-
Ba mươi năm có dư, tôi quay lại ngôi làng ấy. Mấy lần dừng xe, lại thấy mình nhầm. Có phải là đây chăng?Thôi đúng rồi, cây đa cổ thụ giáp ngay quốc lộ. Làng quê đổi thay nhiều quá, nhà xây san sát. Đường vào chùa lối nào nhỉ? Tôi đang phân vân...
- Chào cụ ạ! Cụ cho con hỏi….
Tôi hỏi thăm một bà già đi bộ ven đường.
- Chùa làng á. Bác cứ theo đường này, tới… cái lăng cụ Ký Lục Lộ ấy, nhìn là thấy chùa ngay!
Ký Lục Lộ nghe sao quen quen. Ngay trước làng này có lăng mộ nào đâu? Được một quãng xe máy chạy, thì đập vào mắt tôi ngôi mộ hoành tráng, cao sừng sững, đá đen, kiến trúc kiểu Âu. À, hóa ra đây là ngôi lăng mộ - một cái mộ mới - lăng cụ Ký Lục Lộ. Đến lúc này tôi mới nhớ ra ông già ấy, con người tôi từng biết, từng được hầu chuyện cụ.
Kia rồi, chùa làng.Chùa nay đổi sắc ra rực rỡ.Tường cao, quét vôi ve vàng rộm.Chùa làng vắng khách, nên thí chủ là tôi được sư trụ trì niềm nở đón tiếp. Nhà sư còn khá trẻ, tầm ngoài 30, dáng nho nhã, trí thức, nhất là cặp mắt sáng sau tròng kính cận. Sau khi dâng lễ, thỉnh chuông, lễ Phật, tôi được nhà sư đưa đi vãn cảnh chùa.
Cảnh cũ, mới vừa quen vừa lạ.Nơi tôi chú tâm và chủ động xuống thăm là ngôi nhà tổ.Ngỡ ngàng nhìn bức tượng sư tổ, tượng còn mà bóng dáng xưa, đâu mất mất rồi; hồn cốt đâu, nay chỉ còn pho tượng nhũ thếp vàng chóe. Cảm giác buồn buồn trong tôi nhuốm hoài niệm xưa. Nhà chùa còn dẫn tôi ra vườn sau thăm ngôi bảo tháp mới xây.Tháp to, cao vời vợi.Hóa ra sư cụ mà tôi từng biết, giờ được an nghỉ nơi đây.
Ngôi làng này có kỷ niệm với tôi thuở sinh viên.Đó là quãng gần giữa thập niên tám mươi của thế ký trước, chúng tôi đi thực tập bộ môn dược - một cái làng vùng Phùng - Nhổn, địa phận tỉnh Hà Sơn Bình cũ.Nhóm chúng tôi trú ngụ ở chùa, còn những nhóm khác tản mát khắp các xóm.
Thuở ấy chùa làng cổ kính, cổ kính đến tàn tạ, rêu phong, bởi đang thời kỳ toàn dân cùng nhau bài trừ mê tín. Tượng cổ thếp vàng bong tróc. Ban thờ khói hương lạnh ngắt, chỉ những bụi bặm thời gian và mạng nhện giăng chăng khắp các ban thờ. Chúng tôi nghỉ ở nhà Tổ - nhóm nam sinh, nữ sinh không được ngủ ở đây –gây uế tạp cửa Phật.
Nhà tổ có bức tượng sư tổ.Đến tận bây giờ tôi không tìm đâu được bức tượng nào sống động đến thế. Tượng, tai phật chảy dài. Mặt phúc hậu nhà Phật. Những lúc rỗi, ấy là trước, sau buổi đến xưởng thuốc thực tập, hay chập choạng tối, dưới ánh sáng đèn dầu, tôi hay ngắm nhìn tượng ngài,pho tượng sư tổ như ngài phật sống, thấp thoáng ẩn hiện giữa đời thực và cõi hư vô.
Càng nhìn, càng ngắm, tôi càng bái phục nghệ nhân xưa, tạo ra kiệt tác thần thái từ bi, hỷ xả đến nhường vậy! Có lẽ ấy cũng là dịp Phật ngấm vào tôi, vào tâm can, thứ từ bi, hỉ xả. Đến độ tận cho mãi bây giờ, có dịp nào đó đi vãn chùa, lễ Phật, hình ảnh của ngài vẫn ẩn hiện trong kí ức tôi.
Ngay sát dưới pho tượng sư tổ có cỗ quan tài và nó liền kề ngay chỗ chúng tôi ngủ. Mới đầu chúng tôi cũng kinh, nằm bên cỗ quan tài. Song rồi chúng tôi quen dẫn, chả thấy sợ hãi nữa.Qua câu chuyện của cụ sư, chúng tôi hiểu thêm về cỗ quan tài đó.
Cứ như cụ sư kể, thì nó được tậu lâu lắm rồi, quãng trước năm 1945 cơ, một cỗ quan tài gỗ vàng tâm nục nạc, có mơ cũng không thấy. Cụ sư bảo, cơ khổ về cỗ ván ấy, nhất là thời kỳ Chín năm kháng chiến chống tây – vào những dịp tây càn.Tây càn – tức là giặc tổ chức càn quét, tiễu trừ du kích và khủng bố các làng tư do. Cụ sư kể:
- Bảo chạy tây càn, thì mang của nả, chứ ai khênh vác quan tài chạy đâu. Lúc đầu tôi cũng định khênh nó chạy càn đấy, cỗ quan tài quý thế cơ mà. Nhưng sau rồi chả nhờ cậy được ai. Lại nghĩ, có thứ giặc nào cướp bóc quan tài, cướp để về tảng mả cha chúng a! Thế là tôi chả vác, hay khênh nó đi đâu nữa.
Tôi cứ nhớ tiếng cười hềnh hệch và câu chuyện cụ sư kể:
- Bọn tây đểu lắm nhá. Có trận càn, nó bắt được một cặp, gồm ông sư và bà vãi kia. Thế là chúng bắt cặp ấy làm cái việc ấy cho chúng xem.Ai đời sư đực với vãi cái phải làm việc ấy cơ chứ, mà chúng nhua nhua đứng coi, còn nói cười hơ hớ.Thế bọn chúng có đểu giả không.
Và cụ sư cười.Nhìn cái miệng móm mén và tiếng cười he hé của nhà chùa, lúc ấy tôi thoáng nghĩ, không biết có phải chính nhà sư này bị tây nó bắt phải hành sự, phải thị phạm việc ấy cho chúng xem không? Nếu đúng thế, thì bọn tây đểu giả thât!
*********
Năm ấy cụ sư trụ trì chùa làng già lắm rồi, ngoài tám chục. Không rõ chức tước là sư bác, sư ông, hay sư cụ, còn dân làng thì gọi: cụ sư. Cụ phương phi, cao to, to sừng sững như ông hộ pháp đứng trước gian chính điện. Cụ già đến mức, mồm miệng móm mém, còn lại dăm ba chiếc răng, chỉ khi nói, khi hát, khi cười, mới thấy nó chìa ra. Mà đúng là cụ sư từng hát nhé.Chuyện hát hò của nhà sư cũng thật vô tình, một đêm trăng tôi từng nghe được.
Lớp sinh viên thực tập chúng tôi hơn ba chục đứa, nấu ăn tại chùa. Dụng cụ nấu bếp là ba cái nồi, hai quân dụng Liên Xô to đùng, một cái dùng nấu cơm, cái kia nấu canh, còn cái nồi nhỏ, thì bữa dùng rang thịt, bữa kho cá, hay om đậu cà chua mặn.
Từ hôm chúng tôi về thực tập, nấu ăn ở chùa, nghiễm nhiên sự cụ ăn cùng lũ sinh viên. Chúng tôi chia một suất riêng cho cụ.Cụ sư cũng không kiêng đồ mặn. Thịt, cá, tôm,… cụ xơi tất. Mà thực ra bữa ăn của chúng tôi mấy khi có đồ mặn đâu, đa phần là canh rau toàn quốc và đậu cà chua tra muối, nên rất ư chay tịnh. Cứ trước lúc chia cơm, chúng tôi chia cơm ngay sân chùa, sư cụ đã trực sẵn.
Anh em thì chia mâm sáu người ăn, riêng cụ sư chia cho một mình một suất.Bữa nào cũng vậy, cụ trực sớm nhất, chỉ sau mấy vị sinh viên nấu ăn. Sư cụ sau khi nhận phần ăn, lục tục mang đồ ăn về chái nhà – nơi vốn cụ đương trú ngụ - cụ xơi cơm.
Cụ sư xem ra cũng đói.Hồi ấy đang thời buổi kinh tế đình trệ, hợp tác xã nông nghiệp cấp cao toàn xã rệu rã, sắp tan rồi, nên xóm làng tiêu điều nghèo.Trong khung cảnh ấy, ngày sóc vọng, lễ chùa, quanh đi quẩn lại có mấy vãi già xơ xác đói. Đến lễ Phật mà họ áo nâu sòng, quần thâm vá chằng đụp; nhìn người chỉ thấy răng và da.Nghèo đói thế lấy đâu ra lễ hậu: chỉ vài ba quả chay, dăm ba quả khế, mấy quả hồng xiêm xanh. Đồ lễ vậy sư mà ăn – dù là rất chay tịnh đấy, không đau dạ dày, cũng sinh chứng táo bón.
Quản lý bếp kiêm nấu ăn viên là Huệ, lớp phó đời sống. Huệ người Hà Sơn Bình, vùng giáp làng pháo Bình Đà. Cô bạn dáng người to cao, trắng, trắng lôm lốp - ấy là từ sư cụ hay dùng cho cô bạn:
- Cô này trắng, trắng quá, cứ lôm lốp ấy!
Vừa nói, cụ sư còn nhanh tay sờ vào cánh tay trần trắng lôm lốp của Huệ một cái.
- Cái cụ sư này – Huệ bẹn nẽn, vừa ngượng vừa thích, vì lời khen trắng lốp của ông sư.
- Trắng, trắng… lại còn to nữa chứ!
Huệ càng ngượng tợn! Lúc chia cơm, cụ sư một tay cái cà mèn, tay kia cái bát ô tô– cà mèn dùng đựng cơm và đựng đồ mặn, còn bát ô tô đựng canh. Bao giờ cụ cũng là người được chia suất cơm đầu tiên. Cụ chìa cái cà mèn ra, Huệ đón lấy, xúc cơm:
- Thêm cho tôi muôi nữa đi – sư cụ nài nỉ, khi Huệ đã múc cà mèn cơm đầy tú hụ.
- Hai muôi rồi đấy cụ ơi – Huệ giải thích cho nhà chùa.
- Thêm cho tôi muôi nữa đi! Muôi vơi cũng được!
- Sao cụ già rồi, mà ăn lắm thế!
- Lạy Phật! Thêm cho muôi nữa đi! Mà…
- Thì muôi nữa này!
Vừa nói Huệ vừa nén thêm muôi cơm nữa cho cụ sư. Sư ông cười móm mém, không quên câu nịnh vuốt:
- Cô này, rồi Phật ngài sẽ phù hộ. Nào, thịt, thịt cá cá đâu! Quên, quên tôi rồi a?
- Thì cũng từ từ chứ cụ. Xúc cơm, lại còn gắp thịt, họa cháu có ba đầu sáu tay…
- Thì, thì cứ nói thế. Thịt thịt cá cá…! Hà ha….
Huệ gắp phần thịt cho cụ sư.
- Có thế này thôi à – sư cụ cằn nhằn - cho thêm một miếng nữa đi!
- Chúng cháu, mỗi người có một miếng! Cụ những hai, ba miếng rồi, vẫn chê ít ư? Già mà ăn lắm thế, mặn đấy!
- Thôi nữa mà! Cho thêm miếng nữa nào. Các cô cậu trai trẻ, còn được ăn nhiều, ăn lắm, nhiều thịt cá đấy! Cho tôi thêm miếng thịt nữa nào! Đời cha ăn mặn, đời con khát nước mà.
Những tiếng kèo nhèo, rồi tiếng cười đùa trêu chọc của đám sinh viên, vì thêm thịt cá, vì Phật sẽ độ trì cho cô Huệ sớm lấy được chồng và bao thứ khác… tiếng cười nói cứ rộn rã trong sân chùa, giữa cảnh chùa hoàng hôn bảng lảng.
*********
Một nhóm khác của lớp tôi trọ ở gia đình kia trong làng. Chủ nhà khá đặc biệt, đặc biệt đến cả cái tên nữa - cụ Ký Lục Lộ. Chủ nhà sống độc thân - một khẩu, trong một tòa dinh thự cổ. Cụ cũng xấp xỉ tuổi như cụ sư ở chùa. Một ông già tráng kiện - nhất là cái giọng sang sảng.
Tuy khỏe vậy, nhưng không hiểu sao, ông cụ chả bao giờ rời tay khỏi cái ba toong, tưởng như không có nó, thì ông ta ngã lăn cu chiêng, không đi lại nổi. Điều đặc biệt nữa của gia chủ là ông cụ ta có một cơ ngơi bề thế.
Giữa một chốn miền quê heo hút, toàn nhà tranh vách đất, nở ra khu dinh thự tây tòa ngang dãy dọc, nên đá hoa sáng bóng. Chỉ riêng cái cổng đã to khác các nhà người. Trên nóc ngự mấy chữ nho đại tự và dãy con số 193… tức chứng thực tòa nhà được xây cất từ trước giữa thế kỷ trước. Riêng cái cổng to vật này, mặc dù trước đó tôi chưa tới, đã nghe mô tả và hình dung kỹ càng về nó, như lời sư cụ chùa làng kể:
“Cái thằng già ấy dê lắm - ấy là lời cụ sư miêu tả về ông già này. Có con mẹ mua tóc rối giấy vụn dạo qua, lão ta ở trong sân tung lời gạ gẫm ra. Nhà nó lấy đấu ra tóc rối mà bán.Đầu thì nhắn thín, hói từ trán chạy xuống tận gáy, như quả dưa bở, thế mà gạ bán tóc rối, thật điêu không. Con mẹ kia chả rõ có biết hay không, cứ mò mẫm vào. Cái cổng tây to tổ bố ấy đóng sập ngay lại, rồi cài thêm then nữa, thì đến tổ bố con mẹ mua tóc rối kia cũng chả trèo ra nổi. Không rõ lão già dụ dỗ những gì, thế là lão chén, lão xơi, lão thịt tươi được con mẹ kia nhá! Sau đấy, tuần nào, tháng nào con mẹ kia cũng đều tắm tắp,mò đến đó mua, bán tóc rối, giấy vụn. Thằng già ấy lắm tiền, nhiều của lắm.Tiền nó tích cóp từ ngày xửa ngày xưa mà. Nay con cháu ở Thủ đô còn tuồn về nữa, nó ăn sao hết của. No thân ấm cật, đâm dửng mỡ đấy.Đúng là thằng dê già. Dơ… rõ là dơ.”
“Thằng dê già” ấy - như cụ sư nói, hôm tôi tới thăm lần đầu, đang ngồi trên sập gụ, lúi húi cụ chia bài tổ tôm.Quái lạ, chơi tổ tôm một mình?Tôi thoáng thắc măc.Đúng như cụ sư miêu tả, ông già hói, trọc đến tận gáy, đầu giống như quả dưa bở, cằm lưa thưa cụm râu bạc.
- Cháu chào cụ ạ!
- Không dám.
Ông già chả thèm ngẩng lên nhìn khách là ai. Anh chàng Thúy sinh viên cùng lớp trọ ở đấy, nháy mắt cho tôi, nhân có khách đến thăm nom chủ nhà, pha ấm trà hầu giúp cụ chủ. Tôi biết tỏng, cậu chàng chả hầu hạ gì ai đâu, cái chính là có cơ hội pha gỡ ấm trà Thái của ông già lắm của nhiều tiền chốn quê này.
- Rước cụ ra xơi nước ạ – lời mời cầu kỳ, bắc bậc của anh chàng Thúy, nhưng trước đó còn kịp nháy nháy mắt và cười tủm với chúng tôi.
- Không dám – cậu đáp rõ to của ông cụ. Các anh cứ xơi nước tự nhiên cho!
Dù “không dám” – khước từ rồi đấy, cụ Ký vẫn lệt bết đôi dép và không quên chống theo cai ba toong, khật khưỡng bước ra trường kỷ, xơi trà với lũ hậu sinh chúng tôi. Anh chàng Thúy khúm núm dâng chén trà lên tận mặt cho ông cụ. Cầm chén trà, cụ ngó vào tôi, hất hất hàm:
- Élégant… cậu có biết là gì không… Tiếng Pháp tức là lịch lãm đấy.Phải lịch lãm như người Pháp.
Lũ chúng tôi tủm tỉm, nhìn nhau và đồng thanh:
- Dạ … Đúng ạ! Phải lịch lãm như người Pháp ấy.
- Các cậu là người có học.
- Dạ …. Có học!
- Thế các cậu học tiếng nước nào nào?
- Dạ. Chúng cháu học tiếng nước Nga ạ!
- Nga á. Cái anh nông dân I - Van á? Quý tộc Nga thuở trước, còn phải kéo nhau sang nước Pháp học tập đấy. Anh nông dân Nga, văn chương chỉ tạm được cái ông “Chiến tranh và hòa bình”.
- Dạ! Đúng ạ! Tạm được cái anh “Chiến tranh và hòa bình” thôi ạ!
- Nông dân ở đâu mà chả thế. Nga, rồi đến anh An Nam mít ta đây, nông dân nông cạn lắm! Các anh xem, tù chè, sập gụ, đồng hồ tây treo trên tường kia kìa và cả tòa dinh thự này nữa, hồi cải cách, cướp…. cướp sạch, cướp tuốt. Cướp để chia quả thực cho nhau mà.Cách mạng triệt để đến thế là cùng.Tưởng dưới nền nhà của tôi chôn giấu vàng, các ông bà nông dân đua nhau đào lên, cạy đá hoa lên.Thấy gì?Có thấy cứt ông đây này.Ông là dân có học, học trường tây hẳn hoi - Cao Đẳng Công Chánh.Là kỹ sư, cử nhân, ông khôn hơn chán vạn đứa. Ông tậu nhà, tậu xe ở Hà Nội, ông chôn vàng giấu của ở Hà Nội chứ, dại gì ông khuân về quê giấu. Đây là đất hương hỏa, ông chỉ xây nhà thờ và có chốn quê đi về thôi.Thế nên chả có đứa nào kiếm chác gì được của ông. Đã ăn phần quả thực khối ra đấy, mà có đứa nào giữ nổi đâu, đứa nào mọc mũi sủi tăm đâu. Cuối cùng ông lại dùng tiền, dùng vàng, thu lại ráo, thu cả cái cái dinh thự này. Giờ nhà ông, ông ở. Ông còn mấy tòa, mấy dinh nữa trên Thủ đô, con cháu ông, mỗi đứa ngự một cái nhá.
Thôi bỏ bố chúng tôi rồi, đánh dậm được chén nước trà Thái, lại phải nghe trường ca đấu tố ngược từ cái thuở hồng hoang - cải cách ruộng đất năm xửa, năm xưa.Mà ngày đó, chúng tôi đã được đẻ ra đâu, làm sao đấu tố được ông già lọm khọm này. May quá, ông già chuyển chủ đề:
- Thế cậu trọ ở đâu? – ông già trỏ tay vào mặt tôi hỏi:
- Dạ! Thưa cụ, cháu trọ ở chùa làng ạ!
- Chùa làng á? Cậu ngủ chung với lão sư hổ mang ấy à? Cái giống nửa đời nửa đạo, tu không trót kiếp. Tu! Tu gì?Có mà tu hú. Sống chả trót đời, lấy vợ, rồi vợ bỏ, vì suốt ngày bê tha ở chốn nhà trò với lũ cô đầu cô đít, bị con đào rượu nó đổ tim la, hủi lậu cho,… tịt đẻ nhá. Thất cơ nỡ vận, phải bò về chùa làng tá túc. Loại ấy, vớ phải tay ông ấy à, ông cứ tống khứ, ông cứ đuổi thẳng tay.
Ông già vớ được chúng tôi, tưởng như cụ sư trước mặt, tức y như lúc trước tức với nông dân chia quả thực của nhà ông.Nghe chuyện, tôi phân vân, chẳng rõ những điều ông già này nói về cụ sư chùa làng, thực hay hư? Nhưng chuyện cụ sư hát ca trù, thì đích thị tai tôi được nghe rồi.
Ấy là đêm trăng quá rằm ấy. Ánh trăng vằng vặc sáng. Thôn quê, trăng càng như vằng vặc hơn. Lúc đó đã khuya, hình như lũ sinh ngủ cả, còn mỗi mình tôi thao thức. Ngó ra sân chùa, ánh trăng phơi rời rợi, tôi còn thoáng như nghe, khàn khàn tiếng ai đó hát. Đúng, nhịp điệu ca trù! Thi thoảng còn cả tiếng tom, tiếng chát.
Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi
Tom – chát.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu!
Quái lạ, sao ở chốn thiền tự, ai lại hát ca trù? Lần theo âm thanh lạ tai kia, tôi bước về phía chái nhà, nơi nhà sư già đang nghỉ. Cánh cửa nửa khép nửa hở. Trong ánh đèn dầu leo lét, trên phản, cụ sư đang ngồi, chùm tấm chăn chiên quá vai, trước mặt là cái trống nhỏ. À, hóa ra cụ sư đang hát, đang gõ trống chầu cô đầu đấy.
Chắc một thời từng oanh oanh liệt liệt, ra vào chốn cầm ca, cụ mới hiểu, mới tường tận chứ. Khi tuổi xế bóng rồi, chợt những lúc hoài niệm chuyện xưa, hoài niệm về những khúc hát ả đào mượt mà, yểu điệu, tha thướt!
********************
Một chiều muộn, cũng bảng lảng như mọi chiều khác, sân chùa trộn rộn cảnh chia cơm, cảnh đùa vui trêu chọc nhau của lũ sinh viên. Chia đến mâm cuối, chợt Huệ ngó lên, thắc mắc:
-Ơ hay, sao giờ này cụ sư chưa ra nhận cơm nhỉ?
Tiếng ai đó:
-Hình như trưa nay cụ sư cũng không ra!
Bỏ cái muôi xuống, Huệ tất tả bước về phía chái nhà nơi cụ sư trú ngụ. Thoáng cái đã thấy cô bạn hớt hải chạy ra, mặt mày biến sắc:
-Chúng mày ơi, hình như… hình như ông sư…
Lũ sinh viên chúng tôi vội vàng bỏ bát đũa, ùa về phía chái nhà.Trong gian nhà chập choạng tối, trên tấm phản mộc, thân xác nhà sư nằm thẳng giẵng, người thì lạnh tanh lạnh ngắt.Cạnh xác cụ sư già còn cái trống nằm trỏng trơ.Cụ sư đã về cõi Phật từ lúc nào không ai hay biết.Ngay tối ấy, cụ Ký Lục Lộ cũng về chầu trời.
****************
Đứng trước ngôi bảo tháp sau chùa, tôi phân vân nghĩ: Lúc trần thế hai con người kia nào có ưa gì nhau. Không hiểu sao, họ lại khéo hẹn cùng giờ, cùng khắc về thế giới bên kia? Giờ trong cõi hư vô ấy, chắc họ chẳng còn thù oán nhau nữa. Có khi ông sư gìa còn hát và gõ trống chầu cho cụ Ký nghe và cụ Ký chia bài để hai người đánh với nhau ván bài tổ tôm nữa ấy./.