thông đều bị cấm, chỉ được dùng đôi chân dạo phố, mới thấy vẻ đẹp của Hội An. Vẻ đẹp ấy là gì? Tôi đã thốt lên ngay từ phút đầu tiên chiêm ngưỡng: giống hệt Hà nội ngày xưa!
Đúng vậy, Hà nội tuổi thơ của tôi êm đềm, nhỏ nhắn, đa màu sắc, thanh bình và dịu dàng như Hội An buổi tối. Quái gở thật, chỉ cần tái hiện cái bình yên cổ xưa đã đủ tìm ra nỗi lòng thanh thản cũ. Mới thấy con người và cuộc sống hiện tại lộn ngược đến mức nào.
Sau đó chúng tôi „bay” vào Sài gòn, trên máy bay có thể mua vé xe buýt đi Vũng Tàu, nên vừa rời máy bay chúng tôi lên xe buýt đi Vũng tàu ngay. Kỷ niệm về Vũng tàu thật khó tả, vừa ướt đẫm nước mưa, vừa kỳ lạ vì những cuộc gặp gỡ. Trước hết là tìm ra họ hàng (xa lắc xa lơ), tuy điều này chả có gì khó khăn: Vũng Tàu giờ đây là của người Bắc, ngập tràn giọng Bắc, món ăn Bắc, các khu dân cư toàn người các tỉnh phía Bắc.
Với con trai tôi, Vũng Tàu là một thứ quả kỳ diệu, quả sa kê (thoạt nghe tưởng tên một loại rượu Nhật). Khi cô chị họ mang lên một đĩa sa kê cắt lát rán vàng (và không nói gì), nó tưởng đấy là khoai tây chiên nóng giòn, nó ăn hết sạch và vẫn tiếp tục tưởng thế cho đến tận hôm về, cô chị họ mới dẫn ra chỉ cây và quả cho nó biết. A! nó kêu lên vô cùng thích thú, lôi ngay máy ảnh ra và…tách!
Còn tôi nhớ đến Vũng Tàu trong kỷ niệm của màn mưa và bóng dáng của một nhân vật khá kỳ lạ bất ngờ tôi quen. Đúng hơn, một người quen dẫn chúng tôi đến nhà anh. Đấy là một trí thức Việt đã từng sống rất lâu ở Pháp, toàn bộ con người anh toát lên một cái gì đấy quen thuộc từ nền văn hóa Pháp, khiến tôi không thể không (chạnh lòng) liên tưởng. Bố tôi từng là một „biểu tượng” của nền văn hóa này trong tôi.
Lúc đầu chúng tôi chỉ định ở Vũng Tàu một ngày, nhưng có lẽ vì trời mưa và vì dấu ấn của một nền văn hóa khác (vừa lạ vừa quen) chăng, chúng tôi ở lại Vũng Tàu thêm một ngày nữa. Người trí thức (Việt-Pháp) mới quen này kỳ dị vì những việc làm của anh. Để lại toàn bộ gia đình (một vợ hai con hai cháu) ở Paris, anh về Vietnam một mình, chọn Vũng Tàu để sống, làm những gì anh thích. Một trong những việc anh thích ấy là bắt tay vào cải tạo cái môi trường sống quanh mình. Ngày nào anh cũng đi nhặt rác trên con đường từ nhà anh ra đến bãi tắm (đi bộ chừng 15 phút), làm những thùng xốp đặt hai bên đường để đựng rác, vần những phiến đá xếp thành ghế ngồi và trồng rất nhiều loại hoa chạy dọc con đường ra biển. Lúc đầu dân ở đây đứng xa xa nhìn, thấy lạ, giờ, họ niềm nở chào anh, bọn thanh niên bắt đầu giúp anh cũng nhặt rác và phát quang cây, cỏ. Thậm chí, chính quyền thành phố quyết định tặng anh một bằng khen!
Tôi hỏi gia đình anh nghĩ gì khi anh trở về VN sống? anh bảo ai cũng phản đối dữ dội, vợ anh ly hôn, nhưng năm ngoái nghe tin vợ bệnh nặng, anh về Paris một năm chăm sóc vợ, vợ bình phục, anh lại quay về VN. Tại sao anh quay về? Anh ngẫm nghĩ và bảo: không thì tôi thấy tôi phí lắm, tôi có thể làm nhiều điều khác ngoài cả đời làm một ông bác sĩ ở Paris.
Tôi không chú ý lắm đến căn nhà nửa Á nửa Âu của anh, tôi bị chìm vào suy ngẫm, khi đôi lúc nhận ra một cái gì đấy bất ngờ trong cách ứng xử, trong quan điểm, trong nội dung những câu chuyện của anh. Và nhất là khi chạy trong màn mưa ra bãi tắm, nhảy sóng trên biển mưa ngút ngàn, quay về chạy vượt qua những khóm hoa đủ màu đẫm nước, những phiến đá xếp vụng về, những thùng xốp ghi chữ Thùng Rác to tướng.
Con người đúng là một thế giới riêng duy nhất mênh mông.
Rời Vũng Tàu, hai mẹ con tôi về Sài gòn, đi chơi khắp nơi trong thành phố, tôi hỏi con trai thích Hà nội hơn hay Sài gòn hơn? nó bảo: thích cả hai, vì cả hai đều đẹp như nhau.
Con trai tôi cũng là một thế giới riêng kỳ lạ: đến nơi nào nó cũng hý hoáy lôi mấy con ngựa Poni yêu quý của nó ra chụp ảnh cùng nơi ấy. Ai cũng lấy làm lạ, cũng như tôi không màng tới lời chia xẻ của nó: con chụp để gửi cho tất cả mọi người. Rồi khi nó hãnh diện chỉ trên màn hình nhỏ, lúc này tôi mới hiểu nó chụp ảnh để làm gì, đúng là nó đã chia xẻ niềm vui của nó với mọi người-bằng cách riêng mà nó muốn.
(http://www.equestriadaily.com/2014/07/ponies-around-world-2014-day-3.html)
Đấy: quê nhà trong tháng Bảy-Julius 2014 của tôi.
( Budapest.2014.07.23)