Mùa Thu rớt nắng chiều xa
phố chìm thương nhớ
thật dễ tìm một tứ thơ...
Vờng xanh lãng đãng
người tình xưa cận kề
miền yêu bật khóc
một ngụm đắng cay hoài niệm
níu nhau trăm nỗi ngậm ngùi
café đằm khói thuốc...
Đối tình trang trắng
nỗi đau đời không chỉ chau cau nơi tượng gầy La Hán
cái ác hả hê mặt Thiện cười dự dạ hội hóa trang
công lý mang hình lưỡi gươm / dấu hỏi
café không đường, nước loãng hương
không thể làm nhà văn khi nhai keọ cao su nhóp nhép!*
trí tưởng kích căng ý tưởng tuôn dòng
tình nghệ sĩ ngợp mê khói thuốc!
Chưa hẳn thế
trăng soi đáy thời gian
chập chờn cơn mộng phù sinh
suy tư kiệt nhựa yêu thương
ngày mới ngày hát chào bình minh
hạt bụi lung linh cõi thế
đã đủ đâu máu tươm đầu ngọn bút, lệ thấm trang văn**
đã hiến tận nguyên trinh/ lặn cùng dâu bể?
làm sao mở tâm tư gọi lời con chữ!
Chông chênh nhân gian những điều dự báo
mỗi sát na con tim vỗ cánh mặt trời
đu dây - nụ cười
mùa Xuân - tâm bão
Em lại về, Người tình cảm hứng tinh khôi
trong giọt đắng đằm thơm không khói thuốc.
28/6/2015
* Lời của một nữ nhà văn Phương Tây
** Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) theo bản dịch Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim bình luận Truyện Kiều của Nguyễn Du.
"...Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột... Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy".