3. NHƯNG GIÁ TRỊ CỦA HÒ KHOAN LỆ THỦY.
Nghiên cứu giá trị dân ca cần xem xét trên nhiều bình diện, song có ba vấn đề không thể thiếu đó là: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật và giá trị âm nhạc của nó. Trong hò khoan Lệ Thủy những vấn đề đó thể hiện như sau:
3.1. Chủ đề nội dung - cái tôi trữ tình trong hò khoan.
Trong số gần 2000 câu hò sưu tầm được thấy rằng, nội dung mà hò khoan đề cập là rất phong phú. Có những cái to tát như nhân tình, thế thái, sự đời, chuyện quan trường, quốc sự. Cho đến tình cảm, trao duyên, thậm chí chỉ là một chút trách cứ, than phiền. Thống kê cho hết thì e không thể, nhưng đại lược thì có thể thấy cái tôi trữ tình mà hò khoan đề cập thể hiện qua những nội dung chính như sau:
Tình yêu đất nước, quê hương sâu nặng bắt nguồn từ núi non, sông biển, cây đa, bến nước của nơi chôn nhau, cắt rốn. Mảnh đất Lệ Thủy nhỏ hẹp nhưng may mắn có cả ba vùng biển, núi, đồng bằng. Chẳng ở nơi đâu địa lý tự nhiên lại đẹp như Lệ Thủy. Chắn gió biển khơi là một dãy đồi cát trắng, có ngọn cao cả trăm mét. Chang chang cồn cát, trắng lóa vào ngày hè nhưng trong cát bỏng đó vẫn mát rượi dòng nước ngầm ngọt lịm. Nước không chỉ chảy thành dòng suối nhỏ mà còn tạo thành hồ, đầm mênh mông vạn khoảnh ngay cạnh biển khơi như Bàu Sen, được ví như Nhị Hồ ở Trung Quốc. Đồng bằng Lệ Thủy nổi tiêng là phì nhiêu. Đã có câu ca “Nhất Đồng Nai, nhì hai huyện”. Ít tai ngờ rằng giữa cái đoạn thắt ấy lại có một vùng ruộng mênh mông, chằng chịt sông ngòi, phù sa lớp lớp. Thứ phù sa được chở từ dãy Trường Sơn qua mỗi mùa mưa bão, lũ lụt. Ruộng hổi ở Lệ Thủy phải cày bằng hai trâu mới đi nổi. Có vùng người cũng không đứng xuống ruộng được vì bùn lầy sâu vài mét. Người đi cấy lúa su phải dùng hai cây tre đặt nằm xuống mặt ruộng mà đứng chân. Cấy giật lùi đến đâu thì nhấc một chân lên, kéo cây tre lùi xuống. Núi rừng Lệ Thủy kéo mãi đến biên giới Việt – Lào, tài nguyên vô tận. Gỗ quý, song mây, trầm kỳ… thứ gì cũng có. Một thời hợp tác xã nào cũng có một đội “Sơn tràng” ở miết trên rừng khai thác gỗ.
Thiên nhiên là vậy, song lao động thật quả nhọc nhằn bỡi quanh năm hết gió lào bỏng cháy, lại bão tố lũ lụt ngập tràn. Nhiều khi lúa chín, miếng ăn trông thấy rồi mà chỉ một đêm mưa là lũ ngập trắng đồng. Vậy nên, trong câu hò xứ Lệ thấm đẫm chuyện buồn.
“Thân em khó nhọc trăm bề,
Sớm lên đồng cạn, chiều về đồng sâu.
Có gương không kịp rẹ đầu,
Có cau không kịp têm trầu mà ăn.
Ấy vậy nhưng lúc nào người Lệ Thủy cũng lấy ngọn núi cao Đâu Mâu, phá Hạc Hải, sông Kiến Giang để mà nhớ, để mà ví von, mượn nó mà nói nỗi lòng thương nhớ, tình chung thủy. Hình tượng “Đâu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên” trở đi trở lại trong hò khoan lệ thủy nhiều lần.
“Núi Đâu Mâu cao bao nhiêu trượng
Sông Lệ Thủy sâu bấy nhiêu tầm;
Dừng chèo đợi bạn tri âm;
Non mòn, biển can, vẫn nhất tâm đợi chờ”
Đôi khi cái sự tan, hợp của tình duyên người ta cũng liên tưởng đến sông nước đất quê. Dẫu có ngọn nguồn ở tận đâu, dẫu có thác ghềnh cách trở nhưng cũng không ngăn cản được Kiến Giang tìm về nơi Hạc Hải, hội nhập làm một cho trọn nghĩa vẹn tình. Sông có nghĩa tình như người vậy, tất không thể chia xa.
“Cầu Tràng Kênh dầu có phân đôi ngả
Sông Lệ Thủy dầu có cách phá trở ghềnh
Vì em có nghĩa có nhơn nên gương vỡ lại lành
Đôi lứa ta kết trọn để cho mình nên duyên”
Cũng có khi vươn vai đứng đón gió hương đồng sớm mai mà cảm cái nỗi nhớ về người yêu thương. Nghe đâu đó trong gió nồm nam hương lúa, hương tóc, hương tình mà ví von. Mà cách ví von cũng thật chân quê, mộc mạc nhưng rất sâu đậm nghĩa tình.
“ Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông
Thân em như chẹn lúa đòng
Phất phơ trước ngọn gió nồng ban mai.”
Quần quật đầu tắt mặt tối, lam lũ chốn mom sông hay đầu ngọn suối mò cua, bắt ốc. Đói cơm rách áo nhưng lòng dạ chỉ nghỉ về nhau. Quyết một lòng vì nhau, có nhau, không bao giờ đổi thay.
“Nước ròng em xuống sông mò cua bắt cá,
Nước nậy em lên rừng hái rau má, rau mưng.
Đắng cay mặn ngọt đã từng,
Dẫu chàng ăn thiếp nhịn, xin đừng quên nhau.”
Nói tóm lại, những núi cao, sông rộng, mênh mông cánh đồng, cây cầu, bến nước của miền quê ấy luôn làm cho con người Lệ Thủy nặng lòng trắc ẩn với quê hương. Tình yêu quê hương là một thuộc tính cha truyền con nối của người Lệ Thủy. Đi đâu, ở đâu thì câu hát đồng giao, câu hát ru, câu hò cũng vẫn níu kéo họ về quê.
Hò khoan Lệ thủy luôn nhắc nhủ con người sống giữ trọn chữ hiếu, chữ trung, nghĩa nhân, chung thủy. Thấm nhuần giáo hóa của đạo Nho, đạo Khổng trong cái mối lương duyên phụ tử, phu phụ, đệ tử. Một lòng thờ mẹ kính cha, chung thủy vợ chồng, trọn nghĩa bè bạn, đùm bọc xóm giềng. Đây là một trong những nội dung nổi trội của hò khoan. Bởi như đã nói, mảnh đất Lệ thủy đầu sóng, ngọn gió, ngút lửa chiến tranh. Trong cảnh loạn ly đó mà không nghĩa tình, chung thủy, không cố kết, đùm bọc thì chẳng ai còn.
Trước hết đó là chữ “hiếu”, chữ hiếu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong lời của hò khoan. Những lời ca tụng công cha, nghĩa mẹ sinh thành, nuôi dưỡng. Khi thì “đắng nước, nghẹn cơm”, khi thì “thân cò lặn lội” quãng vắng chiều đông, lặn ngụp trên đồng vớt lúa ngập lụt, ngữa mặt than trời “Trách ông trời ăn ở không cân; Kẻ ăn không hết người lần không ra”. Khi đêm đông gió buốt chỗ ướt mẹ nằm. Khi thì cha còn mịt mù đi phu, đi lính “tấm phên hư, nuộc lạt đứt” mà chẳng biết cậy nhờ ai. Vậy nên khi giao duyên người ta luôn nhắc nhau.
“Công sinh thành cù lao dưỡng dục
Trong dạ anh chính khúc vò tơ
Công ơn thầy mẹ biết tính răng chừ
Thiếp theo chàng cho được, chớ nghi ngờ chuyện chi”
Hoặc:
“Ơn song thân cù lao dưỡng dục
Nghĩa cưu mang chính tháng còn dư
Lấy chi đền nghĩa mẹ chừ
Vì gia bần, trí đoãn, sau phụ mẫu “động cư” có chàng”
Bỡi vậy nên, trai gái từ lúc tìm hiểu nhau, đến lúc thành thất thành gia không bao giờ phai nhạt tình phụ mẫu. Hò khoan đã cho họ những bài học thuộc lòng về chữ hiếu.
Sâu nặng, mặn nồng là chữ “tình” của nghĩa vợ chồng, lúc nào người ta cũng ví nó như cao như núi, sâu như sông, như biển. Là nghĩa tào khang, mà vàng son cũng không đổi được. Vậy nên lúc nào họ cũng dặn dò nhau:
“Lòng lại dặn lòng non mòn bể cạn
Dạ lại dặn dạ đá nát vàng phai
Dặn rằng bạn chớ nghe ai
Đã nghe ai thì xin chớ, vãng lai chốn này”
Hễ mà xa nhau là ví như chim xa rừng, cá xa nước, cầu cất, đò neo.Là mong nhớ, trông ngóng “Như giang trông lửa; như đại hạn chờ mưa”. Ra ngóng vào trông.
“Thiếp xa chàng ra đàng ngó vội
Thấy được mặt rồi dạ đói cũng no
Không tin cứ để đó anh dò
Ai bắc cầu cho biết, ai chèo đò cho hay”
Nghĩa tình phu phụ keo sơn, chia bùi sẻ ngọt, lên non, xuống biển, no đói có nhau. Nên chỉ xa nhau thôi đã thấy trống trãi, rã rời, cơm không muốn ăn, nước không muốn uống. Nghe con hạc kêu, vượn hú nhớ chồng chan chứa lệ rơi
“Con nhạn lạc bầy nó kêu oái oái
Con vượn lìa cành cắn trái khóc than
Vắng người thương châu lệ nhỏ tràn
Thôi cam đành chịu vậy, nỏ thở than chi chừ”
Đến như chàng xa nhà chỉ có ba tháng (ba trăng) mà đã sầu tương tư:
“Thiếp xa chàng tấm phên hư, nuộc lạt đứt
Chàng xa thiếp khi đói nước nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau”
Trong thời loạn ly, mà Quảng Bình, Lệ Thủy thì đã có bao giờ yên, cái cảnh chinh phụ của nhiều thế hệ cứ nối dài ám ảnh những người phụ nữ đất này lúc nào cũng nơm nớp phải chia xa, lúc nào cũng hoang mang cảnh mất chồng. Người chinh phụ còn có cái mà mong chờ như “ngọn đèn leo lét” nhưng người đàn bà mất chồng thì phải sống kiếp trầm luân. Vậy nên, nội dung nỗi niềm chinh phụ được nói đến rất nhiều trong hò khoan Lệ Thủy.
“Anh ra đi đầu đơn lính mộ
Hai chữ tang bồng ở chỗ người ta
Sao không thương con thơ ấu với mẹ cha già
Khi mưa khi nắng thiếp phận đàn bà khó khăn”
“Vắng bạn ta ngày tha đêm thiết
Duyên số tự trời ly biệt bấy lâu
Hiềm vì sông sâu chưa bắc được cầu
Nên đò ngang lỡ chuyến dạ sầu lắm thay”
Khi mất mát họ than thở:
“Duyên đã may cớ sao lại rủi
Nghĩ nguồn cơn thêm tủi dạ chàng
Liễu hờn tủi phận hồng nhan
Ai xui mà lại dỡ dang thế này”
Tình chồng nghĩa vợ sâu nặng đến vậy nên khi duyên phận trắc trở, chia lìa thì thật đau đớn. Nhiều câu hò trách duyên phận nghe như xé lòng, đứt đoạn ruột gan.
“Trúc xa mai vì ai rứa hử
Thiếp xa chàng tâm sự chơi vơi
Thương thân đây với hởi trời
Kẻo chưa bao lăm ngày tháng, sao đã đổi dời nợ duyên.”
Tha thiết, mặn nồng đó là mảng hò khoan nói về tình yêu trai gái. Bất chấp tất cả, mặc kệ nắng mưa, bão tố, mặc kệ bom đạn, binh đao, mặc kệ mẹ cha gã bán, mặc kệ trái ngang, tình yêu vẫn đơm hoa, kết trái. Cái cách trai gái đến với nhau qua hò khoan thật là độc đáo. Nhiều khi chỉ là bắt lời đối đáp lúc chèo thuyền trên sông, nhắn nhủ xa gần bên cối gạo, gửi gắm từ bờ bên ni qua bên nớ là tình yêu đã được khơi nguồn.
“Gió mát trăng thanh bạn lành chưa thấy mặt
Thoảng nghe tiếng hò lúc nhặt, lúc khoan
Đêm nằm mà dạ không an
Nghe lời bạn thốt, băng ngàn ra đi”
Hay:
“Anh đứng xa cách ba trộ sáo
Nghe tiếng em hò cuốn áo ra đi
Mấy đời, mấy thuở, mấy khi
Trai thanh gặp lại nữ nhi chốn này”
Trong hò khoan, những câu chuyện yêu đương người ta gọi là hò “kết vấn”. Mà đã hò kết vấn là nó có lớp lang hẳn hoi, đi từ chào hỏi, thăm dò đến trao duyên, gửi ý. Khi đã mãn cuộc chơi thì tam biệt, chia xa, hẹn hò gặp lại. Chúng ta bắt gặp ở đây những câu ướm hỏi tế nhị, những câu trao duyên tình tứ cứ như sợ phải nói ra. Những lời xe duyên, kết phận thiết tha, thề nguyền gắn bó đến đầu bạc răng long. Những lời than thở nhớ nhung khi cách mặt, cách sông trở hói, cha mẹ cản ngăn, người đời lá lay chia rẻ. Những nỗi ai oán trách duyên, hờn phận khi lỡ làng.
Khi mới gặp nhau người ta hò thế này:
“Em có chồng chưa nói cho anh biết
Anh có vợ rồi cũng nói thiệt cho em hay
Để khi ra đường lỡ có cầm tay
Sợ người thương em đứng, đó buông rày khó buông”
Sau cái màn chào hỏi là buông lời ong bướm, tán tụng nào là “mắt phượng, mày tầm”, “môi đỏ tợ son”, nào là khuôn trăng đêm thu khiến anh “càng ngó càng đẹp, càng nhìn càng ưa”… Đôi khi còn ướm thử hay là em chỉ chuộng “nơi mâm thau bịt bạc, nơi chén kiểu bịt vàng”. Dẫu có đã xiêu lòng rồi đấy nhưng là thân gái liễu yếu đào tơ thì vân phải tình trong như đã, mặt ngoài vẫn e.
“Thương anh không dám thương nhiều
E mai có kẻ mỹ miều hơn em”
Được lời như cỡi tấm lòng, đây là cơ hội để người ta giã bày, trần tình thề thốt dẫu nay mai có “Chộ non cao không sấp mặt; Chộ sông dài không xây lưng”. Dẫu gặp “Phá Tam Giang anh cũng lội, núi Mâu Son anh cũng trèo”. Đến thế thì gì mà chẳng xiêu lòng, rồi cảm, rồi yêu. Mà đã yêu thì:
“Dẫu rằng thầy mẹ có đan rọ thả trôi
Thả trôi thì thả thiếp không thôi nghĩa chàng”
Vậy là đã hẹn ước, thề nguyền trao thân, gửi phận. Nhiều khi cuộc vui thâu đêm, suốt sáng, giã hết gạo họ đổ cả trấu vào giã. Thế rồi cuộc giao duyên cũng đến hồi từ tạ. Tiếp đó là chuỗi ngày trong ngóng khôn nguôi, nhớ mong gia diết “cơm ăn không đặng, nước uống nõ vô”, chỉ mong thấy mặt nhau là được
“Thiếp xa chàng ra đàng ngó vội
Thấy đặng mặt rồi dạ đói cũng no
Không tin để dạ mà dò
Ai bắc cầu cho biết, ai chèo đò cho hay”
Trong yêu đương, thời gian và không gian thật không bình thường. Người ta dành cho nhau cả đêm dài để tình tự nhưng khi chia xa, dứt áo ra về thì thấy như “vừa bén tiếng, quen hơi”. Xa nhau mới có một ngày mà tưởng như “đằng đẵng ba thu”. Trong thời gian chia xa ấy họ như mộng du, nửa mê, nửa tỉnh.
“Sầu tương tư nên hư nhan sắc
Ốm đau gì mà thuốc bắc thuốc nam
Ước chi thiếp được gặp chàng
Hoa tê dầu héo cũng rỡ ràng lại tươi”
Thường thì người ta khóc khi gặp điều mất mát, cùng cực, uất ức, đau khổ. Nhưng với những kể yêu nhau, nước mắt rơi vì mong nhớ, đợi chờ. Với họ, nước mắt làm vơi bớt nỗi buồn chia xa nặng trĩu trong lòng.
“Vắng mặt em một ngày lòng anh dao cắt
Vắng mặt em hai ngày nước mắt lâm li
Mấy lời chàng dặn thiếp hãy nhớ ghi
Chớ thay lòng đổi dạ, chớ phân ly tội trời”
Ấy là chưa kể khi gặp phải trái ngang, cách trở, không đến được với nhau. Mà dưới thời phong kiến xưa thì chuyện đó không phải hiếm. Những rang buộc của “môn đăng, hộ đối”, của đạo làm con phải nghe lời cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Duyên phận lỡ làng, thì câu hò thật là ai oán.
“Xưa kia tưởng kết đôi phường hội
Thiếp đã đưa tay ra thay gối chàng kê
Nay vì ai mà không trọn đạo phu thê
Liếc mắt nhìn người thương buổi trước, châu lệ cứ dầm dề chẳng khô”
Trong hò khoan, có rất nhiều câu hò than thân trách phận nhưng thực ra là mượn lời để tố cáo những rang buộc vô lý làm chia cắt tình yêu. Phần lớn những câu trách cứ đó dành cho thầy, mẹ. Vì thầy mẹ “ngăn duyên rẽ thúy”, “chỉ vì thầy ngăn, mẹ đón, cho phiền dạ em”. Rồi “dạ em thương thầy mẹ khiến đừng”, “con thương thầy mẹ đón ngăn” rồi thì”tại thầy mẹ dứt đường tơ duyên”. Có lẽ họ không thấy được căn nguyên sâu xa của lễ giáo phong kiến nên chỉ hờn thầy, dỗi mẹ.
“Thầy mẹ ở nhà không bao dung lượng cả
Nên hai đưá mình đôi ngã bắc nam
Đêm năm canh trong dạ bàng hoàng
Hẹn cùng chàng chung thủy, nhưng chớ vội vàng tóc tơ”
Nói là vậy, nhưng đôi khi họ cũng quyết nổi loạn, dẫu biết “công sinh thành, ơn dưỡng dục” nhưng một hai cũng quyết vì tình, dẫu có đau đớn vì đòn roi,
“Ví dầu thầy mẹ có đánh chính chục, một trăm
Đánh rồi em lại dậy, em vẫn nhất tâm theo chàng”
Thậm chí quyết liệt hơn, dẫu có chết
“Thiếp từ thân thiếp cho trọn với chàng một đôi”
Có lẽ không thể nói hết được câu chuyện tình yêu đôi lứa trong hò khoan. Càng đọc, càng nghe, càng đắm say với những ca từ đằm thắm, dịu dàng, thiết tha nồng hậu, đôi khi ai oán của nhứng người dân quê mộc mạc sau lũy tre làng.
3.2 Giá trị nghệ thuật của hò khoan.
Như đã nói ở trên, nội dung của hò khoan đã được lồng vào những hình thức nghệ thuật nhiều hình, nhiều vẻ qua các làn điệu, lối hò. Thế nhưng, ngay trong từng làn điệu, lối hò ấy cũng còn nhiều vấn đề về nghệ thuật đáng chú ý nữa.
- Về mặt cấu ý, do kết cấu mở của giai điệu hò, người ta chỉ chú ý đến những câu vào hò để cho đế, xố và những câu kết của hò. Cho nên, mỗi câu hò có thể dài ngắn tùy ý theo nội dung định nói, định diễn tả. Thường thì một câu hò khoan có kết cấu thể lục bát hoặc song thất lục bát. Song có những câu hò phá lệ được chắp nối nhiều ý xen vào giữa và giữ nhịp điệu tái lại nhiều lần trước khi vào câu kết. Chẳng hạn câu hò sau đây được coi là một trong những câu dài nhất trong kho tàng hò khoan Lệ Thủy.
“Phụ mẫu em đòi chi anh đây đi cũng đủ
Lưng hũ hột xoài lưng oi hột mít;
một bì khoai lang một sàng bánh tổ;
một ổ gà ung một thùng mắm thúi;
một trịu cá rô một ang gạo thóc; một bọc chè tươi!
Em về thưa với song thân phụ mẫu,
Đến tối hai mươi anh sang nhà”
Hay câu:
“Trong trăm thứ dầu hỏi có dầu chi là dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp hỏi có bắp chi là bắp không rang
Trong trăm thứ than hỏi có than chi là than không quạt
Trong trăm thứ bạc hỏi có bạc chi là bạc không tiêu.
Trai nam nhi đối đặng, dãi lụa điều em trao.
Cách biến tấu đó được dùng nhiều và rất nhuần nhuyễn trong các làn điệu hò khoan Lệ thủy. Điều này tạo ra lợi thế cho người hò khi đối đáp. Người ta chỉ cần có cái ý và cứ thế lên bổng xuống trầm có tính “câu giờ” để tìm ra câu kết cho đặc sắc.
Cái ý tứ trong hò khoan rất đa dạng. Đôi khi ý tứ sâu xa phải hiểu theo nghĩa bóng. Nhất là trong những câu hò “Bồn ba”, một lối hò ví von lấy chuyện trồng hoa, xây bồn để nói cái ý tục. Như câu:
“Chân bước đến vườn đào tay xang qua bông thọ
Dặn coi rồi để đó cho em
Đừng nên vin hoa hái lá, mang tiếng pha dèm khổ thân.”
Đôi khi câu hò như một đoạn văn tả thực nhưng lại lựa chọn từ ngữ để lấy nhạc điệu trong từ ngữ tiếng Việt để tăng thêm hiệu ứng cho ý.
“Tay cầm một nạm hương cây tắt cây đỏ
Tay cầm một nạm cỏ cây héo, cây khô
Tay ôm nấm tay lại thoa mồ
Sanh như hà tử như thị biết đời mô chộ chồng”
Về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, hò khoan Lệ Thủy rất độc đáo. Bỡi tính ước lệ về giai điệu, lớp mái nên người hò có thể tự do sáng tạo trong lựa chọn ngôn ngữ. Chúng ta bắt gặp trong hò khoan nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, nói lái, nhân hóa hay cách sử dụng nhuần nhị nhiều thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương, từ đồng âm dị nghĩa. Sự kết hợp bỡi lời thơ với tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy đạt đến đỉnh cao.
“Hỏi anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời”
Hay dùng cái cách nói lái
“Bánh đầy mâm răng gọi là bánh ít
Lửa không miệng răng lại nói lữa cười”
Lời đối đáp sản sinh ra từ cuộc sống lao động và nghệ thuật tập thể, từ nhu cầu trao đổi tình cảm trong những khung cảnh nhất định nên nó rất mộc mạc. Tuy vậy, cấu ý của nó lại rất gần với ca dao, tục nghữ nên nó mang hơi thở của hồn thơ dân gian. Là nhịp cầu nối ca dao, dân ca với thơ trữ tình.
Cũng có những lối hò đố để đấu trí, đối đáp đòi hỏi bạn hò phải có vốn sống, vốn ngôn ngữ phong phú mới đối kịp, nhất là những lúc nhịp điệu tiết tấu nhanh trong những câu sáu tám mà người ta dùng những từ đồng âm, dị nghĩa, đồng nghĩa, dị âm .
“Con bò vàng ăn hòn núi bạc,
Con chằng hương núp bóng cây đèn”
“ Con mèo nằm đám lúa miêu,
Hùm nằm đất hổ, tượng trèo cồn voi”
Hay người ta dùng lối nói lái của Lệ Thủy:
“Con mỏ kiến đậu trên miếng cỏ,
Con vàng lông đậu giữa vồng lang”
“Con cá đối nằm trên cối đá,
Mèo cụt đuôi nằm mút đuôi kèo”
Thể thơ phổ biến được sử dụng trong hò khoan là lục bát và song thất lục bát. Trong thể lục bát có cả lục bát chỉnh thể là lục bát biến thể. Cách gieo vần thì vẫn chu chỉnh nhưng khi hò người ta thêm vào những từ đệm, liên từ rằng, mà, thì, là hay những đại từ nhân xưng chàng, thiếp, anh, em… để chỉnh nhịp. Trong thể song thất lục bát cũng vậy, lối dùng từ đệm khá phổ biến. Cùng với đó là cách lặp lại vế hò ở câu tám cuối cùng như là một nhấn mạnh. Sự uyển chuyển về nhịp điệu của vần lưng, vần chân, vần bằng, vần trắc làm cho câu hò nương tựa, quấn quýt vào nhau. Nó vừa giữ nhịp cho hò đối đáp, mà phổ biến là trong mái xắp, để diễn tả tình cảm.
3.3 Giá trị âm nhạc trong hò khoan.
Đối với dân ca, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nghiên cứu vấn đề âm nhạc trong nghệ thuật của dân ca bao gồm ba mặt: Tình tư tưởng của giai điệu; nguyên tắc cấu tạo của giai điệu; nét nhạc chủ đạo, gam và hòa âm. Do khía cạnh nghiên cứu xem xét tôi không đi sâu vào những vấn đề học thuật của âm nhạc, mà chỉ xem xét khía cạnh giá trị tư tưởng âm nhạc trong hò khoan mà thôi.
Thông qua những lối hò thu âm được chúng ta thấy, thang âm phổ biến trong hò khoan có hai điểm nổi bật. Thứ nhất, sử dụng 5 thang âm của dân ca Việt Nam nói chung. Thứ hai, có tính khu biệt một chút là việc sử dụng thang 3 âm (Mi- La- Si). Việc sử dụng thang 3 âm này có căn nguyên từ lối hò của hò khoan Lệ Thủy. Giai điệu hò khoan Lệ Thủy chủ yếu là lối nói, lối kể lể, có tính ứng khẩu cho nên nó không quy định tiết nhịp chặt chẽ. Nó chú trọng nhiều vào các vế xố. Vế xố bao gờ cũng chắc khỏe, thúc đẩy, có tính khích lệ hò cái hơn là trau chuốt, làm đẹp cho lời hò.
Giai điệu của hò khoan Lệ Thủy cũng muôn vẻ. Điều này có được là do mấy đặc điểm riêng có của hò khoan Lệ Thủy.
Trước hết, phải khách quan mà nói hò khoan Lệ Thủy cũng như hò khoan ở những vùng khác, nó chưa có giai điệu cố định, công thức, mực thước như Quan họ, Chèo , Lý, Vọng cổ…cùng một làn điệu hò mái ruỗi nhưng người ta có thể bẻ từ câu sáu tám sang câu bẩy bẩy sáu tám, hay những câu quá khổ, kể lể như đã nói ở phần ngôn ngữ. Có chăng, nó chỉ qui ước về hò cái (người lĩnh xướng), hò con (người đế xố) và cách xố trong từng mái hò
Thứ hai, âm nhạc trong hò khoan là không có nốt kết. Nốt kết của hò cái mở ra nốt đầu cho hò con và nốt kết của hò con mở đầu cho nốt hò cái. Cứ như thế luân chuyển không dứt. Cuộc hò chỉ dứt khi người ta thấy mãn nguyện. Vậy nên, mới có chuyện hò giã gạo có lúc thâu đêm
Thứ ba, giai điệu hò khoan lệ thuộc vào môi trường diễn xướng. Như đã nói, hò khoan Lệ Thủy gắn với lao động, sinh hoạt của nhân dân nên nhịp độ lao động, sinh hoạt cũng tạo ra ước lệ về giai điệu hò. Khi hò chèo thuyền trên sông nước, nếu ở chỗ lặng, thuyền nhẹ, chèo khoan thai, người ta hò mái ruỗi, mái chè, mái ba. Nhưng khi chèo thuyền qua quãng nước siết, gió ngược thuyền nặng người ta dùng mái nện. Khi giã gạo chày đôi, tiết tấu chậm, nhưng giã chày tư thì nhanh hơn. Hoặc khi nện đất, đâm vôi thì không thể dùng mái ruỗi, mái ba được. Bởi vậy, giai điệu hò khoan Lệ Thủy có sự biến tấu nhất định.
Phân biệt sự khác nhau về giai điệu trong hò khoan Lệ Thủy là ở các lớp mái. Hò mái ruỗi, mái chè, mái ba giai điệu khoan thai, ngân nga, bay bổng. Nó vang vọng nơi quãng vắng sông nước, dập dờn theo cánh cò, mất hút sau lũy tre xanh, sau bưng điền lau sậy. Người hò cái thì kể lể, thanh minh, trách cứ, nhắn nhủ một cách nhẹ nhàng. Chẳng hạn:
“Đêm năm canh đĩa dầu vơi cạn
Trúc gầy mòn nhớ dạng canh mai
Khuyên em thương ai thì phải nhớ ai
Chớ thấy non cao mà sấp mặt
Chớ thấy sông rộng hói dài và xây lưng”
Dứt câu hò lần một, lần hai của hò cái là hò con xố:
Y bơ hò khoan
Cứ mỗi lần xố là người ta quẫy chèo hoặc nhổ sào.
Ở mái ba thì cách đế xố có khác.
“Dù ai xuyên tạc lá lay, ta vẫn chung thủy”
Hò con xố: hò là hô là khoan
Chung thủy, chớ đổi thay mà tội trời .
Hò con xố: hò là hô hò khoan
Trong mái xắp, thường hò lúc cấy lúa, giã gạo hoặc mở cuộc hò thì có lớp lang hẳn hoi, từ mời chào, làm quen, đối đáp, tỏ tình đến chia tay giã từ. Mái xắp có tiết tấu nhanh, rộn ràng, vui tươi hơn. Giai điệu của nó trong sáng, hò cái dừng để hò con xố ở những câu tròn ý, ở những âm ổn định. Vậy nên chủ đề có thể là trách móc, hờn giận nhưng điệu hò vẫn lành mạnh hồn hậu.
Vào đầu bao giờ cũng có lời hò mời, hay còn gọi là mở hò:
Khoan ơi khoan xin mời các bạn xố lên.
Và khi cái hò:
“Bước đến nới đây xin chào chung chào chạ
Có người khách lạ nên phải chào riêng”
Hò con xố: Hơ khoan ơi là hố, khoan ơi hò khoan.
Bắt tay xin lại hỏi liền
Hỏi thăm bên bạn
Hò con xô: ơi là hố
Đã kết nguyện mô chưa
Hò con xô: ơi là hố
Cứ thế giai điệu lặp đi lặp lại. Có khi là câu sáu, tám, có khi cả một chuyện hò dài đến bảy mươi, tám mươi chữ.
Đặc sắc nhất của hò mái xắp là lề lối, hình thức diễn xướng. Với một cuộc hò luôn có kết cấu chặt chẽ, diễn ra theo một trình tự hò mời, hò chào, hò vào cuộc, hò tạ từ. Khi vào cuộc nguời ta gọi là giữa hò, trung tâm của cuộc hò. Và thường diễn ra các lối hò như: Hò đố, đâm bắt, dao duyên, bồn ba. Phần hò này bao giờ cũng sôi nổi, hào hứng, nó cuốn hút cả người hò lẫn người nghe. Với những lối hò đó, người hò cái phải đối đáp nhanh nên ngoài việc phải nhớ nhiều câu hò nhiều khi người ta phải ứng tác, ứng khẩu tại chỗ. Đặc biệt khi hò đố, hò đâm bắt, bồn ba trai gái đôi bên ra sức đem kiến thức, tài nghệ khéo léo của mình để dùng ngôn ngữ đa nghĩa, nói lái, dùng thành ngữ, tục ngữ, tích truyện để thử sức nhau. Giá trị âm nhạc lúc này đóng vai trò thứ yếu, nó chỉ cầm chừng tiết tấu, nhấn mạnh chỗ ngắt câu để hò con đế xố. Điều này đòi hỏi người hò cái phải có những năng khiếu nhất định. Vậy nên, nó tạo ra những nghệ nhân hò.
Tóm lại, hò khoan Lệ Thủy là một bức tranh sinh động về đời sống tinh thần của ngườì dân nơi đây. Những ai đã đến Lệ Thủy mà chưa thưởng thức hò khoan thì chỉ mới thấy được cái bề ngoài của đất này mà thôi. Còn giả như, nếu chưa đến Lệ Thủy mà đã được nghe hò khoan Lệ Thủy thì coi như đã cảm nhận được cái thần thái của đất này rồi.
Là một con dân Lệ Thuỷ, với mong muốn bảo tồn và giới thiệu nét đẹp dân ca quê nhà nên tôi mạnh dạn sưu tầm, tuyển chọn qua các nguồn tài liệu, các nghệ nhân, viết cuốn sách này để giới thiệu với bạn đọc. Nhân đây, tác giả xin cám ơn các tổ chức, cá nhân đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên để tôi hoàn thành cuốn sách này. Tuy đã cố gắng chắt lọc từ những sản phẩm của những người đi trước và sưu tầm, bổ sung thêm. Song, do kiến thức có hạn, chắc chắn sẽ còn nhiều sai sót, mong bạn đọc chia sẻ, góp ý.
Lệ Thủy, tháng 7 năm 2011