Ở Việt Nam nhà thơ nhiều và thường bé tí bé tẹo như đồ chơi đáng yêu, vì thế như nhà văn Nguyễn Một ví: nhà thơ hay đạo thơ lẫn của nhau vì bé quá dễ cho vào túi, còn tiểu thuyết như lâu đài cho nên mấy ai ăn cắp được (diễn ý).
Bởi thế mà mỗi khi có một cuốn tiểu thuyết xuất hiện lập tức nó biến thành biến cố hệ trọng, chẳng khác gì chiếc ô tô dù chỉ là mô hình, không biết có chạy được hay không, nhưng tất cả dân hàng xén thơ vụn lèo tèo đều lác mắt. Thậm chí, tiểu thuyết hiếm đến độ, nhiều người viết hy vọng nó sẽ có thể bước ngay vào sơ khảo các cuộc thi văn chương, và nếu chỉ cần múa may vài chữ “ệ” nữa thôi, thì giải thưởng đâu có xa vời gì? Mấy chữ “ệ” đó như mọi người đều biết là: hậu duệ, quan hệ, tiền tệ… Trong Hội Nhà Văn còn truyền bá một nguyên tắc hơi giòn (tại sao lại hơi giòn, vì nó vừa cứng vừa mềm) là: anh chị nào muốn nhanh vào hội, thì đừng xếp hàng qua cửa thơ, đông rinh rích; nhưng chỉ cần xếp hàng qua cửa văn xuôi, hàng ngắn tũn, vừa đứng vào hàng đã thấy áp mặt vào cửa mua vé rồi, chỉ cần nguệch ngoạc một hai tập truyện ngắn là có cơ hội.
Có người bảo tôi sao mỗi khi viết về tác phẩm nào lại cứ phải đá xoáy nhắc nhở về nền thơ nước nhà? Không phải vậy! Mà đó chính là nền tảng của bút pháp. Nếu con mèo phải đưa bộ ria đi trước, đó chính là ăng ten để nó làm việc, chớ nên xem ria là thừa. Và một đám rước diễu hành thì luôn là trống kèn đi trước sau mới đến vua chúa đi ra. Tiểu thuyết rõ ràng là nền công nghệ lớn của văn học.
Vậy thì đoàn diễu hành đi trước hẳn phải là những nhà thơ, tác phẩm thường là ngẫu tác trong vài phút, vài giờ và vài ngày. Còn tiểu thuyết là sức lao động sáng tạo kéo dài ít nhất là vài tháng, vài năm, thậm chí vài chục năm… sức nặng của nó buộc phải đặt trên xe nhiều ngựa kéo, hoặc xe công xuất lớn. Và bạn viết hay bạn đọc buộc phải đánh giá bằng con mắt như vậy.
“Y phục xứng kỳ đức”, màn ra mắt nhỏ hay bé hoàn toàn tùy thuộc vào “Sản phẩm” ra mắt, mà với sáng tạo chúng ta gọi là “Tác phẩm”. Phần diễn văn dài ngoằng phía trước lại còn tung hứng thơ ca, chẳng lẽ lại chỉ đón một “Bàn tay nhỏ dưới mưa”.
Khi gấp cuốn tiểu thuyết lại, chúng ta thấy trình độ đặt tên cũng như ý định hành trình của tác giả. Có rât nhiều cây bút dù viết rất nhiều nhưng không đặt nổi tên cho tác phẩm của mình. Vì anh – chị kém quá chăng? Không, anh chị cũng trường văn trận bút nhiều rồi, nhưng không đặt nổi tên, chỉ vì không minh định nổi ý tưởng xuyên suốt của mình.
Nhưng tác giả Trương Văn Dân lại không vậy, trái lại. anh đã đặt một cái tên rất hay. Một cái tên rất xứng hợp với tiểu thuyết. Trong nghệ thuật đó là nguyên tắc lớn nhất “Emsemble” – nghĩa là sự Đồng Điệu, đặc biệt là đồng điệu giữa nội dung và hình thức. Nghệ thuật chán nhất là “tiếng đàn chênh” hay ông chẳng bà chuộc. Khi tôi bình một cái tên hay, không có nghĩa là phán xét bằng bụng hay là tán, mà nó phải được đổ “khuôn vàng thước ngọc” một cách chắc chắn nhất. Nhân đây tôi lại muốn nhắc lại trình độ mắt toét của HNV khi trao giải nhất cho tập thơ “Giờ thứ hai mươi nhăm”. Trời ơi, giữa gánh rau nông nghiệp lẫn vào một con chíp điện tử từ trời rơi xuống, ngay đến bà nhà quê còn nhặt ra, vậy mà cả cái hội to đùng, học ta học tây, đi khắp thế giới như đi chợ mà không nhận ra bánh ga-tô siêu thì và bánh đúc nhà quê, thì thật là cà cộ hết chỗ lùi?!
Bàn tay nổi tiếng nhất của thế giới là gì? Đó là bàn tay trong phương ngôn “Bàn tay không thể che lấp mặt trời”. Bàn tay này muốn miêu tả tầm vóc của kẻ độc tài như một bàn tay đòi khoa trương muốn che lấp ánh sáng của mặt trời, cũng là đòi che phủ chân lý.
Bàn tay nổi tiếng thư hai là gì? Đó là bàn tay trong tác phẩm “Những bàn tay bẩn” của triết gia văn hào (đoạt giải Nobel nhưng không nhận) Jean Paul Sartre nguyên bản tiếng Pháp là “Les mains sales”. Hiển nhiên khi gọi bàn tay này nổi tiếng không phải nó nổi tiếng xuông, mà trong tác phẩm có một phương ngôn bất hủ: “Tôi yêu những bàn tay bẩn vì đó là những bàn tay bắt vào dọn dẹp cuộc đời”.
Bàn tay thứ ba, không biết có nổi tiếng không, nhưng nhà văn Việt Trương Văn Dân đã viết cả một tác phẩm dầy hơn bốn trăm trang về nó. Và nó đồng điệu, emsemble từ đầu đến cuối, để nói rằng, cái tên đó vừa juyt cho tác phẩm giống như áo lễ giành cho thầy tu vậy.
“Bàn tay nhỏ dưới mưa” là gì? Không giống bàn tay định che lấp mặt trời, bàn tay nhỏ là một cái gì nhỏ bé, yếu ớt, thụ động, khiêm nhường, bị mưa sa bão táp dập vùi. Hình ảnh bàn tay trong cơn mưa làm người ta liên tưởng đến sự bất lực của nó. Trời ơi, cơn mưa nghĩa là lạnh lẽo, là không nơi ẩn nấp, bàn tay nhỏ bé run lên, cái lạnh từ đôi tay chạy vào tim, và nếu nó không tìm được được chỗ trú ẩn, cơn lạnh đó sẽ dìm trái tim của nó vào giữa hoang vu lạnh giá… và cuộc đời khi đó chỉ đáng giá một que diêm. Que diêm ư? Người ta bật nó lên, đốt lửa lên, và cơn cảm lạnh bị xua đuổi, người ta được sống sót. Nhưng than ôi, ai sẽ đem lại cho bàn tay nhỏ lạnh lẽo kia que diêm đó, giữa một xã hội náo loạn mưu sinh chạy tít hơn đèn cù, vô cảm lan tràn, thì ai dừng lại để bật que diêm… Đấy chưa phải là sự đau xót thủng đáy đâu. Mà có thể có nhiều tổ chức dịch vụ còn đứng đợi bàn tay đó ngã xuống để lao vào xin dịch vụ đám ma??? Chúng ta liệu có giật mình về điều này không?! Nếu giật mình như vậy, thì cũng là một xoay vần xa hoa rồi. Tại sao? Người Trung Hoa xưa có câu “Cùng là thợ mộc, nhưng người đóng xe mong người ta giầu, còn người đóng quan tài mong người ta chết”. Thật đắng cay! Bàn tay nhỏ kia đang run rẩy, thì đã được rước vào ăn hoa quả đầy chất ướp hóa học, ăn để mà chết! Được đưa vào bệnh viện, bắt mạch qua loa rồi cho uống thuốc giả đắt như thật. Uống thuốc để mà chết! Như những em bé tiêm chúng phải thuốc giả mà chết vậy!
Chỉ cần bàn tay nhỏ dưới mưa đó thôi, nó đã đánh động biết bao tình cảm xót thương, xao xuyến, tha thiết của con người. Tôi nhớ lới của một nhà văn Nga viết về vùng đất Si-bê-ri, một vùng đất hoang vu lạnh giá nhất hành tinh. Cặp đôi kia lê gót đến một cái làng hẻo lánh giữa chiều tối, đói, lạnh lẽo, những trận tuyết sẽ vùi chết họ trong đêm nếu không tìm thấy ngôi nhà nào trú ẩn. Kìa chủ nhà nhà mở cửa. Nụ cười thân thiện. Họ vừa lấy nước, múc cháo và dọn giường cho khách, và nói một câu rung chuyển cả miền lạnh lẽo: “Bạn đi tới bất cứ đâu, thì một bữa tối và một ổ rơm ngả lưng là điều không cần mong ước”.
Trời ơi, phải là một sứ xở lạnh lùng luôn có thể vùi sống người ta trong tuyết mới có một câu sinh tử như vậy. Và cũng ý này tôi đã từng viết câu thơ:
Rồi một đống lửa được đốt lên
Từ tay đoàn thám hiểm
Cả miền băng tuyết cựa làn da lạnh
Sà vào lòng ngọn lửa
Ấm mầu hồng!
Ấm hơi người!
(Mùa đông vọng cánh én về)
(còn nữa)
Phần 2
Trong tác phẩm xuất hiện một thiếu phụ tên Gấm, nàng đã có hai đời chồng và có con gái riêng với người chồng thứ hai. Mặc dù đã bỏ nhau, nhưng anh chồng cũ vẫn liên tục hành hạ nàng khi nàng về thăm con. Và nhân vật “cứu tinh” đã xuất hiện. Chàng có phẩm chất thẳng thắn như nhà báo lúc nào cũng đối mặt với sự thật! Nhưng chàng lại có óc tưởng tượng tinh tế dịu dàng như một nhà văn có tâm hồn bao dung rộng lượng. Hai mảnh đời cô đơn đã ghép lại với nhau. Và lần đầu tiên nàng cảm thấy, mình mới bắt đầu tra từ đầu tiên “Hạnh Phúc” trong cuốn sách có tên là “Tình yêu”, mà tác giả cuốn sách không ai khác ngoài chàng. Chàng không chỉ viết cuốn sách đó bằng bút mực, mà còn viết bằng chính hơi thở, cơ thể của chàng, những vòng tay vấn vít như mỏ neo chẳng bao giờ muốn tháo khỏi những đường cong, những hơi thở ấm áp không thiếu những dòng xoáy của bão tố, và những lời ngọt lịm như thể mật ong tự nhiên phải vậy… Và chiếc giường của đôi uyên ương mở rộng ra khắp nơi và không còn cách nào khác mà chỉ có thể gọi nó là một bản sao của thiên thai… ?!
Các nhà văn Việt nói chung thường làm cho chúng ta có cảm giác hơi “thiếu tự tin” và giật mình, dường như họ khó có thể có đủ kỹ thuật để leo dây. Tại sao? Vì tầm văn hóa của họ thường là quá thấp và quá thiếu!
Nhưng với tác giả Trương Văn Dân thì khác hẳn, mới chỉ đọc mươi trang của anh, ta đã thấy vững tin. Tại sao? Vì nó hội đủ những phẩm chất của một cây bút viết trường thiên. Trước hết tác giả là một người đã du học nhiều năm ở Ý, văn phạm của anh rất vững, bởi tiếng Ý, thuộc Đế quốc La Mã xưa, lại có nguồn gốc rất gần với tiếng Latin, nên qui phạm ngữ pháp của nó khá khoa học. Khoa học nhưng không khô, mà ngôn ngữ Ý cũng là cái nôi trữ tình duyên dáng của nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, văn chương, âm nhạc… Triết gia Sartre nói rằng: “Những người học cao như biết tiếng Latin chẳng hạn, họ hoàn toàn muốn thì viết được văn bởi vì họ rất hiểu ngôn ngữ, chỉ có điều họ có muốn viết hay không?” Trường hợp của cây bút Trương Văn Dân hoàn toàn ứng với điều này.
Nhưng tác giả không cậy chữ để viết văn, mà anh viết với một sự chú mục tha thiết và da diết tình cảm. Một tình cảm lớn giành cho đời, và một tình cảm riêng tư giành cho góc yêu thương của trái tim mình.
Chưa hết, tác giả cũng lao động sáng tạo rất miệt mài, hơn bốn trăm trang sách của anh là những gì miên man nhiệt huyết và lao động, vật vã chìm nổi khốn khổ cùng các nhân vật của mình. Xem quả biết cây. Một cuốn sách có gáy kỳ công xuất hiện trước mắt chúng ta thì không thể lọt từ cái rổ rách mà rơi xuống, mà nó phải được làm từ một bàn tay chế tác lành nghề?!
Tình yêu trong tác phẩm không đơn giản là đôi lứa mà là đôi lứa đó sống trong xã hội. Một xã hội còn thô bạo và bất công quá, đặc biệt với trình độ là một chuyên gia hóa học, tác giả đã đề cập rất nhiều đến môi trường sống bị phá hủy, hiệu ứng nhà kính, và các chất phụ gia ngâm tẩm hoa quả, thức ăn.
Về hôn nhân và tình yêu, tác giả cũng thể hiện ý nghĩ rất tích cực và hiện đại. Khi cô Gấm đòi cưới nhân vật của mình cùng với giấy giá thú, ông viết:
“Em yêu, tình yêu của chúng mình không phải là một vấn đề xã hội. Nó chỉ liên quan đến chúng ta, đến trách nhiệm của chúng ta và ước muốn sống cùng nhau. Không có chuyện phải hạnh phúc theo luật và không có bất kỳ hợp đồng nào, không có ai kể cả cha đạo, thầy tu, hay chủ tịch ủy ban phường quận… có thể bắt buộc anh phải sống hạnh phúc bên em…” (tr.152, 153).
Nhưng tình yêu không xuôi chèo mát mái, bỗng nhiên Gấm bị rơi vào căn bệnh ung thư… Và phần cuối sách rất cao tay khi diễn tả cơn suy tư của Gấm về sự hấp hối trong thể xác cũng như tinh thần. Đoạn suy luận bên trong này, thường đòi hỏi một bản lĩnh tinh thần rất cao, gióng như một ca mổ kéo dài mà chỉ có người bản lĩnh cao mới trải nghiệm được?!
Nhà thơ Lê Đạt có một câu nói rất hay “Chữ bầu lên nhà thơ”. Và ở đây tôi xin mượn ý của tác giả Lê Đạt để nói: Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” với giá trị của nó hoàn toàn có quyền bầu lên nhà văn Trương Văn Dân như một trong những tác giả hàng đầu Việt Nam. Chỉ có điều, tác giả cũng chưa thoát được căn tính của văn chương Việt Nam khi chưa cơi nới được vòm cung tư tưởng lên cao hơn. Nếu từ nền tảng văn học này, tác giả bắn một quả tên lửa tư tưởng lên trời để nó soi rọi cho mảnh đất còn tì tõm này sáng láng hơn, thì tốt biết bao.
Mong rằng tác giả có thể vươn cao hơn ở một tác phẩm khác, hay lây men sang người khác.
Xin chúc mừng nhà văn Trương Văn Dân và cuốn tiểu thuyết nhỏ mà không nhỏ của anh, cuốn “Bàn tay nhỏ dưới mưa”.
19.03 h, 20/01/2016
Nguồn :
1- https://www.facebook.com/paulnguyenhoangduc/posts/1658938834363263
2- https://www.facebook.com/paulnguyenhoangduc/posts/1659220201001793