Năm Đinh Hợi (987) nhà Tống sai Lý Giác đến Việt Nam. Tới bến Sách giang, vua Lê Đại Hành nhờ thiền sư Pháp Thuận cải trang làm phu chèo đò đi đón sứ. Thuyền vừa rời bến, Lý Giác trầm ngâm ngắm phong cảnh hữu tình. Chợt thấy hai con ngỗng bơi trên dòng nước biếc, Lý Giác vụt miệng ngâm lớn :
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Nghĩa là :
Ngỗng kia ngỗng một đôi
Ngưỡng cổ ngóng chân trời
Sư Pháp Thuận khoan thai chèo đò, nghe xong liền đọc tiếp hai câu :
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Nghĩa là :
Nước xanh lông tuyết trải
Sóng lục chân hồng bơi
Sứ Lý Giác lấy làm kinh dị, như tự hỏi với chính mình : Lạ thật cho nước Nam này, một kẻ chèo đò cô lậu thế kia mà chữ nghĩa chẳng thua gì giới nho sĩ thượng lưu bên Trung quốc. Lý Giác thầm mang lòng kính trọng, nên khi về đến sứ quán liền viết tặng bài thơ thất ngôn, mà câu thứ bảy tôn sùng vua nước ta ngang đồng với vua Trung quốc : "Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu" (Ngoài trời lại có trời soi rạng).
Thực ra bài thơ này không do Lý Giác và thiền sư Pháp Thuận trước tác, mà chỉ là trí nhớ và kiến thức về học thuật thi văn Trung quốc đem ra đối đáp. Bài tứ tuyệt vừa trích dẫn vốn là bài Vịnh Nga của Lạc Tân Vương sáng tác ba trăm năm trước đó, nay được nhuận lại đôi chút. Nhưng vấn đề đặc sắc ở đây vừa là cuộc đấu trí ngoại giao, vừa là một sáng tạo thù ứng mang tính văn học trong một không gian mới và ở thời điểm có tính quyết định về vận mệnh của một dân tộc.
Bài Vịnh Nga của Lạc Tân Vương là một tuyệt phẩm được cổ nhân khen "Thi trung hữu họa", trong thơ có họa, thơ vẽ nên họa phẩm. Nhưng cùng hình ảnh mỹ lệ ấy, qua cuộc đối đáp giữa một danh sĩ và một tăng sĩ, bài thơ được nâng cấp thành "Thi trung hữu đạo", thi vị tân trang thành đạo vị.
Thoạt nghe bốn câu thơ, ta cảm nhận sự hữu tình của phong cảnh, mối thanh khiết của đôi ngỗng. Nhưng đồng lúc nói lên quan điểm vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật. Quan điểm ấy là :
Vạn vật nghìn sai muôn khác, nhưng vô thường, sinh rồi diệt, tồn tại rồi hủy phá. Tuy nhiên trong muôn nghìn biến chuyển sinh diệt kia, vẫn có cái bất biến. Như muôn nghìn lớp sóng xô đẩy, sinh thành rồi biến hoại không ngưng nghỉ kia, nước vẫn thoát ly khỏi cuộc thành hoại của sóng, mà thuật ngữ Phật giáo gọi là Chân Như. Chân Như không sinh, không diệt, Chân Như cũng chính là vạn vật. Nhưng do vô minh che lấp làm cho chúng ta chỉ nhìn thấy hiện tượng, tức vạn vật nghìn sai muôn khác, biến hiện vô thường, mà không nắm bắt được bản thể Chân Như. Vô minh làm cho chúng ta phân biệt ra chủ thể và đối tượng, chia thành tâm và cảnh, khiến chúng ta lặn ngụp trong sự phân biệt nhị nguyên tranh chấp. Làm cho chúng ta không thấy được tâm và cảnh chỉ là một (Tâm cảnh nhất như), nghìn sai muôn khác nhưng vẫn chung cùng bản thể (Vạn hữu nhất thể).
Sứ Lý Giác ngâm câu "Nga nga lưỡng nga nga", thì hai chữ Nga nga đầu tiên nói lên bản thể hồn nhiên bất biến. Nhưng do tâm phân biệt qua chữ "lưỡng" là hai, mà thành ra hai con ngỗng, tức hai chữ nga nga sau cùng. Sự phân biệt này phát sinh ra hiện tượng nghìn sai muôn khác của vạn vật. Càng trầm đắm vào đó ta càng lang thang đi lạc nơi chốn bụi hồng. Chẳng sao nắm bắt được thể tính Chân Như. Ngoại trừ ta biết ngưỡng cổ, "quay đầu thấy bến", nhìn về Giác hải chân thường như đôi ngổng kia :
Ngưỡng diện hướng thiên nha / Ngưỡng cổ ngóng chân trời
Như vậy thì hai câu Lý Giác đọc lên mang một ý nghĩa nhận thức về nhân sinh cũng như vũ trụ của đạo Phật. Đó là vạn vật biến sinh từ Diệu giác và đều quy hồi Giác hải Chân Như.
Còn hai câu đáp lại của Sư Pháp Thuận nói lên sự định vị giữa Cư sĩ và Tăng sĩ, đồng thời làm cuộc phân công hợp tác để hóa đạo cứu đời :
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Nghĩa là :
Nước xanh lông tuyết trải
Sóng lục chân hồng bơi
Chữ Bạch mao, lông trắng tuyết, hàm ý sứ giả là một người Cư sĩ áo trắng (bạch y cư sĩ) đang đem thân lo việc đời, việc nước, việc người, đang thi hành hạnh bồ tát nơi nghìn trùng sóng nước sâu thẳm xanh um (Lục thủy). Lông trắng thanh khiết của ngỗng trải trên mặt nước mà không bị nước làm cho ướt đẫm, đắm chìm ; trái lại còn thắng lướt, thong dong hiện diện khắp nơi. Còn chữ Hồng trạo, chân hồng, ám chỉ vị Hồng y tu sĩ, tức người Tăng sĩ lắng sâu vào giới, định, tuệ, để khai mở chân tâm, hoằng truyền chánh pháp. Đôi chân cắm sâu vào dòng nước vô lượng, đạp bơi tự tại giữa muôn trùng phiền não, dục vọng, tiến về bờ giác.
Sự định vị trên đây còn là cuộc phân công hợp tác trong dòng Văn hóa Giác ngộ của Phật giáo : Người Cư sĩ sống giữa đời giữ gìn tam nghiệp thanh tịnh (thân, khẩu, ý) để trước là đền đáp Tứ trọng ân (ân quốc gia-xã hội, ân Tam bảo, ân cha mẹ, và ân Thầy-bạn) , sau diệt Tam đồ khổ (là 3 cõi dữ của ngạ qủy, súc sinh, địa ngục, mà trần gian Việt Nam ngày nay đang hiện hình 3 cõi lầm than, khổ lụy ấy). Người Tăng sĩ thì chiến thắng phiền não và dục vọng, như đôi chân hồng đạp lội giữa muôn đợt sóng phiền não, khiến cho phiền não là bồ đề, viên thành chánh quả để dẫn dắt quần sinh lên ngôi vị Bồ tát, chứ không xa lánh phiền não để đi tìm giác ngộ giữa hư vô tịch mịch cho sự vui thú riêng mình.
Trên đây là bài thơ thứ nhất mang ý nghĩa chủ đạo của nền văn hóa hình ảnh mà tôi muốn đề cập. Nó khác xa với nền văn học như một chi lưu của cuộc sống trầm luân, khổ lụy. Nay xin nhắc thêm một bài tứ tuyệt nữa để kiện toàn sự suy nghĩ của tôi.
Bài này trước tác vào thời điểm nguy kịch của nước ta ở cuối thế kỷ thứ X. Trong nước thì nạn đảng tranh, bè phái tranh giành, tham quan ô lại, mặc dân đen thống khổ. Hoàn cảnh giống y như ngày nay. Bên ngoài thì triều nhà Tống dòm ngó lăm le xâm lược nước ta ; ở biên giới phía nam, Chiêm Thành gây sự. Do đó trong cơn lo âu, vua Lê Đại Hành ưu tư hỏi ý kiến thiền sư Pháp Thuận về vận nước và vận mạng của triều đình. Sư đáp bằng một bài thơ tứ tuyệt:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Nghĩa là :
Vận nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
Trong Giai phẩm Quê Mẹ Xuân Đinh Mão, 1987, tôi đã nói lên ý nghĩa và bình gỉảng bài thơ này và gọi bốn câu thơ ấy như bản Tuyên ngôn Dựng nước, bản Tuyên ngôn Hòa bình. Đúng là một Di chúc chính trị để lại cho người làm chính trị hôm nay.
Bài thơ với những lời bình dị, song sắc-mạnh như sấm-chẻ. Những câu đơn sơ nhưng chan chứa lý sống qua hành động hùng tâm tráng chí.
Quốc tộ như đằng lạc (nghĩa là Vận nước như mây cuốn). Quốc tộ là Vận nước mà vua Lê Đại Hành thao thức trông chờ, có gì khác hơn sự quấn quýt của những sợi dây mây ? Nhân dân và vua, nhân dân và lãnh tụ kết hợp hoà hài, tức người làm việc nước trong ngôn ngữ ngày nay. Vận nước chỉ dài lâu, thịnh trị, khi biết kết hợp lòng người, để thoát ly số phận, định mệnh nằm ngoài tầm tay con người, hoặc sự áp đặt nô lệ của nước ngoài xẩy ra trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng. Lòng mọi người, ngưỡng vọng mỗi con người, như dây mây leo quấn, hướng cao lên ánh mặt trời tìm chỗ đứng thích hợp, huy hoàng. Dây mây mỏng manh nhưng bền vững, lại biết tương thân tương ái cộng sinh. Khác với cây, dù là cây đại thụ, mọc nơi cố định và biệt lập đứng riêng một mình một cõi, mất khả năng di động, biến hóa. Khi tương sinh, dây mây có thể trói cả rừng già, hay ôm choàng mọi sức sống xanh.
Đó là ý nghĩa đoàn kết dân tộc, kết hợp toàn dân, trong câu thơ đầu, mà cũng là trách nhiệm ưu tiên của những người cầm quyền. Nhờ sự kết hợp bất phân nguồn gốc, giới tính, chính kiến ấy, ý thức tự chủ dân tộc mới được hình thành, mở ra một nước Việt thái bình và hùng cường dưới cõi trời Nam :
Nam thiên lý thái bình / Trời Nam mở thái bình
Chấm dứt tranh chấp, chấm dứt củi đậu nấu đậu, chấm dứt thảm trạng gà một nhà bôi mặt đá nhau.
Hai chữ đệ nhất quan trọng của bài Quốc tộ nói trên là hai chữ Vô vi trong câu thơ thứ ba. Thông thường nói đến vô vi, nhiều người quan niệm là không làm gì cả, theo kiểu bi quan "Xử thế nhược đại mộng, Hồ vi lao kỳ sinh" (Đời như giấc mộng lớn, chuyện chi lo lắng dấn thân cho mệt ?!). Thế nhưng các Đại sư Phật giáo đem thân cứu độ sinh linh, trần thế, với quá trình Dựng Văn, Mở Nước, rồi Giữ Nước từ thời Hai Bà Trưng trải tới triều đại nhất thống cơ đồ Đinh, Lê, lẽ nào các Đại sư lại chủ trương tụ thủ bàng quan, dửng dưng sống chết mặc dân, vô vi như thế ? Huống chi quan điểm Phật giáo không hề chủ trương vô vi theo nghĩa đen không làm gì cả. Cần có nhãn-thức của Kinh Kim Cang thì mới nắm bắt dược nội dung của Vô Vi.
Theo Lục độ tập kinh, bản kinh Phật giáo bằng tiếng Việt đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ III Tây lịch, thì "các niệm lắng diệt đó là vô vi". Làm sao lắng diệt các niệm ? Đại để được gỉai thích trong truyện 81 của Lục độ tập kinh : « Giữ lòng cẩn trọng, đừng kiêu ngạo, đừng lấm bụi bặm của sáu tình, lòng thanh thản, không một dấu vết các ái nhỏ, dù như tơ tóc, thì các niệm lắng diệt, đó là vô vi".
Lão Tử định nghĩa Vô Vi ở chương 3 Đạo Đức Kinh là "làm cái không làm tức chẳng điều gì mà không sửa sang" (Vi vô vi tác vô bất trị), hoặc ở chương 37 : "Đạo thường vốn không làm gì nhưng chẳng việc gì là Nó không làm. Nếu bậc Hầu vương nào giữ được Đạo như thế, muôn loài sẽ tự biến hóa đổi thay" (Đạo thường vô vi nhi vô bất vi. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa).
Đối với Nho giáo, Vô vi được giải thích trong Luận ngữ như sự "nghiêm túc với chính mình" theo lối "vô vi nhi trị" của Vua Thuấn. Ngoài sự nghiêm túc với chính mình, còn phải có Trí, có Đức lớn để lãnh đạo nhân dân.
Xem thế, thì ý nghĩa Vô vi trong "Vô vi trên điện các" của bài Vận nước, biểu hiện con đường hành động trong truyền thống phương Đông, đề xuất một mẫu người lý tưởng lắng diệt các niệm (tức vứt bỏ cố chấp, thiên kiến, nhị biên), có trí và đức để lãnh đạo đất nước, thì mới chấm dứt tranh chấp, chiến tranh, mở ra kỷ nguyên thái bình, thịnh trị. Bài học này không riêng việc mở ra con đường chính trị cho đất nước ta ở thế kỷ thứ X, mà vẫn còn giá trị tư tưởng và hành động cho Việt Nam ngày nay.
Vì vậy, bài thơ Vận nước trên đây, ngoài sáng tạo văn chương còn hàm chứa một lý sống của tư tưởng. Tạo thành nền văn hóa hình ảnh, chủ đạo cho mọi biểu tượng và ngôn ngữ. Tôi phân biệt hình ảnh văn hóa với văn hóa hình ảnh do sự bị động hay chủ đạo sáng tạo của văn hóa. Hình ảnh văn hóa là nếp sống văn minh, tiến bộ đã thành và đang được suy luận, đánh giá, giới thiệu. Tuy vài khi chỉ còn là cái bóng mờ, khô chết của một nền văn hóa vàng son nhưng đã thành quá khứ, được gọi kêu để thoa vuốt sự tự hào, tự mãn vô vọng hay yếu hèn. Mất sinh lực sáng tạo, văn hóa chỉ là những hình ảnh quá thời. Trái lại, văn hóa hình ảnh là nền văn hóa đang chuyển hóa nhân sinh, hóa thân qua biểu tượng và ngôn ngữ sinh động, thần kỳ, để vượt thoát sự vong tính, hóa thạch, nơi các xã hội sống theo chủ nghĩa hư vô.
Văn học nước ta sáu mươi năm qua có khi diễm lệ, lãng mạn, khi yểu điệu hay hùng tráng, khi thì bạo lực, giết người... Nhưng nền văn học ấy còn trong dạng thức ra đi. Ra đi nhưng chưa Lên Đường. Ra đi trong mơ ước cách mạng mơ hồ của Dũng trong Đoạn tuyệt, ra đi thui thủi như Thâm Tâm trong "Ly khách, ly khách, con đường nhỏ, Chí lớn không về bàn tay không". Hay ra đi với quyết tâm làm cuộc cách mạng đổ máu của Tố Hữu và các đồng chí của ông :
Ta đã đi là ta quyết đi !
Đạp bằng trở lực vượt gian nguy
Ngực còn thoi thóp tim còn đập
Còn nghiến răng giương thẳng nghĩa kỳ !
Thế nhưng tất cả những cuộc ra đi ấy, dù bằng hư cấu, bằng ước vọng, hoặc bằng thực thể dấn thân, đều không đưa tới đích nào cho kẻ ra đi, hay quần chúng đông đảo mà họ đòi dẫn dắt ra đi. Vì mọi cuộc ra đi ấy đều không có đích thăng hoa, không phương hướng dân tộc, phi văn hóa và phủ định con người. Nhất là những cuộc ra đi này nằm trong chi lưu của nền văn hóa Mác Lê. Một nền văn hóa chủ xúy đấu tranh giai cấp, chia rõ bạn thù, mà trận tuyến giăng ra yêu sách phải có kẻ thắng người thua. Kẻ thắng đóng vai đồ tể, người thua xếp hàng đi vào lò sát sinh. Nền văn hóa Mác Lê đang nô dịch hóa Việt Nam, vì chỉ lo nhào nặn tri thức ngoại lai, nhưng xao lãng, nếu không là tiêu diệt, tinh thần dân tộc và sự thanh cao của con người văn hóa Việt.
Trong khi ấy, bằng « những thiện-ngữ-vi-diệu ở thế gian » (xem kinh Tăng nhất A hàm) nền văn hóa Phật giáo vừa khai mở trí tuệ vừa un đúc tình nghĩa dân tộc và bảo vệ Con Người. Đích thị là nền văn hóa Giác ngộ, một nền văn hóa không đòi hỏi kẻ thắng người thua, mà tiêu đích nhắm hiển bày Chân lý Giác ngộ cho mình và mọi người.
Bài thơ của thiền sư Pháp Thuận đề cập trên đây không kêu gọi sự ra đi phiêu bạt như trong nền văn học Việt 60 năm qua. Thơ ở đây hiển lộ sự sống, nắm bắt sự sống, thương yêu, bảo vệ và hòa đồng con người, đất nước, vũ trụ. Thơ là sự Lên Đường Giác ngộ.
Ở thời đại thảm sát ngày nay, chỉ còn lại người Thi sĩ như một khả năng vô biên cho sự quy-hồi sử-tính và tác-tạo niềm thơ mộng nơi trần gian diễm lệ.