Phần 1 – Cơ chế khoán
Đoàn chúng tôi đi sydney theo cơ chế khoán, nghĩa là muốn tiêu kiểu gì, tiêu vào thứ gì,… cũng được, miễn là trong vòng tiền khoán.
Quá sướng!
Vì tự chủ tài chính, nên chúng tôi có kế hoạch tiêu tiền từ ở Việt Nam, tức là phôn sang Úc, đặt phòng trước, đặt 2 phòng để cả đoàn ngủ dồn, đoàn kết, ấm cúng với nhau, lại kinh tế.
Người ta bảo, bên Tây, người cùng giới không được ngủ chung, nếu ngủ chung sẽ là pê đê, ai ái, Tây nó cười cho thối mũi. Kệ Tây cười, chúng tôi cứ ngủ, phòng chúng tôi 5 dồn đực rựa. Khách sạn 3 sao, giá 250 đô Úc/24 tiếng.
Du lịch ở Tây là một ngành công nghiệp không khói, hái ra tiền, nên kỹ nghệ rất hoàn hảo. Hai nơi chúng tôi ở, Tây không bao giờ vào kiểm tra, rình mò, cứ để khách tự tiện, tự do ăn, ngủ, nấu nướng và cả hút thuốc lá lậu trong phòng ngủ.
Trước khi đi, chúng tôi họp bàn, ban đầu định mang theo đồ ăn, song phong thanh bên Úc nó kiểm tra kỹ lưỡng thực phẩm lắm, đến như mang cái lông gà, thì cũng phải là lông khô, lông thành phẩm, còn dạng tươi sống, xin cứ để lại, tuyệt đối cấm tha lôi vào nước Úc. Thế là anh em trong đoàn thống nhất, sẽ tuyệt đối ăn uống ở nhà hàng, khách sạn. Chả mấy khi có dịp sang Tây, thời gian là vàng bạc, dùng để sóp ping, rồi cà phê, rồi bát phố, ai lại hùng hục nấu ăn – có mà điên!
Sang đến bên ấy được đúng …. một hôm, mới thấy đồ ăn Tây không hợp, rồi nhà hàng xa xôi, đi lại diệu vợi, cách rách - phải bằng tắc xi, rồi hỏi thăm hỏi nom đường sá, trăm thứ bất tiện và nhất là đắt, đắt đau đến như hoạn, có bữa cơm chúng tôi xơi, mà như ăn đô la Úc, ăn xong, tính ra, mỗi người xơi tới 300 - 400 nghìn Việt Nam đồng, mọi người mặt cứ đực ra, đực ra không phải vì món ăn ngon, mà đực ra vì tiếc tiền!
Thế là cả đoàn lại họp, lại ra nghị quyết: tự nấu ăn. Công nhận, tự nấu, đồ ăn nó ngon, nó hợp khẩu vị và nhất là rẻ. Chỉ có đôi điều bất tiện: mất khoảng thời gian vàng bạc, rồi dụng cụ nấu nướng không có, rồi phải đi chợ và ai là người nấu, rửa bát,… đây?
Lại nói về bọn Tây tế nhị và cách thức tổ chức du lịch rất hoàn hảo. Phòng khách chúng tôi thuê, được chuẩn bị rất chu đáo: một bếp từ, một ấm nước điện, cùng bát đĩa, nĩa và cả đũa.
Chúng tôi nấu ăn bằng cách: rau và trứng gà tống vào ấm nước điện, vì không mang dao, nên dùng nĩa xẻ thịt bò, miếng thịt to như nắm đấm, không thể xẻ nhỏ hơn được nữa. Thịt ngoài thì khô cứng, bên trong máu me còn đỏ lòm. Mọi người an ủi nhau, ăn thế này bổ lắm, vì là thịt bò tái Úc!
Nơi nghỉ đầu tiên của chúng tôi là một nhà khách vùng biển manly, cách trung tâm Sydney khoảng 20 Km. Chủ nhà khách là một cô tây khoảng 40 tuổi, một quản lý nữa và cô bé da trắng độ dưới 15 tuổi - dọn phòng, chắc là học sinh phổ thông làm thêm.
Chúng tôi chỉ nghỉ tại đây một hôm. Lúc trả phòng, chủ nhà hít hít mũi và ra ngay mức phạt: 300 đô la Úc, vì hút thuốc lá trong phòng. Khoảng độ 5 phút đấu lí, cô ta linh động tha cho. Ngoài linh động là người Việt Nam mà tha, còn bởi cái lý của chúng tôi cứng quá: lần đầu tiên tới Úc, không biết luật cấm hút thuốc lá trong phòng, trong phòng không treo biển cấm hút thuốc, bên Việt Nam của “chúng tao ấy”, khách khứa cứ thoải mái hút thuốc nhé! Nếu không tin, “mày cứ sang nước tao mà xem…”
Thế là đoàn chúng tôi tiết kiệm được 300 đô la Úc, vì hai ông hút thuốc lậu trong phòng, trong đó tôi góp vào một suất hút.
Phần 2– Giao thông kiểu Úc
Nước ta tự hào về giao thông với triệu, triệu chiếc xe máy, ngổn ngang tham gia giao thông và mỗi ngày có độ ba chục người thiệt mạng vì tai nạn.
Sang đến bên Úc, thì trên trời dưới đất, cơ man nào là ô tô. Ga ra chứa ô tô cao vài chục tầng ngay sân bay sydney; từ tháp cao của Sydney nhìn xuống, đập vào mắt khách là tòa nhà cũng chọc trời năm, bảy chục tầng để chứa ô tô; còn ngoài đường, ngoài bãi ô tô xếp nhan nhản; trước sân, ngõ bất kỳ nhà nào, cũng thấy ô tô xếp lốt.
Sứ căng gu ru sử dụng ô tô tay lái nghịch, nên trên đường, cứ cảm giác xe sắp đâm vào mình. Ấy thế mà chả thấy vụ tai nạn nào, cứ ù ù xe chạy, đèn đỏ là dừng ngay táp lự, còn những chỗ ưu tiên cho khách bộ hành, lái xe thân thiện dừng, nhường đường ngay.
Dạo thăm Sydney gần tuần, chả thấy bóng dáng chú cảnh sát nào, hay họ cài cảnh sát chìm; đi qua sở cảnh sát thành phố cũng không thấy bóng dáng cảnh sát gác cổng. Họ trốn ở đâu thế nhỉ? Cũng chẳng gặp những vị như ở ta - đại diện hệ thống chính trị, tức là dân tự quản phường, tự quản phố, ngỗn nghện cưỡi ô tô, thi nhau rượt mấy bà bán hàng rong…
Cũng chả gặp cảnh trộm cắp, cướp giật, hay đánh, móc túi, hay quấn lấy khách du lịch gạ bán đủ thứ, từ bao ca bốt, đến thuốc cường dương, hay ảnh bờ hồ….
Công nhận sứ căng gu ru này, xe tắc xi gọi hơi bị khó, lại đắt nữa, giá cả gấp từ 6 đến 8 lần Việt Nam mình, không có chuyện cứ gọi, cứ cần là có tác xi ngay. Xe đi 4 suất là đúng 4 người, không thể chen đẩy nhau mà ngồi cho hết nhé. Xe chở một người giá 1 người, xe chở 4 người giá của 4 người. Đèn đỏ xe dừng, công tơ vẫn chạy tính tiền. Công nhận anh tư bổn, tính tiền rất chuẩn, chính xác đến từng đồng xu kim loại.
Hôm chúng tôi có cuộc làm việc với đài Quốc gia Úc (ABC), vì sợ trễ giờ, cả đoàn cuống cuồng. Nhóm 4 người chọn được một xe, nhào nhào đi ngay, đoàn còn lại 5 người nữa, nếu gọi một xe thì thừa 1 suất. Cái tắc xi vừa dừng, cô bé trong đoàn tót lên luôn, dí tờ địa chỉ vào mặt bác tài, ông này già cỡ hơn 60, vì mải xem địa chỉ, đến khi xe chạy, ông mới ớ ra, vì thừa 1 suất khách, ông ta hãi lắm, nhưng cứ liều chạy. Anh em trong đoàn bàn tán, nếu cảnh sát phạt, thì đoàn sẽ chung tiền nộp phạt cho ông ta. Công nhận dân Việt mình đôn hậu ra phết.
Những tưởng Úc là đất của giống người da trắng thực dân và dân gia đen nâu gốc bản địa, nhưng hóa ra, gặp đến 1/3 là dân châu á, da vàng mũi tẹt. Riêng dân An Nam mình, nhiều vô thiên lủng. Nhìn thấy dân Việt, nếu muốn thử, cứ huýt sáo gió mấy bài nhạc Trịnh, mặt họ đần ra, là dân Việt mình rồi.
Đoàn của chúng tôi mấy lần nhờ các cháu người Việt, nào Việt du học, nào Việt định cư, nào Việt… chỉ đường giúp, mua vé giúp, có cháu còn dẫn đoàn xuống ga tàu và vẫy vẫy lúc chia tay. Thật bịn rịn. Quả là tình đồng bào, thì dù sao cũng cùng một bọc, dù có khác quan điểm, khác chính kiến, nhưng vẫn là người Việt đây thôi.
Phần 3 –Rượu…
Đó là thứ tôi ham, là thú vui trong các thứ vui của tôi, nó chỉ đứng sau hàng thú vui viết của tôi thôi. Thế mà sang bên Úc, tôi phải nhịn rượu. Nói nhịn thì không đúng lắm. Ít ra tôi cũng được đôi bữa uống, nhưng chỉ dạng thòm thèm, gọi là uống. Mà dân nghiền như tôi, lại nhấm anh rượu vang, thì còn gọi gì là uống rượu nữa!
Sau 3 ngày, ấy là chiều ngày thứ ba của chuyến đi, khi mua thức ăn cho bữa tối, cô cháu trong đoàn khá tâm lý, chắc nhìn bản mặt tôi đần đần, biết là chú thèm rượu, nên bảo mua rượu. Nghe vậy, tôi mừng hú. Hai chú cháu vào cửa hàng rượu nọ. Cái cửa hiệu rõ to, rõ đẹp, rượu bày bạt ngàn, tôi chỉ nhìn đã choáng. Sung sướng được …5 phút, thì tá hỏa, lượn như bươm bướm, hết qua lại lại, vẫn chỉ thấy dạng sâm bay, rồi vang, nào vang đỏ, vang trăng, vàng nhờ nhờ vang… Thế có bỏ mẹ tôi không. Hay mình không đeo kính, nhìn chưa thấy, tôi vội bỏ kinh ra đeo, còn cẩn thận dí mắt vào tận mặt chai rượu, vẫn chả thấy anh uýt ki, hay vốt ka nào cả. Đánh liều, tôi hỏi anh cu tây bán hàng, vì không biết tiếng tây, nên tôi chỉ nói được dăm từ:
- Uýt ki, … cô nhắc, rồi thì… rượu nặng đâu?
Chán mở đời cho cái anh tây bán hàng, nó lại lắc:
- Nâu nâu, nâu cô nhắc, nâu uýt ki.
Điên tiết quá, tôi nghĩ bụng: nâu cái … mả tây nhà mày! Thế mà cũng đòi bán rượu, cũng mở quầy kinh doanh rượu. Mày mà ở Việt Nam chúng ông, cứ gọi cấm bán kiểu này nhé. Treo đầu dê bán thịt chó!
Cuối cùng, thôi thì cũng đành phải làm chai vang trắng, méo mó có hơn không, giá cả là 20 đô, tức 400 ngàn tiền Việt.
Đã nói rồi, ở cái sứ Úc này, cái gì cũng mắc, mắc gấp bốn, năm lần ở ta. Một đồng chí trong đoàn chuẩn bị 1 cây thuốc ba số, qua hải quan Úc, họ giữ lại sáu bao. Thế là thiếu thuốc, phải mua. Anh bạn buốt ruột bỏ tiền ra mua, mỗi bao giá đến 400 nghìn Việt Nam đồng. Hút thế ngang bằng hút tiền. Vớ phải mồm tôi, thì cứ rịn nhé, cứ để dành mồm về Việt Nam mà hút, đã rẻ, mà chỗ nào cũng thoải mái hút, không như bên châu Úc này, nơi nào cũng cấm, cũng giữ gìn sức khỏe!
Quay lại chuyện mua rượu ở cửa hàng ấy, khi chúng tôi đang trả tiền, thì mấy ông bà trong đoàn – nói rồi, chỉ có hai chúng tôi ở lại mua rượu, còn mấy ông bà kia đi bộ về khách sạn trước. Mấy ông bà này, nhìn gà hóa cuốc, từ trên tàu điện xuống, đi nhầm đường. Lúc ấy tức nhau quá, kéo nhau quay lại cái cửa hàng bán rượu và xô cả vào, ông nói, bà nói, đồ thừa cho nhau và phô cái văn hóa Việt ra – tức đi chậm, nói to, ăn nhồm nhoàm, xỉa răng và ôm nhau đi,… – họ xia xỉa rằng:
- Tại ông lộn đường, lẫn đường…
- Tại bà lẫn đường, lộn đường…
Tôi vốn là người mềm tính, mà lúc ấy cáu tiết, cũng toáng lên:
- Các ông các bà ơi, đây là trời tây, văn minh lịch sự, không phải giữa đường giữa chợ… đâu nhá!
Thế là cả lũ tịt mít luôn. Vội vàng trả thành người văn minh sứ tây.
Anh tây bán hàng lúc đó cũng ớ ra, không hiểu cái đám da vàng mũi tẹt này ồn ã cái gì ở cửa hàng của anh ta. May mà anh ta không gọi điện báo cho po – lít (tức cảnh sát), có bọn định ăn cướp rượu ở cửa hàng của anh ta. Cô cháu đi cùng vội vàng với phân bua với tây bán hàng :
- I am so – rì, ai em xin lỗi sơ!
Đã kể ở trên, cả chuyến đi tôi được hai bữa rượu. Sau lần mua rượu như kể ở trên, thì trước khi về nước, bữa liên hoan cuối, chúng tôi mua chai vang trắng nữa. Nói hai lần được uống, chưa hẳn là chính xác. Khi trên máy bay từ Sydney về TP.HCM, tôi còn gọi 3 ba cốc vang trắng. Công nhận, giống gì, thứ gì, ăn, uống, dùng, mà không phải trả tiền, đều ngon và bổ cả. Trên tầng trời cao hơn 12 nghìn mét, tôi cứ nhâm nhi, cứ đê mê thưởng thức anh vang trắng sứ Căng gu ru.
Ra đến sân bay, mục tiêu trước nhất và duy nhất của tôi là thửa rượu. Vừa vào đến phòng đợi, đập vào mắt tôi là cả một sân rượu: rượu nặng, rượu nhẹ, rượu đen, rượu đỏ, rượu to, rượu nhỏ, cứ từng hàng, từng dãy. Tôi làm liền một lúc hai chai chivas regal 12, giá 109 đô úc, tính ra tiền ta là 2,2 triệu. Sao rẻ thế cơ chứ! Cửa hàng lại khuyến mại thêm cái túi, da rõ mềm, đẹp và tiện dụng, còn có cả quai xách và cái mác rõ oách: CHIVAS.
Chính nhờ 2 chai rượu tây - Úc này, mà trưa hôm kia, tức ngày 1/11/2013, tôi rủ đám bạn nhậu làm bữa túy lúy, xơi hết đến 1 chai, tại 33 Hàm Long, Hà Nội. Kể nếu mang 2 chai, thì an hem chắc cũng xơi hết. Thôi thì tôi cũng để lại 1 chai, để hôm lên Sơn La còn có cái mà chiều đãi an hem chuyến đi Tây của mình chứ.
Trong khi ăn uống, tơ lơ mơ say ở 33 Hàm Long, tôi lại ngẫm cái sự đời: Công nhận chả đầu bằng ở ta, ở cái sứ An Nam mình, nó là nhất, nhất là cái khoản: rượu!
Phần 4 – Xơi thịt căn gu ru
Trước khi đi, ở “bên mình”, tôi nghe đồn: Úc nó lắm căng gu ru lắm, chạy đầy đường, xô cả vào ô tô, xe máy, dân Úc cứ việc ra vườn, ra đường, ra rừng, bắt mà làm thịt. Họ chặt đầu, chặt cẳng, chặc bụng vứt đi, chỉ ăn mỗi khúc đuôi, vì nơi ấy tập trung toàn chất bổ! Nghe mà tiếc, sao phí phạm thế. Chuyến này sang, ông sẽ bắt, sẽ ăn, ông sẽ chế biến thành món rựa mận căng gu ru; không những ăn, ông còn tha lôi về Việt Nam vài tạ, tha về cho vợ con, rồi anh em, họ hàng, rồi biếu tặng người quen nữa.
Sang đến Sydney, tôi chẳng thấy con ma căng gu ru nào. Bảo muốn xem nó, phải làm cuốc du lịch lên tận núi đỏ rừng xanh, cách Sydney độ vài trăm cây số. Thật rõ chán!
Nhưng chim, cò thì Sydney đầy! Chim tha thẩn đi quanh người, đi trên hè phố; chìm cò bay lượn vãi cứt trắng lên vỉa hè, vãi cả cứt xuống đầu khách.
Từng nghe bài hát ở ta, “đàn hải âu tung cánh bay rợp trời”, nhưng ra biển Vũng Tàu, biển Đồ Sơn, chỉ loáng thoáng thấy mấy con bay …xa xa. Chúng mà liệng vào bờ, hay loạng quạng gần thôi, bị tóm làm món hải âu quay ngay. Còn ở Sydney, quãng biển trước nhà hát Con Sò, hải âu bay tung tả, bày xà xúm xuống khách, khách đuổi không đi.
Ở Sydney, ngoài chim, là đến ô tô, rồi người. Người ở đâu lắm thế. Lại cũng ở nhà hát Con Sò, khách du lịch đông kệt ra. Nào da đỏ, da đen, da vàng, da trắng, cứ chen vài thích cánh mà du lịch. Nói dại mồm, bọn khủng bố nó đặt cho quả mìn, ùng một cái, thì nhẹ cũng vài ba trăm mạng toi đời!
Người đến du lịch ở Úc có lẽ để thăm, ngắm kiến trúc, sau đó là hưởng thời tiết thoáng dịu tại đây. Dịp này (đầu tháng 11 tây) là mùa hè ở Úc (Nam bán cầu).
Nhiệt độ Sydney trên dưới 20 độ, nắng vàng, trời xanh, khô và gió. Thời tiết này, có lẽ cả tháng không tắm rửa, cơ thể không dậy mùi. Với người tây, thì đó là nhiệt độ lý tưởng, các ông bà tây cứ thỗn thện quần xóc, áo phông, có ông cởi trần như nhộng, khoe đám lông xanh, lông đỏ trước rốn, trước ngực xoăn tin tít, khoe cả những bức hình xăm trổ khắp người. Tôi đi gần một bà tây, so sánh nhanh thôi, cả thân thể tôi, chỉ nhỉnh hơn cái đùi nũng nũng của bà ta một tẹo.
Với giống da vàng, nhất là các anh cu vùng nhiệt đới, thời tiết này hơi se se lạnh. Nếu đứng nơi có nắng, còn tạm được, chứ vào đám bóng râm và gió, là rét đấy. Đoàn chúng tôi toàn người cần thận, lại đầu óc lo xa, tức là yếu thì không ra gió, nên anh nào, chị ấy đều sùm sụp áo gió, áo cánh, có vị com lê, ca vát chỉnh tề. Riêng tôi, đánh cái áo len dày sụ, như cụ khốt ở quê ra tỉnh Úc.
À phải kể thêm phần ăn uống - khá phong phú. Đồ ăn có của Tây, Tầu, Nhật, Ấn, loáng thoáng thêm anh An Nam ta nữa.
Ngoài mấy thứ đặc sản du lịch kể trên, sản phẩm phục vụ ở đây có phần hơi nhàn nhạt. Tại quãng cửa vào vào nhà hát Con Sò, có một anh dân gốc bản địa Úc, da nâu đen, mũi bành bạnh, ngoài dải vải nhỏ quấn để che phần bộ hạ, còn thì anh chàng cởi trần tất, khoe tấm thân được bôi xanh, quyệt đỏ như chú ngựa vằn vện. Anh ta cứ vung tay, vung chân, tiến lên, lùi xuống như chú đười ươi không lông. Bên cạnh anh chàng còn một bác tây trắng, ngồi tệt xuống nền xi măng, mồm dí vào chiếc ống dài cỡ mét rưỡi, to bằng cổ chân người, rỗng ruột. Chắc là loại nhạc cụ cổ truyền của dân bản địa Úc. Ông ta lúc thì làm cho nó kêu gâu gâu như tiếng chó, lúc lại meo meo giống tiếng mèo, lúc kêu bịt bịt tiếng chim chóc. Ấy thế mà tây, ta xúm vào xem đông đỏ. Chắc là thưởng thức văn hóa bản địa Úc cách đây mấy trăm năm, nay do thực dân xóa tiệt, chỉ còn sót lại mỗi anh chàng văn hóa cổ xưa châu lục này?
Trong khi thưởng thức văn hóa bản địa, khách không quên tung nhưng đồng xu Úc – giá trị tương đương từ vài nghìn đến chục nghìn Việt Nam đồng vào chiếc sọt bày ở đó – tiền cát xê văn nghệ.
Gần chỗ ấy còn mấy anh chàng nghệ sỹ da trắng diễn xiếc, họ đặt dàn loa, oang oang kêu cả nhạc lẫn lời. Cũng có độ dăm ba chúc khách ngó ngó, nghiêng nghiêng xem biểu diễn.
Cơ bản khách đến sydney để xem biển xanh, ăn uống và ngắm nhà hát Con Sò, cùng các công trình kiến trúc thực dân. Công nhận đẹp, nhất là Nhà hát. Đứng gần quan sát, thấy con Sò là một công trình kiến trúc đồ sộ, hoành tráng, nhìn xa thì diễm lệ đẹp!
Với tôi, thôi thì trong đời cũng được một lần sờ, ngắm tận mắt công trình thứ hạng quốc tế này!
Phần 5 - Ở Úc vẫn có kẻ khổ
“Chủ nghĩa tư bản xấu xa lắm, nó bần cùng dân chúng, làm cho người lao động lao đao.”
Ngoài ra, người ta còn mình họa, có kẻ khổ đến mức, thèm rỏ rãi trước cảnh giàu sang của bọn tư sản, rồi trong thời điểm khủng hoảng thừa, tư bản cứ ùn ùn kéo từng sà lan hàng hóa đổ ra biển, mặc cho người lao động chết đói, chết khát.
Đấy là những điều tôi được học. Nó ngấm vào máu, thịt của tôi.
Khi đặt chân đến Sydney, nhìn những lá cờ phất phơi, vốn tiếng Anh ít ỏi, vẫn đủ để tôi hiểu ra rằng, nơi đây đang trong thời kỳ hàng hóa đại há giá, giảm 30%, rồi 50%, rồi 70%, tức là sắp tới thời điểm, tư bản mang hàng hóa ra đổ ở biến!
Tôi từng nghe, thời cải huấn gì đó ở ta, quãng năm 1952-1953, lính thút thít khóc, khi nghe cán bộ tả, bọn địa chủ hà hiếp nông dân. Có câu chuyện, ai nghe cũng khóc, cũng căm tức bọn địa chủ: Một anh lực điền kia, ngày ngày phải mút chim thằng địa chủ. Thằng ấy, vì chơi gái, bị đổ cho bệnh tim la, hủi lậu, nên chim đầy mủ. Vì buốt quá, không chịu nổi, ngày ngày bắt tá điền…. Nghe mà kinh hãi, ghê tởm, căm tức!
Bọn tư bản ác độc thật, chúng bóc lột, thâm độc … giờ tôi còn vãi. Nay được sang tận sào huyệt của chúng, sang để thấy sự bóc lột, hà hiếp người dân lao động, vì vậy, tôi cố tìm, cố “moi móc” ra những cảnh bóc lột, những điều khổ ái của dân chúng. May quá, tôi đã tìm ra:
Trên đường đi lại bằng phương tiện xe điện, qua khu đường hầm, trong dòng người xuôi ngược, tôi chợt nghe réo rắt tiếng đàn hồ - một nhạc cụ khá nổi tiếng của dân tộc nọ. Khi qua, tôi chỉ vội bấm, đâm ra bức hình nhòe lấp và cũng chỉ kịp quan sát kịp cái mũ đựng những đồng xu bố thí của người đời, đặt trước mắt kẻ ấy.
Đi tiếp vài chục bước nữa, tôi lại gặp một cảnh đời khác - kẻ này là tây trắng - ôm đàn ghi ta, cũng trầm bổng, du dương bản nhạc buồn và cái hộp đặt trước mặt, đón nhận những đồng chinh, xu rơi vãi, bố thí của người đời.
Trong ba, bốn ngày ở Sydney, tôi còn gặp đôi ba cảnh đời éo le. Thật xót thương cho họ. Bên đất Úc, nếu đủ tuổi già, thì có trợ cấp, tạm gọi là tiền già. Với số tiền ấy, không thể sống sung túc, nhưng cũng đủ để có miếng bánh mì đút miệng, manh áo đỡ rét, chả đến mức phải đứng đường, đứng chợ!
Ồ, hóa ra ở bất cứ nơi đâu, dù dưới địa ngục, hay trên thiên đàng, vẫn có những cảnh đời hưu quạnh, heo hắt. Họ vì nhiều lý do: chán đời, chán gia đình, hay phẫn uất, hoặc ngẩn ngơ sống, nên ra nông nỗi đứng đường. Đứng để bêu diếu, hay đứng chí là cái thú bản năng. Chả thể vì một hiện tượng, mà quy chụp, áp đặt cho một chế độ, một xã hội.
Thèm muốn của con người là vô cùng. Đến như trên cõi thiên đàng, thế giới phi tục, mà vẫn có kẻ còn tham muốn nhục dục chị Hằng Nga, bị trời đày xuống hạ giới, làm giống loài gia súc.
Hóa ra, người ta đâu chỉ có nhu cầu miếng ăn, miếng uống, mà còn có nhiều nhu cầu lắm! Tôi cứ ngẫm nghĩ vậy. Khi xã hội, mà mọi người hết nhu cầu, hết bức bách, cũng là lúc nó bị tiêu vong, nó là vĩnh cửu trong thế giới mây khói, vĩnh hằng, như ước mơ của nhân loài! Nước Úc tôi qua, đây mới chỉ là trước cửa thiên đàng! Đâu đã là thiên đang vĩnh hằng vĩnh cửu!
Phần 6 – Tây rất bủn xỉn
Người An Nam ta ra ngoài, mới thấy rõ phông văn hóa của mình - ăn uống nhồm nhoàm, đi đứng lững thững, nói to như ễnh ương, rồi thêm bệnh tắt mắt - tức là hay cầm nhầm. Ngày xưa, dân An Nam ta có thói “chó cậy gần nhà”. Trong lũy tre làng, người lạ mà động vào, thì cả bầy hùng hổ, nhúa nhúa: “Đánh cho bỏ mẹ chúng đi”. Nhưng dời xa khỏi làng, chỉ cách lũy tre làng độ dăm trăm mét, là nhũn như chi chi; lạy ráo, lạy từ thằng bù nhìn rơm trông dưa lạy đi.
Nay chu du sang trời tây, họ còn đức tính ấy chăng? Nếu đi một mình, chả ai biết đấy là dân An Nam, vì cứ im tít như thóc giống, nhưng kéo độ dăm, ba người, là hoành tá tràng ngay, nói năng át thiên hạ, ở đầu phố, mà tận cuối phố, vẫn nghe tiếng họ rổn rảng, oang oang. Lại cười nữa, cứ nhe răng ra cười, kèm thêm cái tắm xỉa ngược, chìa từ trong miệng chìa ra. Đại ý tuyên ngôn rằng, ông không phải kẻ đói, ông vừa mới mới xơi cỗ xong, cỗ ở đình làng ông đấy!
Người Tây bảo, dân Nam ta rất yêu đời, rất vui tính. Văn hóa tây nó hay khen, thì dụ:
- Ve ri gút – tức là tốt lắm !
- Ve ri biu ti phùn – tức là xinh đẹp lắm!
Thế là dân ta phổng mũi sướng, tưởng nó khen thật. Ngoài khen xã giao, tây rất kẹt xỉ nhé. Chuyến đi của đoàn chúng tôi sang Úc, có bài học nhãn tiền qua hai cuộc chúng tôi làm việc.
Tây hẹn làm việc đúng 9 h AM (tức buổi sáng). Anh em trong đoàn bàn tán, chắc sẽ làm việc vắt quá trưa, tức quá 12 giờ. Giờ ấy, tất nhiên chủ nhà phải mời khách rồi, kiểu như ở ta
ấy, chiêu đãi tẹt ga, rượu uống thả phanh và phải có món “thịt chó Nhật Tân thoải mái”. Trong đoàn ai cũng nghĩ vậy, cũng ngầm sung sướng, nghĩ, trưa đó tiết kiệm được vài trăm nghìn VN đồng.
Đúng là buổi làm việc rất căng thẳng, rất nội dung, rất kéo dài, không kiểu làm việc cò cưa như của ta, vừa làm việc vừa ngáp. Khốn nỗi thay, buổi làm việc ấy, đến cốc nước trắng, tây cũng không mời. Tôi nghĩ bụng, chắc nó để dồn vào bữa chiêu đãi. Làm việc đến 11h30, rồi 12 giờ, vẫn tiếp tục làm, vẫn chả thấy động tĩnh chén bát. Anh em trong đoàn có người ngáp. Đại ý bắn tin với chủ nhà:
- Chúng tao đói rồi đấy. Chúng tao Nâu còn vấn đề để bàn bạc nữa. Chúng tao muốn xơi cỗ lắm rồi! Chúng mày định để cỗ bàn nguội hết ư ?
Đại ý là vậy. Thế mà lũ tây vẫn giả ngây giả dại, mặt vẫn tỉnh queo, vẫn bàn thảo, vẫn làm việc tiếp, chã thấy lũ nó mời. Ngắm nghía đám tây làm việc, tự rưng thứ buồn ngủ ào đến trong tôi lúc nào không hay. Thế là tôi gà gật. Chỉ đến khi bị một anh bạn ngồi bên, kín đáo véo cho một nhát vào đùi, tôi mới choàng tỉnh:
- Gì, ăn rồi á ?
May mà tôi nói tiếng ta, chứ bằng tiếng tây, thì dơ dáng quá! Hóa ra tây vẫn chưa mời ăn, vẫn tiếp tục bàn việc. Anh bạn véo đùi là để thông báo: Ông phải lịch sự, trong lúc làm việc, thì không được ngủ gật ! Quốc thể ông để ở đâu!
Biết rồi. Sốt ruột. Không phải nhắc !
Buổi làm việc đến gần 13 giờ, trưởng đoàn tây mới bắt đầu nói lời cảm ơn về cuộc làm việc rất hăng say, nhiều ý nghĩa,.... Đại ý đều ve ry gút – tức là rất tốt. Tôi nghe qua cô phiên dịch, biết, buổi làm việc hoàn toàn tốt là tốt. Sau đấy, bà tây trưởng đoàn phía bạn bắt tay, chào khách. Tôi giật mình, nghĩ bụng :
- Ơ hay, thế các bạn không mời cơm chúng tớ ư?
Tý nữa tôi phát âm thành lời. May quá, mới chỉ trong ý nghĩ, chỉ có mặt tôi là ngẩn ra. Bà tây thấy cái mặt ngẩn ra của tôi, tưởng tôi vẫn háo hức làm việc tiếp. Thôi, con lạy bà. Bà mời cơm thì tôi thích, chứ bàn việc nữa - vãi!
Bảo tây nó kẹt xỉ cũng chưa hẳn đúng lắm. Bữa làm việc đầu, tây cũng không mời ăn uống gì, bữa làm việc thứ hai của đoàn với một cơ quan khác, cung y như vậy. Vẫn bàn ghế đẹp, vẫn đầy đủ thành phần và làm việc đúng giờ hẹn, làm việc căng thẳng, song tây vẫn không mới chiêu đãi.
Bắt đầu buổi làm việc thứ hai ấy, tại phòng làm việc đẹp, sang trọng, trên bàn bày sẵn đĩa bánh, có độ chục miếng, dạng bánh ga tô, miếng tròn tròn, miếng tam giác, phía trên phủ một tí bơ trăng trắng. Giữ buổi làm việc, lúc ấy khoảng 11h30, một anh nhân viên tây bê đĩa bánh ấy lên, dí vào mặt từng khách, ra ý mời xơi. Tây nó tiết kiệm và thực dụng thật, mời khách ăn bánh, mà không thấy thìa, nĩa, hay đũa, đến giấy ăn cũng không. Chắc nó tính, nếu dùng đũa, rồi giấy, lại sinh ra rác, sẽ gây ô nhiễm môi trường, nên ăn bánh, cứ việc dùng tay mà bốc, đỡ gây ô nhiễm.
Ngoài miếng bánh ga tô bé tẹo, sau buổi làm việc ấy, cũng chẳng thấy tây mời mọc, chiêu đãi gì. Thật chán mớ đời cho cái lịch sự hão kiểu tây ấy!
Sau cuộc làm việc lịch sự và căng thẳng thứ hai đó, đoàn chúng tôi phải quá 14 giờ mới mò tìm được một nhà hàng ăn của Nhật. Lúc ấy có người chê: Món Nhật không hợp khẩu vị. Nhưng vì đói ngấu, thế là đoàn của chúng tôi đành xơi món ăn của Nhật vậy.
Món ăn tùy chọn, nghe thấy có hải sản, ai cũng nghĩ: mực rán, cua quay, tôm luộc, song khi đồ ăn mang ra, chỉ thấy một bát cơm, trộn thứ gì đó, trông đo đỏ. Đói, nên chúng tôi xơi ngấu nghiến, chẳng thử xem nó là rau, hay thịt. Ăn được nửa bát, chợt nghe một vị lên tiếng:
- hình như là cá sống?
Nghe vậy, một vị trong đoàn òe ẹo luôn. Vị này bảo rằng, mình xấu bụng, không xơi được cá sống. Song vị ấy trót xơi mất nửa suất rồi, chả lẽ lúc đó lại ọe ra. Vị ta buông bát, đũa, ngắm nhìn mọi người ăn. Có lẽ do phản xạ tự nhiên, từ lúc nghe từ cá sống và mình trót xơi nửa bát mất rồi, mặt mụi vị này đâm ra hết đỏ tía, lại chuyển sang tím tái. Chắc là do phản xạ tinh thần ấy thôi, chứ mơi xơi, cá chưa kịp trồi đến ruột non, làm sao đã kịp tiêu hóa, gây ra phản ứng tự vệ, hay di ứng.
Lạ là vị này, sau đó bị dị ứng luôn, dị ứng bằng phản xạ buồn ị. Giời đất ơi, giữa một nhà hàng Nhật Bản lịch sự, đâu phải nơi WC, mà có chỗ ị cơ chứ. Cơ khổ không? Ăn xong, cả đoàn kéo nhau diễu hành đi siêu thị mua hàng tiếp. Còn cái vị bị dị ứng cá sống, chả còn đầu óc đâu để mua với sắm nữa, chỉ lo mỗi việc, tìm nhà đi ị. Đến đâu vị ấy cũng hỏi :
- Vi xi – vi xi ở đâu ?
Còn ở đâu nữa, ở cái chỗ ấy đấy! Chả lẽ, còn không biết nó ra từ chỗ nào cơ!
Phần 7 - Gặp người Việt nơi xứ người
Ở trong nước gặp người Việt là lẽ đương nhiên, cứ nhan nhản. Xa quê, nơi xứ người, gặp nhau mới quý, mới ấm áp tình đồng bào, đồng chí, ít ra người xa quê được nghe tiếng mẹ đẻ, đồng bào!
Trên máy bay sang Sydney, tôi ngồi gần một bà già khoảng ngoài bảy chục. Bà gốc vùng Bắc Ninh. Dân quê, nên hay chuyện. Không rõ vì sao, mà con bà, đứa ở Úc, đứa ở Mỹ và bà cứ đi lại như đi chợ qua các quốc gia này. Với vốn ngôn ngữ không ngoài tiếng Việt, đi được từng ấy nước, quả là bà già quá giỏi. Bà cứ vanh vách khoe, bay từ Pa – ri về Hà Nội, mất bao nhiêu tiếng đồng hồ; từ Sydney sang Hoa Thịnh Đốn, vé hết bao nhiêu đô la. Càng nghe kể, tôi càng phục. Phục nữa vì ở độ cao của máy ban trên 12 ngàn mét, tai tôi ù đi vì áp suất giảm, nghe tiếng được tiếng mất, còn bà già vẫn bình thản như không, vẫn thao thao kể chuyện.
Trong đoàn, có một vị quen biết đứa cháu đang du học ở Sydney. Ông của cháu dân gốc Bắc, đến đời bố cháu, được sinh ra ở Sài gòn, nay vợ chồng bán thịt tại quận 3. Dăm năm trước, ông nội bán nhà, chia cho bố cháu hơn tỷ bạc, thế là cho con gái đi du học Úc. Cháu thật nhanh nhạy, giờ lôi thêm thằng em sang du học ở Úc. Nhìn cháu gái, tôi thấy thương thương, vất vả quá. Song thôi, có bươn trải, vất vả, thế mới nên người, mới lớn lên được!
Cô cháu đưa chúng tôi tới một quán ăn Việt, vừa để mua sản phẩm chức năng cho chị em. Cháu khoe, ở đây có nhiều gia đình Việt kiều lắm, một chỗ khác nữa, cách đó vài chục cây, cũng rất đông gia đình Việt kiều định cư.
Mấy gia đình người Việt chúng tôi tiếp xúc, người giọng Bắc, kẻ giọng Nam, thấy chúng tôi, họ đều chào đón vui vẻ. Tôi thấy có cửa hàng người Việt, bày bán cả rau muống, nước mắm, miến dong… Bữa tối ở một quán ăn Việt, quán không rộng, có cả thực khách tây lần ta, ăn uống nhộn nhịp. Bàn bên cạnh, có độ chục khách Việt kiều, họ tham dự bữa chiêu đãi mừng sinh nhật.
Khi chúng tôi kéo nhau đi thăm bảo tàng biển Sydney (Sea Life Sydney Aquarium), vì giá vé vào quá mắc, 40 đô một suất, anh em bảo nhau, thôi chả vào thăm nom nữa. Anh bạn ở miền Trung buông câu:
- Giào ơi, chắc lại như kiểu bảo tàng biển Nha Trang, dăm con cá, đám ốc nước mặn và mấy bộ xương cá chết. Chả xem nữa. Ở nhà, tôi xem chán rồi!
Nói thì thế, cá tây nó khác cá của ta, điều chính là xót 40 đô Úc. Giả thử nó miễn phí, cho vào xem, lại không xúm vào ngay, lại khen đẹp, khen cá ở Úc nom lạ quá! Chê, nên đoàn chúng tôi không xem bảo tàng Hải dương học, mà kéo nhau ra ngắm biển và chụp ảnh thả cửa, không mất tiền. Lúc chụp ảnh, đoàn lại gặp một gia định Việt – bà mẹ và hai cháu nhỏ.
Vợ tôi có người bạn gái định cư ở Úc. Vì theo tiếng gọi tình yêu, bạn sang lấy chồng xứ Úc. Bạn sống ở một thí trấn nhỏ với dăm ba ngàn dân, trong ấy có đôi ba gia định người Việt. Dăm tháng, họ thường tụ tập. Bạn cũng gia nhập vào nhóm gia đình người Việt ấy. Một bữa nọ, trong dịp ăn uống, có bà người Việt hầm hè, xỉa xói bạn. Nguyên do vì bạn là dân Bắc – loại vi xi. Bạn bực lắm, nói với ông chủ nhà, lần sau nếu có bà ta, cháu sẽ không dự. Ông chủ khoảng ngoài bảy mươi:
- Ừ! Nếu lần nào có bà ấy, bác sẽ nhắc cháu.
Khốn khổ thế, chiến tranh qua gần 40 năm rồi, đã xa nước tìm đến xứ người, vẫn hận thù dai dẳng, mà lại thù hận người Việt ta. Chính trị một thời làm con người có cái nhìn méo mó, ở đâu, lúc nào cũng moi móc ra giai cấp, địch ta, Việt gian phản động. Thật buồn sao!
Những tưởng Úc là đất của giống người da trắng thực dân và dân gia đen nâu gốc bản địa, nhưng hóa ra, sang đây gặp đến 1/3 dân châu Á: da vàng mũi tẹt phía Đông Bắc Á; dân da nâu nâu sẫm, vùng Nam Á,.... Riêng anh An Nam mình, cũng nhiều vô thiên lủng. Nhìn thấy dân Việt, nếu muốn thử, cứ huýt sáo gió mấy bản nhạc Trịnh, mặt họ đần ra, biết ngay là dân Việt mình rồi.
Đoàn của chúng tôi mấy lần nhờ các cháu người Việt, nào Việt du học, nào Việt kiều định cư, Việt kiều di tản, chỉ đường, hay mua vé tàu xe giúp, có cháu còn dẫn đoàn xuống tận ga tàu điện, lúc chia tay đứng vẫy vẫy, tình cảm thật bịn rịn. Quả là tình đồng bào. Thì dù sao cũng cùng chung một bọc, có khác nhau về quan điểm, chính kiến, song vẫn là người Việt nam ta đấy thôi!
Phần 8 - Chợt nhớ cậu bé Rê mi
Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Đây tôi lại đi đến cả tuần ở Nam bán cầu, tận xứ Úc châu xa xôi, thì học được nhiều cái sàng khôn đấy. Công nhận ở Úc, cái gì cũng đẹp, tức là gi gỉ gì gi cái gì cũng đẹp, cũng xinh.
Có lẽ vì nhà tôi nhỏ hẹp, nhà tôi chật, chỉ 15 mét vuông, xây vút lên cao, nên sang đến Sydney, quan sát nhà cửa, biệt thự của họ, tôi cứ mê mẩn. Chỉ vì nể mọi người trong đoàn, nên tôi đành phải đi siêu thị, bát phố cùng. Nếu thả ra, cứ một mình tha thẩn, ngắm nhà, ngắm phố, những biệt thự đẹp đến mê hồn, dạo những con phố nhỏ tịnh lặng cây xanh, tĩnh lặng những căn nhà đẹp Sydney.
Kiến trúc ở đây sao đẹp đến thế, đẹp và hợp lý, cân đối và hài hòa, hợp lý đến từng chi tiết, đến màu sơn, hàng rào, thảm cỏ... Khách sạn nơi chúng tôi nghỉ, cách trung tâm Sydney khoảng chục cây số, nó tương đương như quận Long Biên, hay Cầu Giấy của Hà Nội ta. Quanh đấy là những căn biệt thự thấp tầng, thường là một, đến hai tầng, xinh xắn, mái ngói lợp xuôi chảy. Nhà đều bố trí cửa kính, không chấn song, không chằng khóa kỹ càng chống trộm như ở ta. Chỉ chi tiết nhỏ ấy thôi, đã chứng tỏ, sự thanh bình của nước Úc.
Có buổi tối, tôi tha thần dạo qua những con phố quanh nơi khách sạn mình nghỉ. Nhìn những ô kính sáng đèn, tôi tưởng tượng, một gia đình đầm ấm, họ đang xum vầy bên nhau. Họ nói với nhau những chuyện gì nhỉ? Có bàn về chính trị, về đấu tranh giai cấp, về quân ta đánh quân địch, hay về chống tham nhũng, tham ô? Có lẽ họ đang bàn với nhau chuyến pích ních cuối tuần, hoặc một chuyến đi mạo hiểm vào miền sa mạc mênh mông của châu Úc?
Một bữa đi chợ mua sắm đồ ăn, anh em mua bán, còn tôi nhoay nhoáy điện thoại, chụp tất cả bảng giá, nào táo tây: 5 đô Úc một cân; đậu cô ve 14 Úc đô một cân; thịt bò Úc từ 20 đến 25 đô. Sau hồi chụp hết các loại bảng giá, tôi ra vỉa hè dạo loanh quanh phố. Chợt nhìn thấy tờ quảng cáo, tò mò tôi ngó xem. Hóa ra là rao bán nhà. Một căn nhà, tính ra VN đồng, có 1,2 tỷ. Bề mặt 6 mét, một tầng, lợp ngói, trước nhà có mảnh vườn nho nhỏ. Ngôi nhà trông rõ xinh. Sao rẻ đến thế, rẻ hơn cả Hà Nội của ta? Sau đó được cô cháu du học sinh người Việt giải thích, đó là đầu giá ban đầu, chưa phải giá bán. À, hóa ra là vậy.
Trong bữa nấu ăn tối đầu tiên, khi nghỉ ở vùng Manly, đoàn chúng tôi ăn uông trong căn bếp ấm cúng. Trong bếp có mấy nhóm người, cả Âu lẫn Á. Các nhóm đều tôn trọng, quây quần, sinh hoạt theo nhóm: nhóm nói chuyện, nhóm nấu ăn, người đọc báo, kẻ chơi điện tử. Tôi chợt liên tưởng đến cảnh những bữa ăn tối của ông già Va xi li và cậu bé Rê mi trong truyện Không gia đình. Ông cháu họ lang thang trên con đường sinh nhai, khắp nẻo đường đâu đó. Tối tối, họ dừng chân ở một quán trọ ven đường. Trong ánh lửa bập bùng, với bữa ăn thanh đạm, họ đói rét, nhọc nhằn, nhưng cũng không ít phút giây, họ hạnh phúc!
Phần 9 - Người già ở Úc!
Nghe rằng, người già, không chỉ ở Úc, mà các nước văn minh, con cháu đều khuân đến, giao cho nhà dưỡng lão. Với con cái, thế là quá tiện, chả phải chăm nom, chăm sóc nữa, không phải cho ăn cho uống, cứ nộp tiền là xong việc, vài đôi tháng, hay cả năm, đến thăm bố mẹ một bữa. Thế là hoàn thành chữ hiếu. Như vậy, tình cảm bố con, mẹ con, có khi lại thắm thiết, chứ gần nhau, người già khó tính lắm, khó như mắm tôm, không khéo cãi vã suốt ngày!
Ở Úc, trên đường phố, tôi gặp nhiều ông già, bà cả đi lại. Chắc mấy vị này trốn nhà dưỡng lão, đi riễu phố. Họ cứ lật bật đi đứng, y như những con lật đật, ngả bên này, nghiêng bên kia, có người đi như kiểu chỉ trực ngã. Họ cũng leo trèo lên xe buyt, chui xuống nhà ga ngầm tàu điện, hay lang bang khắp phố. Có khi là một thân, có khi cặp đôi vợ chồng già. Tôi gặp một trường hợp có con cháu đi kèm, dân châu Á. Chắc con trai đi kèm bố. Dân châu Á có kiểu yêu thương bố mẹ, kính trọng người cao tuổi khác giống người Âu.
Người già ở Úc khá độc lập. Họ không muốn người khác nhường nhịn, ưu tiên cho mình; Họ không muốn mình là kẻ già cả. Một lần tôi đi sau một ông già cả nọ. Tôi đã già, ông này còn già gấp đôi tôi. Ông ta cứ vẹo vọ chống gậy bước. Lúc ấy chúng tôi đang đi trên băng tải. Tôi chỉ lo ông ta ngã vật ra, nên vừa đi, vừa luôn trong tư thế, ông ta ngã, là tôi xô vào đỡ. May quá, ông này không bị ngã, lại còn bước qua nổi điểm chuyển tiếp của băng truyền.
Kể già thì ở đâu cũng chán, kể cả sống như ông Bành tổ, bảy trăm năm. Không hiểu sống thế để làm gì, sống chỉ để xem cá đớp bóng chăng? Tôi nhìn hai ông già, râu tóc bác thếch, tại trung tâm chợ Sydney. Họ chụm đầu vào nhau nói chuyện. Sao họ không vào viện dưỡng lão nhỉ? Họ cứ chụm đầu vào nhau mà nói, nói lâu lắm, đến mức, tôi chán, chả thèm chụp ảnh họ nữa. Chỉ có con chó một ông hìa dắt theo, là nhiệt tình, cứ nhảy nhảy, liếm liếm tay chủ và ông ta, có lon bia, uống mãi không thấy hết!
Phần 10 - Rác ở Úc
Rác – không phải tư bản rác, hay sự bẩn thỉu, thối tha của chủ nghĩa tư bản, mà rác thật, rác thải sinh hoạt, rác chứa đựng vào từng thùng, từng thùng, bày khắp nơi khắp chốn.
Tôi sang sydney, thứ đập vào mắt tôi là các thùng rác. Nhà nào cũng có, mà có nhiều, có tới ba, bốn thùng, thùng to cỡ ¼ mét khối, màu xanh đỏ, xếp hàng, xếp đống trong vườn, trước nhà, trước sân, trên vỉa hè. Ngay trước khách sạn 3 sao nơi chúng tôi nghỉ, cũng thấy một dãy thùng rác.
Khi người ta quan tâm đến rác, thấy sự nguy hiểm của nó, tức là đời sống đã cao, xã hội văn minh rồi. Không như ở ta, rác được coi là thứ xấu xa, bẩn tưởi, nên thường giấu kín, hoặc tiện thể, thì nhà này ném sang nhà kia, đổ trộm sang nhà kia, hoặc từ trên gác, ù một cái, ném bừa xuống dưới. Cứ mặc kệ cho chúng vô tư bay lượn, trúng vào đầu ai thì tùy, kể cả trúng vào đầu khách. Có một ông khách lịch sự nọ vào thăm nhà người quen ở chung cư kia, bị túi rác rơi xuống, làm vỡ toác đầu. Điên tiết, ông ta ngó lên, truy tìm đứa mất dạy nào đấy.
Không thấy ai, ông ta tức quá, gào lên chửi, cái đứa vô văn hóa, vô lịch sự nào đó. Thế là từ rác sinh hoạt, sinh thêm ra rác vô văn hóa – văn hóa chửi.
Gái trưởng của tôi, cháu đang du học bên Nhật, kể rằng: Gom, phân loại và đổ rác ở bên đó, phức tạp lắm, phải đổ rác phân loại vào đúng thùng, không đổ bừa đỗ bãi; nếu sinh viên nào đổ nhầm, bị phát hiện, cứ việc dùng tay moi móc ra kỳ hết, phân loại lại. Hỏi con: Bên ấy họ có phân biệt chủng tộc không, phân biệt người Việt ta ấy? Gái bảo: Có. Rồi gái kể: Một cậu sinh viên Việt Nam lần đầu mang rác đi đổ, thấy mấy thùng rác, không biết đổ vào thùng nào, liền hỏi một cô gái đi qua, cô nay khinh khỉnh:
- Thế bên nước mày, không phân loại a?
Nói rồi, cô ta ngoắt mông, đi thẳng.
Đúng là Việt Nam ta, làm gì có phân loại rác: tốt, xấu, chung đụng nhau tuốt, từ rác thải sinh hoạt, đến rác thải văn hóa, kinh tế, xã hội, cứ đấu chung vào nhau. Thế nên mới có chuyện, mua một cái ụ tàu nổi - tây nó thải ra thành rác từ thuở giữa thế kỷ XX, mà ta vẫn khuân về, giá còn trả đến mấy chục triệu đô la cái ủ nổi rác. Với rác văn hóa, thì nhập về vô tội vạ. Thí dụ như, trước ta có văn hóa rác truyền thống: đái đường đái chợ, nay nhập thêm về thứ văn hóa hôn nhau, rồi sex, nhưng nâng tầm lên cao hơn.
Đấy, trai gái cứ thản nhiên “làm việc” ấy công khai, thanh thiên bạch nhật, giữa đường giữa chợ, giữa cả công viên nữa, cứ “làm” tự nhiên hơn cả chó. Hay trên sân khấu, một lũ gào thét, nửa điên nửa dại biểu diễn, còn đám khán giả tuổi tin ở dưới, cũng gào khóc dại điên, có đứa còn đưa hẳn lên face, dọa bố mẹ nó, nếu ngăn cản chúng yêu thần tượng, thì sẽ dùng dao, “phay” bố mẹ luôn. Có đứa còn liếm mặt ghế, cái chỗ thằng thần tượng ngoại vừa hạ đít xuống ngồi!
Phần 11 - Mát xa Tây
\
Tôi chả rõ mát xa nó gốc gác từ đâu, từ Âu hay của vùng châu Á ta? Nhưng đại ý, công đoạn mát xa đều từa tựa giống nhau: dùng tay xoa xoa, vuốt vuốt vào những vùng da trên cơ thể khách, hoặc dùng cả chân giẫm đạp lên người khách. Ngoài tay, người ta còn dùng cả bộ phận khác của cơ thể, để day day, vuốt vuốt, ưu tiên nhất là vào các vùng nhạy cảm của cơ thể khách. Xoa vuốt đến mức, khách nhảy lên sướng, là dừng, là hoàn thành công đoạn một ca mát xa.
Nhân viên mát xa có thể là nam, nữ, mát xa cho khách hàng nữ, hay khách hàng nam. Làm nghề này, phải toàn người trẻ, khỏe và xinh, trong đó tiêu chuẩn khỏe được ưu tiên số một. Vì vất vả thế, cứ xoa xoa vuốt vuốt, xoa vuốt đến mức, khách sướng lịm đi cơ mà.
Ở Sydney, thấy khách mát xa nằm tơ hơ cả ra, ông đi qua, bà đi lại, có thể nom thấy. Mọi cửa hàng mát xa đều treo biển: Mát xa gie! Mời tôn ông, quý bà vào ngay! Ngay gần nhà hát Con Sò, tôi cũng nom thấy một cửa hiệu mát xa. Thành phố này tôi nom thấy nhiều cửa hiệu mát xa quá, như mát Thái, mát Tàu,… Mát xa Việt, thì tôi chưa trông thấy?
Không hiểu mát xa các nước có khác nhau gì không? Chắc là giống nhau thôi, cũng chỉ đến vuốt vuốt, có khác chăng, nơi thì vuốt ngược, nơi vuốt xuôi, nơi dùng mỡ để bôi, nơi dùng dầu, dùng kem, đại ý cho nó trơn trơn, tăng phần nhạy cảm ấy.
Giá cả mát xa ở Sydney, gần như đồng hạng. Giá trung bình là 49 đô Úc trong 30 phút, còn mát xa thêm phút nào, giá 1 đô. Cam đoan rằng, thời lượng 30 phút, cũng bỏ bố rồi, nếu hơn nữa, có mà tẩu hỏa nhập ma, hoặc thành ra bã thuốc bắc, chỉ mát xa dăm bữa, sẽ thành bộ xương để nấu cao nhân cốt.
Tôi chắc chắn rằng, mát xa ở Sydney sẽ khác ở ta. Ở ta, vì thuần phong mỹ tục Đông phương, nên cấm tiệt mát xa kèm mại dâm. Cấm đến mức, ông chính quyền chả mấy khi hay biết, ở dãy cửa hàng mát xa trong khu vực mình quản lý, có kèm thêm mại dâm. Chỉ đến khi có chết người, hay đánh ghen, trấn lột, các ông ấy mới té ngửa ra. Ô, thật là hay chửa!
Phần 12 - Tự do?
Đến Sydney, tức là tôi mon men đến phần rìa của anh tư bản. Trung tâm của nó, ở mãi tận nước Anh tư bản già cỗi cơ. Y như rằng, mới chỉ đến phần rìa thôi, tôi đã nhận ra bản chất của nó. Khắp đường phố, những tấm phướn, thông báo mùa Sydney đại hạ giá!
Đúng rồi, cứ đầu tư, sản xuất đẫy vào, nay hàng hóa ế ẩm, phải bán tống, bán tháo, bán như cho. Chuyến này lỗ chỏng gọng lên, sập tiệp, thì bỏ bố nhà chúng mày, cứ chuẩn bị sụp đổ, sập tiệm đến nơi rồi!
Điều này thì tôi biết từ lẩu lầu lâu, từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Chả phải đến tận hôm nay, khi đến nơi tận nơi tổ chấy nhà anh tư bản, mới rõ. Hồi xưa ấy, tôi được giảng dạy, chủ nghĩa tư bản đang giãy chết, tức là giãy từ cách đây ba, bốn chục năm. Từ hồi ấy, chúng đã hết khủng khoảng thừa, nhảy sang suy thoái thiếu, cứ từng chặp, từng chặp, chồm lên ngụp xuống. Lúc ấy chúng tôi nghe, thấy sung sướng lắm! Cho chúng nó chết! Ai ai cũng chuẩn bị sẵn xẻng cuốc, đi chôn vùi lũ chúng.
Nghe phân tích, có tình trạng ấy, bởi chúng không ưu việt như phe ta, sản xuất không có kế hoạch hóa như phe ta, mà chạy theo cơ chế thị trường bát nháo. Thế thì làm sao không chết cơ chứ!
Còn với chúng ta, làm ăn theo kế hoạch, cái gì cũng kế hoạch, kế hoạch từ chiếc tăm tre kế hoạch đi. Thí dụ: kế hoạch cả nước mỗi năm có bao nhiêu đám giỗ, trên cơ sở đó, sẽ cần bao nhiêu chiếc tăm tre, dùng để xỉa răng; lại trên cơ sở số tăm tre, sẽ đốn hạ hết bao nhiêu cây tre, rồi với số cây tre bị đốn hạ, sẽ cần đến bao nhiêu ha đất để trồng tre. Vì có sẵn kế hoạch, nên chúng ta chỉ trồng đủ số cây tre để vót tăm, nên đất có thời gian nghỉ ngơi.
Ở ta, kế hoạch còn chi tiết, tỉ mỉ lắm, tới mức, kế hoạch cả số người chết, ngày chết, giờ chết. Trên số liệu dự kiến người chết, mấy ông thợ mộc sẽ chủ động đóng bao nhiêu cỗ quan tài, xẻ bao nhiêu mét khối gỗ; còn mấy ông thợ kèn, sẽ chủ động về ngày giờ nào phải thổi kèn, gõ trống đám ma, ngày nào được ngồi khểnh. Kế hoạch làm cho chúng ta sung sướng và chủ động thế!
Còn bọn tư bản, do vô lề lối kế hoạch, sản xuất theo kiểu thị trường mù quáng, nên trồng trọt bừa phứa ra, đến nỗi, đất cũng không được nghỉ, cũng bị bóc lột thậm tệ.
Nay sang nước tư bản Úc, tôi phải giấu tiệt đi, phải bí mật về tính kế hoạch hóa của chúng ta, không để chúng biết. Cứ để lũ ấy triền miên khủng hoảng, sản xuất hàng hóa thừa mứa ra, rồi chúng sẽ chết.
* * *
Tôi từng nghe, thời cải huấn gì đó ở ta, quãng năm 1952 - 1953, khi nghe kể về câu chuyện, bọn địa chủ hà hiếp nông dân, những người lính sụt sùi khóc, thương tủi cho số phận những người nông dân bị hà hiếp, căm thù lũ địa chủ. Một anh tá điền kia, ngày ngày phải mút chim thằng địa chủ. Thằng ấy vì chơi bời trác táng, bị gái nhà thổ đổ cho căn bệnh tim la, hủi lậu, nên chim đầy những mủ. Vì rát buốt, không chịu nổi, ngày ngày nó bắt anh tá điền kia phải mút! Nghe mà kinh tởm, mà căm thù!
Nay sang sào huyệt tư bản, tôi tranh thủ tìm hiểu tính bóc lột, sự hà hiếp người lao động của chúng đến mức độ nào. Vì vậy, tôi cố “moi móc” ra những cảnh đời, những số phận éo le, thảm thương của dân chúng. May quá, tôi đã tìm ra:
Trong con đường ngầm tại nhà ga tàu điện trung tâm Sydney, theo dòng người qua lại, tôi thoáng nghe réo rắt tiếng đàn hồ - một nhạc cụ nổi tiếng của dân tộc nọ. Khi qua đó, tôi vội bấm máy chụp kịp bức hình ông già người Á, ngồi kéo đàn. Trước mặt ông ta là cái mũ, hứng những đồng xu bố thí của người đời. Đi tiếp độ trăm bước, tôi lại gặp một cảnh đời khác - kẻ này là dân da trắng – ôm cây đàn ghi ta, đang chơi một bản nhạc buồn và cũng có cái mũ, đón nhận những đồng xu bố thí. Trong mấy ngày ở Sydney hoa lệ, tôi còn gặp đôi ba cảnh đời bần cùng khác.
Xã hội Úc văn minh, giàu có thế, vẫn có những cảnh đời như thế sao? Ồ, hóa ra ở bất cứ nơi đâu, dù dưới địa ngục, hay trên thiên đàng, vẫn có những cảnh đời trái khoáy. Họ vì nhiều lý do: chán đời, chán gia đình, hay phẫn uất, mà ngẩn ngơ sống. Phải chăng mục đích sống của họ, còn để bêu diếu chế độ, hay họ đứng ăn xin, chỉ là thú vui bản năng?
Nếu vậy thì chả vì một hiện tượng, một cảnh đời, để vội quy kết, nâng lên thành bản chất, thành đại diện cho một chế độ, một xã hội nào ấy. Thèm muốn của con người là vô biên. Đến như trên cõi thiên thai, thế giới của phi phàm, phu tục, vẫn còn có kẻ ham muốn nhục dục chị Hằng Nga, bị trời đày đọa xuống hạ giới, làm kiếp loài gia súc.
Người ta đâu chỉ có nhu cầu miếng ăn, miếng uống, mà còn nhiều thứ khác! Ví dụ như tự do, quyền sống, mưu cầu hạnh phúc. Tôi cứ lẩn mẩn suy nghĩ vậy. Khi xã hội, mà mọi người đều hết nhu cầu, hết bức bách, ham muốn, cũng là lúc xã hội ấy sắp bị tiêu vong chăng? Còn một xã hội tuyệt đối công bằng, hằng hà hạnh phúc, sung sướng, một thế giới vĩnh hằng, chắc chỉ có trong mây khói, trong những ước mơ hão huyền của nhân loại.
Nước Úc tôi qua, mới chỉ là chế độ trong giai đoạn trước cửa thiên đàng! Đâu đã là thế giới vĩnh hằng, vĩnh cửu, như trong ước mơ hão huyền mây khói!
* * *
Tại nhà hát Con Sò, Sydney, tôi cứ ám ảnh hình ảnh một người bản địa Úc, cởi trần, thân hình bôi xanh đỏ, nhảy như con khỉ, trước mặt đặt cái hộp để hóng hớt những đồng xu bố thí của dân tứ xứ. Chắc anh chàng này tự do, sung sướng lắm, tự do hưởng sự bố thí của thế giới văn minh?
Dân Việt ta gốc gác là Bách Việt. Nghe bảo ngày xửa ngày xưa ấy, ở phía Nam có tới trăm vùng dân Việt. Rồi dân Việt không đoàn kết, yếm thế, nên bị người phía Bắc thôn tính. Đến nay chỉ còn mỗi vùng dân Việt – gọi là Việt Nam ta bây giờ ấy.
Có người chê bai, mấy cuộc chiến vừa qua, nước ta tốn phí nhiều xương máu quá! Sao không bắt chước quốc gia bên cạnh, như anh Thái Lan chẳng hạn, cứ “đứng im”, chẳng tốn một mũi tên hòn đạn, mà hưởng thái bình? Cứ như kiểu cách ấy, thì sao Bách Việt nay sao còn nhõn mỗi một nước Việt?
Còn nếu ngại tổn hại xương máu, thì nước Việt chắc nay sẽ thành một quận huyện của phương Bắc rồi, làm gì còn Đại Việt của các thời: Lý – Trần – Lê - Nguyễn và cả nước Việt Nam ngày nay nữa? Hay ta lại ước giống dân tộc của anh cu bản địa xứ Căng gu ru, cởi trần, bôi xanh đỏ, đứng nhún nhảy điệu múa hòa bình, hưởng những đồng xu bố thí? Hoặc đứng trông quốc gia này, nọ, sẽ giúp đỡ, viện trợ bánh mì, bơ sữa và cả tự do. Bài học châu Úc rộng mênh mang, căng gu ru chạy đầy rừng và cả vạn, triệu người dân bản địa Úc, mũi bẹt, da đen nâu kịt, sau vài ba thế kỷ hưởng văn minh khai hóa của thực dân, nay gần biến mất. Chắc nay họ chui lủi vào sa mạc, để ôn lại lịch sử hào hùng tổ tiên, và tưởng nhớ đến những phát đạn thực dân khai ân, nã vào tổ tiên họ?
Phần 13 - Đi tây để học hỏi?
Chuyến đi Sydney, nếu tính mọi khoản, ông nhà nước – tức thuế của dân, vị chi cho cả đoàn chúng tôi khoảng dăm trăm triệu. Thế thì đoàn phải học hỏi, phải làm việc, phải viết cho xứng tầm với số tiền ấy!
Trong đoàn đi, tôi là kẻ già gần nhất, 55 tuổi. Kể đi Tây ở tuổi ấy, cũng hơi già. Nhưng thôi, đi học tập, về cũng còn thời gian cống hiến 5 năm nữa cho dân, cho nước, chả đến nỗi phí.
Nhớ lại thuở trước, nhưng chuyến đi Tây của cán bộ ta, thật lắm chuyện hài! Đi Tây là phần thưởng cho cán bộ có công, có nhiều cống hiến. Chuyến đi Tây sẽ đem về cho gia đình cán bộ ối thứ, cải thiện ối điều. Thí dụ: chí ít cán bộ cũng khuân lôi về được chiếc phích chứa nước nóng, cái bàn là, mèng ra là cái ấm đun điện; còn nhiều hơn, thì chiếc xe máy xe cần hen của Nhật.
Chưa kể cán bộ có thêm một đống kiến thức. Nếu đi nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa anh em, sẽ học được kiến thức về tính kế hoạch hóa trong sản xuất; hay tham quan những cánh đồng mênh mông trang trại, thẳng cánh đại bàng bay.
Nói là như vậy, thực ra, quan tâm về tính kế hoạch hóa, hay cánh đồng mênh mông kia, có đem lại lợi ích, hiệu quả gì cho xã hội, thì mọi người chả để ý, cứ mặc xác chúng. Chỉ biết rằng, thôi thì được chuyến đi tham quan không mất tiền, được nhìn, được ngắm, được khen cánh đồng đẹp, rồi tính ưu việt của kế hoạch; Nếu được sang anh tư bản, chí ít cũng được xem tính khủng hoảng thừa, thiếu của nó ra sao, về nước còn có cái mà lên án chứ.
Ông chú ruột tôi kể: Ngày ấy quãng cuối thập niên bảy mươi, ông có chuyến đi Liên Xô. Đoàn đi toàn hàm cấp cục, vụ, viện trưởng. Thế mà sang bên ấy, chả ông nào chịu giữ thể diện nước nhà. Nhiều ông lãnh đạo nhà ta, cứ ngỗn nghện đi khuân lùng hàng hóa. Có ông cục trưởng nọ, cổ quấn dăm bảy chiếc săm, lốp xe đạp, trên đầu đội chiếc thau nhôm Liên Xô to đùng, cứ thỗn thện đi giữa phố phường, lũ Tây nhìn thấy, vừa lạ, vừa tức cười. Chúng mày cười cái gì? Ông cục trưởng ấy, không những mặc xác lũ Tây cười, ông còn cười lại chúng nó nữa. Bởi vì nước ông chưa theo kế hoạch hóa chuẩn như nước chúng nó, nên hàng hóa thiếu, nên ông phải sang tận đây học tập.
Ông chú kể tiếp: Vì đi lùng suc hàng nhiều, lại xơi toàn mì ăn liền, nên ông nào cũng mệt nhoài, cứ ngồi nghe Tây giảng, là gật gù. Tây lại tưởng cán bộ ta đồng thuận, nhất trí cao, càng khoái, càng hăng say giảng dạy, còn cán bộ ta càng gật gật hăng hơn. Khi lùng hàng, tiêu đến đồng tiền, chỉ vàng cuối cùng và cũng chẳng còn lấy đâu ra hàng hóa để lùng sục nữa, có ông cán bộ cấp viện trưởng, những lúc rỗi rãi, xoay ra nghịch chiếc thang máy, vì bên ta hồi ấy chưa có thang máy. Ông này cứ chạy ra chui vào thang, bấm cho lên xuống liên tục và đứng tịt luôn ở trong đó. Chiếc tháng máy vì bận phục vụ mỗi mình ông viện trưởng, nên cửa đóng im thít, làm lũ Tây đứng đợi, phát cáu!
Nhạc phụ của tôi kể: Hồi sắp về hưu, suýt nữa thì cụ được xét duyệt một chuyến đi tây học hỏi kinh nghiệm, trước khi nhận quyết định hưu trí. Nhưng chuyến ấy, cụ bị đi trượt. Cụ cứ tiếc mãi, tiếc đến tận bây giờ, vẫn còn tiếc. Song cũng có điều an ủi cụ, bởi vì chuyến ấy, một ông lão kia, cũng già ngang tuổi nhạc phụ của tôi, được phân công đi thay. Không rõ vì già yếu, hay học tập kinh nghiệm nhiều - căng thẳng, cũng có thể do đi lùng sục hàng hóa tợn quá, nên bị xuất huyết não, người đâm ra bị liệt, đoàn công tác phải khuân ông này về nước.
Giờ ta vẫn hay tổ chức cho cán bộ đi Tây, tuổi tác có phần tre trẻ hơn, nhưng cơ cấu đoàn, đôi khi khá lạ. Có khi trong đoàn là bà chủ tịch nữ công, xen lẫn ông trưởng phòng thanh lý, kèm thêm cô kế toán trưởng, đi học kỹ thuật điện tử lái máy bay, rồi có ông chả làm nghề hò hát bao giờ, được xếp trong thành phần đoàn đi ca nhạc. Sang đến bên Tây, ông này cũng đứng lên hát. May vì hát tập thể cùng mọi người, ông ta chỉ mỗi việc đứng lên thôi, miệng mấp máy há há ra thôi, y như hát thật, chứ không cần có tiếng.
Thôi thì, với tôi chuyến đi Sydney này, cũng học hỏi được ối điều, ngoài ra lại đi trong mùa hàng hóa đại hạ giá, nên mua được ối hàng, toàn của rẻ lại tốt!
Phần 14 - Cái giường ma ám
Do ngủ chung phòng, chuyến đi của đoàn chúng tôi, tiết kiệm được ối tiến. Đặt phòng từ trong nước, khi sang đến Sydney, lúc nhận phòng, điểm ra thấy thiếu chỗ nằm. Sau hồi tranh luận, ông quản lý khách sạn đổi cho chúng tôi sang một phòng khác.
Tôi và một vị nữa – hai người ngủ chung. Cứ theo nhận xét của vị này, chúng tôi là một cặp đôi hoàn hảo. Vì cứ leo lên giường, là tôi lăn quay ra ngủ, không đạp, không giãy, không cả cựa quậy, im thin thít ngủ. Trong đoàn có một vị ngáy khá to. Đấy là nghe anh em kể lại, chứ tôi đặt lưng, ngủ rồi, còn nghe ngóng được ai ngáy to nữa. Trong nước, tôi toàn lên xe xuống ngựa, hạ cấp thì phi xe máy, trung cấp: gọi tắc xi, còn không, cứ xe ô tô cơ quan, biển số 80 B mà cưỡi. Sang đến bên này, toàn cuốc bộ, cứ mệt rũ, nằm xuống là ngủ. Anh em miêu tả, ông anh nọ ngáy to lắm, cứ như giọng ô pê ra ở nhà hát Con Sò Sydney. Ngáy đến mức, làm anh em tỉnh giấc, dậy uống nước trà và tán chuyện thế sự suông.
Quay lại chuyện giường ma ám. Cái giường này do cậu phục vụ phòng người da đen nâu, chắc gốc Nam Á, chỉ cho chúng tôi, nó núp dưới gầm một chiếc giường khác, nên chúng tôi lôi ra dùng. Hôm thứ nhất, thứ hai, chuyện ngủ nghê và mọi việc của đoàn đều suôn sẻ. Đến hôm thứ ba cũng vậy.
Nếu như không có bữa ăn tối ấy, vì thu dọn chỗ ngồi để ăn uống trên nền nhà, chúng tôi đấy cái giường ấy vào gầm cái gường khác. Lúc đó khoảng quá 19h30, anh em xúm vào đẩy. Đẩy thế quái nào, cái giường ma ám đâm trúng vào chân một vị nữ, đâm mạnh tới mức, vị này nhảy cẫng lên, tức tưởi khóc, khóc như trẻ em khóc. Anh em trong đoàn lặng đi vì thương. Đau, quá đi chứ! Giường bằng sắt, đâm vào chân người bằng thịt, lại trong thời tiết giá rét dưới 20 độ của Sydney, làm gì chả đau. May là cái chân của vị kia không bị gãy. Thật là ơn giời rồi!
Đêm cuối cùng, trước khi về nước, anh em thu xếp, gói gắm đồ đạc, tôi cũng vậy, sắp xếp hành lý. Gói ghém xong, tôi cẩn thận đẩy va li của mình vào tận sâu trong gậm giường, nghĩ bụng, chuyến đi may mắn quá! Đồ ăn nấu nướng xong, chỉ còn chờ mấy vị có cuộc làm việc đột xuất, nên anh em ngồi tán gẫu. Rồi các vị kia cũng về, lúc ấy khoảng quá 20 giờ, mọi người đã đói ngấu. Thức ăn được bưng ra, cái giường kia cũng được khẩn trương đẩy vào dưới gậm chiếc giường của tôi nằm. Hai vị nam trong đoàn xúm vào đẩy, đẩy mạnh tới mức, nó trèo tuột lên va li của tôi. Chỉ đến khi tôi kêu toáng lên:
- Ối giời ơi, dừng lại các ông ơi! Nó trèo lên va li của tôi mất rồi!
Ôi thôi, hai bánh xe va li của tôi gãy rời. Tôi lại kêu giời đất hỡi ! Ngày mai ra sân bay, tôi sẽ đun đẩy va li bằng cách nào đây? Chắc lẽ lễ mễ bưng bê, hay xách nó! Song giờ nghĩ lại, còn may chán, chỉ gãy bánh xe va li thôi, nếu như hôm trước, cái giường ấy xô vào, làm gãy đôi, gãy ba chân của vị nữ kia, thì đoàn chúng biết làm sao? Nghe đồn, ở bên Úc ấy, viện phí đắt lắm ! Chỉ ốm đau dạng hắt hơi sổ mũi, đã tốn tiền triệu; còn gãy chân người, chắc tốn đến cả bạc tỷ ấy!
Phần 15 –Đôi giày há mõm
Ký sự phần cuối này sẽ ký gì đây? Quên gần ráo chuyện ở Sydney rồi. Thôi, còn nhớ gì, thì viết nấy. Trước hết là đôi giày há mõm.
Từ thành phố Sơn La phi xuống Hà Nội, vợ bảo chuẩn bị hành trang cho chuyến đi Úc, nhất quyết tôi không nghe, cứ tự mình phục vụ lấy, soạn sửa lấy. Thế nên sang đến nước Tây, thiếu thốn đủ thứ, kể cả cái quần lót. Riêng đôi giày, thấy trên kệ xếp mấy đôi, tôi xỏ đại một đôi, lại trúng ngay đôi cũ rinh rích. Sang đến Sydney, đi được hai hôm, giày vẫn tốt, tức là nện xuống nền đường, kêu đôp đốp. Đến hôm thứ ba, chợt tôi nghe tiếng giày kêu là lạ, cứ bèn bẹt, bèn bẹt. Lạ nhỉ, ngó xuống, ô hay, nó há mõm ra kìa, cứ há toác.
Tao tưởng, chỉ mỗi tao là người mới háo hức nhòm ngó cảnh phố Tây, chứ mày là giống giày, cũng hếnh sao? Đã thế, nó còn làm cho chủ nhân của nó phát ngượng, đi đôi giày há mõm giữa phố Tây. Kể ra cũng ngượng thật, nhất là trước người Tây, riêng anh em trong đoàn, may không ai hay biết, vì ai cũng còn mải ngếnh cảnh phố xá. May quá, Đến buổi chiều, kể từ khi phát hiện ra đôi giày bị há mõm, anh em lại lượn đi lùng thực phẩm chức năng, trúng luôn vào khu vực có cửa hàng bán giày. Ông bán hàng dân gốc Đông Âu, rất niềm nở. Ông ta xăng xái định tháo giúp tôi đôi giày, để thứ xem cỡ có vừa không, tôi vội vàng từ chối ngay:
- Nâu, nâu, sơ!
Ướm, thử, trả tiền xong, tôi vội ra ngay vỉa hè trước cửa hàng, lại may nữa, ở đó có mấy thùng rác để sẵn. Tháo giày cũ, xỏ giày mới, tôi ung dung liệng luôn đôi giày há mõm vào thùng rác. Đang mùa Sydney hạ giá, nên tôi mua được đôi giày rẻ quá, giá chỉ có 50 đô, tương đương 1 triệu tiền Việt Nam ta, da đã mềm, cỡ giày còn vừa khít chân, đi lại không thấy kêu bèn bẹt nữa.
Ông bạn trong đoàn, lúc thấy tôi đang tháo giày, mới phát hiện ra đôi giày há mõm, sướng quá, vội vồ lấy ngay máy ảnh, bấm lia lịa mấy pô liền. Chụp xong bức hình tôi ném giày vào thùng rác, anh bạn bình phẩm luôn: Tối nay, bố con thằng tư bản được bữa sướng phát điên, vì vớ được đôi giày há mõm của một ông xã hội chủ nghĩa! Cứ gọi là bố con nhà nó sướng mất ngủ!
Tôi bị mất ví.
Khi đi Úc tôi lận được của vợ đôi ba vé. Nghĩ, chắc bên Tây cũng lắm quân kẻ trộm như bên ta, tức là dân sáu ngón, nên tôi rất cẩn thận, đút ví vào rõ sâu trong túi quần trong, cài thêm hai, ba lượt kim băng nữa. Nghĩ bụng, bố thằng trộm cũng đành chịu với ông. Thế nên lúc đi ngắm cảnh phố Sydney, mấy anh, chị Tây dù có cọ cọ, hay chủ động sờ sờ vào mông, tôi cứ mặc kệ, cứ cho chúng sờ nắn. Nghĩ bụng: Ví của ông để tận túi quần trong nhé! Đừng có mơ!
Vì chủ quan, hành lý mang theo có cái mấy chiếc sơ mi, đến đây thời tiết hơi bị mát, thế là lúc bát phố, tôi đành lận ví ra, mua chiếc áo gió. Mua bán xong, vì lịch sự, giữa phố phường, tôi không tiện lột áo ra, để nhét ví vào túi chiếc quần trong, đành nhét đại vào túi quần ngoài. Vốn cẩn thận, sau đó vừa đi, tôi vừa một tay giữ mông.
Sáng hôm sau ở khách sạn dậy, lúc mọi người giục nhau, nhanh nhanh đi bát phố, sờ đến ví, tôi chẳng thấy nó đâu nữa. Mặt tôi đực ra, một ông trong đoàn thấy vậy, quan tâm hỏi:
- Ông buồn ị à ? Sao không đi nhanh lên!
- Không phải buồn ị!
- Sao mặt ông cứ ị ra thế!
Nhục nhất là cảnh không tiền. Ở trong nước, không tiền, đi dạo phố, toàn ăn bánh ngó, phở ngó, sang đến nước Tây, không tiền, còn nhục nhã gấp đôi, lại còn thêm khoản lo sợ nữa. Suốt cả ngày hôm ấy đi diễu phố cùng anh em, tôi cứ lẽo đẽo theo họ, chỉ sợ, sểnh ra mà lạc đoàn, thì thành kẻ đứng đường đứng chợ bên đất Úc. Tiếng Tây lõm bõm được mấy từ, toàn good với very good, rồi bao nhiêu măn ni,....giờ mà lạc anh em, không xu dính túi, dẫu có vẫy được tắc xi, cũng chịu cả tên tên phố, tên khách sạn.
Và suốt cả ngày hôm ấy, tôi cứ lẩn mẩn vừa đi vừa nghĩ, điểm lại tuyến hành trình của ngày hôm trước: Quái, hôm qua mình bị tây nó móc ví lúc nào? Hay lúc mình mải hếnh phố, dời tay khỏi mông, trộm nó tranh thủ khoắng mất? Hay bị rơi ví? Nếu mà ví rơi, chắc ở đất nước văn minh này, sẽ có thông báo. Thế là sau đó, vừa đi, tôi vừa hi vọng, dòm ngó tìm thông báo ví rơi. Biết đâu đấy, tây nó sẽ thông báo như sau: Có một ngài người Việt Nam, tên là Nguyễn Trọng Huân, đánh rơi ví. Song nhìn mãi, tôi chả thấy cái thông báo rơi ví nào.
Tối về đến khách sạn, mở va li ra, ô hay, kia nó nằm lù lù ở góc va li. Sướng quá, sướng đúng bằng nhặt được lại ví!
Tây gầy
Ở Úc, người béo sẵn lắm. Đàn ông, đàn bà cứ tạ rưỡi, tạ sáu là chuyện thường; có bà Tây, chỉ riêng một bên bắp đùi thôi, ước nặng đến gấp rưỡi toàn thân thể tôi. Thế mà khi ra nhà ga quốc tế Sdney về nước, tôi được an ủi, gặp luôn bà cụ Tây, như anh em mô tả và mang luôn tôi ra so sánh.
Bà cụ cỡ tám chục tuổi, gày không thể gày hơn; tóc bạc, người liêu xiêu, anh em cứ nhắc đi nhắc lại, bà già này gày gấp rưỡi ông Huân nhà mình. Anh em nhớ bà ta, vì một vị trong đoàn, do mãi hếnh sân bay Úc, suýt nữa xô cả chiếc xe chờ đấy hành lý của đoàn vào chân bà cụ. May mà đâm trượt, chứ đâm vào chính diện, chắc chắn chân bà cụ gãy rời ra.
Giả tỷ như bà cụ bị gãy chân, đoàn chúng tôi sẽ xử lý ra sao? Nghe đồn, gãy chân, tay ở nước Úc, mức đền bù tốn kém lắm, chí ít cũng đôi ba tỷ. Tưng ấy tiền, đoàn chúng tôi lấy ở đâu ra. Tôi thề rằng, lộn tất cả anh em của đoàn, gom lại, không nổi ngàn đô. Vậy thì đành phải gán vị đâm xe cho bà cụ rồi, vị này cứ ở lại nước Úc thêm dăm tháng, để hầu hạ, cơm cháo, tắm táp, kể cả đưa bà cụ đi ị, đái nữa, trong thời kì chữa trị cái chân gãy. Nếu thế thì phiền toái lắm!
Bà cụ không gãy chân, đúng là quá may. Có lẽ cũng bởi tối hôm qua, chiếc va li của tôi đã gánh cho bớt nạn, nó gãy rời ra những hai chiếc bánh xe cơ mà. Hóa ra, mọi việc, đều có số, có điềm cả đấy./.