Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.176
123.149.008
 
Dọc đường văn nghệ của tôi - Hồi ức (phần 1 + 2)
Trần Dzạ Lữ

 


 Ở HUẾ

 

 Từ thập niên 60, nghĩa là lúc đó tôi khoảng 14 tuổi.Vậy mà không hiểu sao tôi luôn trăn trở về phận người và mê hai câu thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương như điếu đổ:

   ….Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa

       Bị  quê hương ruồng bỏ , giống nòi khinh…

 

       Và càng thấm thía hơn khi  ghiền “Đoạn Trường Tân Thanh”  của thi hào Nguyễn Du.

 Càng đọc càng soi và càng thấy:

        Trăm năm trong cõi người ta

        Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

        Trải qua một cuộc bể dâu

        Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…( truyện Kiều )

        

                       Thời gian này chiến tranh đang  manh nha  để gặm nhấm hai miền Nam Bắc.

       Tôi ở vùng “xôi đậu” nên đêm đêm phải lên ngủ nhờ nhà anh LêBáLăng, là thầy giáo

là bạn văn nghệ của tôi ở Vỹ Dạ.Thời gian này anh tôi thành lập Thi Văn Đoàn Mây Ngàn.

Báo tự chép tay quy tụ một nhóm bạn bè Quốc Học.Nội dung họ viết là những thao thức

đầy nhân bản về Tình yêu Quê Hương, Đất Nước.Thấy họ  nhóm họp, trao đổi văn chương mỗi cuối tuần mà tôi háo hức  đến lạ.Thế rồi một ngày tôi đưa bài thơ cho anh ấy xem.Anh gật đầu rồi cho tôi vào nhóm.Ngoài nhóm bạn của anh ,tôi còn biết đến những

người làm văn nghệ như Mường Mán, Từ Hoài Tấn, Nguyễn Miên Thảo, Lê Bá Lăng, Hồ Minh Dũng, Lương Viết Khiêm, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ…

   Nhờ trái tim và đầu óc trời cho mà chỉ 2 năm sau là tôi thay thế chỗ anh tôi để miệt mài lo tờ báo viết tay ấy.Vừa học, vừa đi dạy kèm vừa sáng tác, tôi đã tự mình đi vào các tạp 

 Chí thời ấy như Văn Học,Văn, Thời Nay, Bách Khoa…mà không thông qua một người nào giới thiệu.Thật hạnh phúc khi thấy báo đăng thơ mình vừa phát hành còn thơm mùi giấy mực…

Đặc biệt là 3 người rất ấn tượng với tôi.Đó là chị Lê Thị Ái Niệm ,anh Lê Bá Lăng và anh Lương Viết Khiêm.Chị Niệm là chị con cô ruột của tôi.Hồi đó chị cũng tập tành làm thơ và cũng tham gia thi văn đoàn Mây Ngàn.Hai chị em thương yêu nhau như là tri kỷ.Lúc đó chị học trường nữ Trung Học Đồng Khánh.Nhà ở quê chỉ đèn dầu tù mù nhưng đêm đêm tôi và chị thường trao đổi chuyện thơ văn.Có khi say mê viết, muỗi cắn không cần biết.Sau năm 68 chị theo gia đình vào Đà Nẵng nhưng không quên đứa em con cậu ruột.Thơ chị viết bằng trái tim nên dễ đi vào lòng người đọc:THƠ LÊ THỊ ÁI NIỆM

         TIỄN ĐƯA

         Tin em đi chị bỗng buồn như biển

         Trời thu mưa hiu hắt mấy dặm xa

          Áo sờn vai mưa thơ em có ướt

         Bến sông nào em dừng nhớ quê xưa?

 

          Mai em đi gầy gò thân lữ thứ

          Tiễn đưa em có lá rụng ven sông

          Em đi rồi ai làm thơ chị đọc

          Suốt một đời chị làm bến trông mong

 

          Dăm ba người thân bỏ đi trăm ngả

          Mùa thu nào cũng vàng lá chia ly

          Chị ngồi lại bên bờ thương nhớ cũ

         Giọt nước mắt nào thầm đưa tiễn người đi

 

          Mai em đi vui với khung trời rộng

          Đem tim lòng hòa điệu với đại dương

          Hát vỡ cổ những khúc tình ca biếc

          Hãy yêu người như chị đã yêu em…

 

          Người thứ 2 tôi muốn nhắc đến là anh Lê Bá Lăng.Nhà anh ở chợ Vỹ Dạ.Quen nhau cũng nhờ đọc báo cọp ở nhà sách đối diện chợ Vỹ Dạ.Nơi này tôi còn gặp và quen cả Viêm Tịnh, Võ Công Liêm.Nhà sách này là của bố hai anh ấy.( Vừa là tiệm vàng vừa nhà sách).Anh Lăng là nhà giáo rất nghiêm túc nhưng tâm hồn thì rất phóng khoáng.Nhà anh là chỗ trú cho anh em văn nghệ mà tôi là “ủy viên thường trực” ngủ nhờ…Tôi còn nhớ Hồ Minh Dũng ,em rễ của anh ) Lê Khắc Cầm, Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư.Hồi ấy có thanh niên nào lớn lên mà không trăn trở về Quê Hương , Đất Nước  khi không bình yên nhỉ ? Kỷ niệm khó quên nhất là có một đêm Trần Hoài Thư từ Quy Nhơn  về thăm rồi ngủ lại.Sau khi nhâm nhi cà phê, nhắc chuyện văn nghệ ,3 anh em ( LBL, THT và tôi ) cùng viết bài gửi cho tạp chí Văn ở SG. Và cả 3 đều được Văn giới thiệu trang trọng.Mẹ  và anh Lê Bá Lăng rất thương tôi.Suýt là em rễ anh ấy.Điều tôi không tin mà đã chứng nghiệm.Có lần tôi rủ L, em  gái anh Lăng lên chùa Thiên Mụ …và sau đó thì chia xa biền biệt!

 Anh LBL không chỉ làm thơ mà còn viết truyện nữa.Truyện thì không thể trích ra đây nên tôi post một bài thơ của anh:

          

Lê Bá Lăng

 

Nuôi

 

bây giờ ta nuôi tình yêu em bằng nỗi nhớ

nỗi nhớ đã khiến ta nhắc tên em nhiều lần

mỗi ngày mỗi đêm

mỗi khi ăn cơm

mỗi lần uống nước

mỗi khi cầm súng đứng canh

mỗi khi nằm ngủ dưới hào

mỗi lần soi gương

mỗi khi muỗi cắn

 

bây giờ ta nuôi ước vọng ta bằng mồ hôi

mồ hôi đã làm mỏi tay ta

đã làm sạm mặt ta

đã giết chết thơ ta

đã làm hôi hám ta

 

bây giờ ta nuôi căm thù cho quê hương ta bằng nước mắt

nước mắt đã khiến ta phiền muộn

 

đã làm ta đau thương

nước mắt đã làm cho ta khóc bạn bè

khóc mẹ cha

khóc nhà tan cửa nát

 

và bây giờ ta chỉ còn biết nuôi tình yêu em bằng nỗi nhớ

nuôi ước vọng ta bằng mồ hôi

và nuôi căm thù cho quê hương ta bằng nước mắt.

 

    Sau anh Lê Bá Lăng, tôi không thể không nhắc đến anh Lương Viết Khiêm.Cũng là một nhà giáo nhưng sống hết mình.Cháy hết mình khác nào que diêm sinh chờ ngún, mà tôi và bạn bè hay đùa là  M.113.

    Anh học giỏi và là người đi dạy rất sớm.Khi tôi đang còn mài đũng quần ở trường Nguyễn Tri Phương thì anh đã là giáo sinh vào thực tập ở đây.Một buổi thực lớp đệ ngũ A 2 anh hỏi: Ở đây có em nào viết trên tạp chí Văn  lấy bút hiệu là Trần Dzạ Lữ? ( Tôi đoán không lầm là anh hỏi báo chí )Tôi rụt rè giơ tay.Anh bước đến bắt tay và giới thiệu với cả lớp: Em này làm thơ hay đấy. Từ buổi thực tập tôi và anh có những giao tình cũng rất hay.Nhà ba mẹ anh ở Vân Dương nhưng anh có một căn phòng riêng ở sát bờ Đập Đá.Tôi cũng thường hay lui tới.Hồi ấy nghe đâu anh cũng đã có một nhóm văn nghệ với nhà văn Trần Duy Phiên.Tôi cũng có một  mối tình không may với LTTB, em gái của anh.Thơ anh cũng như người anh đầy triết lý hiện sinh.Anh khoái J.P Satre là thế.Tôi thích những bài 4 câu của anh  ý tại ngôn ngoại :

    Người thì làm thơ thật

Ta thì làm thơ chơi

Mượn tạm trang giấy trắng

Cho thơ có chỗi ngồi ( Bài Tự Bạch )

Hay:

 Ta thả tình ta xuống biển em

Mênh mông sóng nước biết đâu tìm

Cuối nẻo trần gian sông biển cạn

Ta vớt tình lên đâu thấy em( Bài Thả Tình )

Hoặc:

   Dừng ngay từ dấu hỏi

   Vì không  thể trả lời

   Đã đánh mất tiếng nói

  Tôi gật đầu với tôi ( Bài Độc Thoại )

  Tôi thích tính cách của anh.Nhân hậu và bao dung.Vì thế anh rất nhiều bạn.

      Một người tôi muốn nhắc đến là Võ Quê.Bạn ở Quãng Trị  song gốc gác là làng Chuồn-An Truyền ( Vào Huế học ).Cũng tham gia vào tờ Mây Ngàn.Thơ bạn ấy đầy lửa đấu tranh.Lúc giao tình bạn hay nhắc về nhà thơ Ngô Kha( bạn mê anh Ngô Kha thì đúng hơn )Chúng tôi hay ngồi cà phê Lạc Sơn.Có khi gặp cả anh Ngô Kha ( anh cũng rủ tôi tham gia tranh đấu) Tôi cười cười bảo là thích thuần túy văn nghệ thôi.Võ Quê có chí hương riêng.Tôi vẫn tôn trong bạn. Và thích bài thơ:

 

 Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa!

khi mùa đông rớt xuống vai người 
chiếc lá vàng khô chết hồn vui 
lòng em có đau ơi người tù thiếu nữ 
manh áo nâu bùn em 
nép mình đằng sau cánh cửa 
những cánh cửa chua ngoa 
giam hãm bóng chim hiền 

giọt nước mắt em rưng rức từng đêm 
ta biết em đang vo thành lửa bỏng 
ngày em đến đây 
ngờ nghệch vô cùng 
tội tình gì 
một sáng ven sông 
lũ chúng bạo hành em 
lưỡi lê ghìm đầu súng 
mẹ rên xiết gào lên uất hận 
con tôi! tội nghiệp con tôi 
Hai ơi con đã đi rồi 
vườn hoang cỏ cháy mẹ ngồi khóc con 

từ đó không còn bay áo mỏng 
trên quê hương hào khí ngất Trường Sơn 
trong khám lạnh lòng càng cao căm phẫn 
em lớn khôn theo chí căm hờn 

em đang mơ ngày bứt xiềng bạo lực 
đời hồn nhiên hoa bướm thong dong 
sau cánh cửa nhà giam nụ cười thơm giấy mực 
tiếng hát em về réo rắt giòng sông 

ơi người tù thiếu nữ trưa nay 
đang quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi 
hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng 
ta biết lòng em đang rực hồng biển lửa 
chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên 
Chí Hòa Tân Hiệp Côn Sơn 
cuồng phong Thừa Phủ cuốn tan ngục tù 
mắt em sáng nắng mùa thu 
tình long lanh ý ngoc 
em đang mơ ngày bạo quyền ngã gục 
xác chúng phơi trên ngưỡng cửa đề lao 
kiêu hùng tóc biếc bay cao 
em tung nón rách 
em gào tự do! 

ngày mai trên những chuyến đò 
có cô con gái học trò sang sông 
áo bay thơm má em hồng 
cờ vươn cao ngọn gió 
Thừa Phủ ơi! Thừa Phủ ơi! 
Lòng ta hồng biển lửa! 

 

     Và có một chàng trai gốc Quãng Nam khiến tôi khó quên đó là Tần Hoài Dạ Vũ.Thập niên 60 anh anh về Huế học Quốc Học.Đệ Tam là anh đã có thơ đăng  trên các tạp chí ở SG.Đặc biệt là thơ tình.Lúc này mà giọng điệu thơ anh như vậy là rất mới và thi cảm đầy hồn vía.Tôi rất thích.Huể nhỏ nên đi lui đi tới rồi cũng quen nhau.Tôi thích nhất là 2 bài DI NGÔN và HẸN VỀ VỚI HUẾ.

 

THƠ TẦN HOÀI DẠ VŨ

DI NGÔN

 

Rồi anh sẽ gối đầu lên giấc mộng

ngủ quên đời trong giường mộ bình yên

em hãy khuấy hai tay làm biển động

che giùm anh tiếng đại bác vang rền

 

Xin em hãy liệm anh bằng tiếng hát

đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn

cho anh quên những xác người tan nát

những kẽm gai còn rào kín tâm hồn

 

Em có nhớ, thắp hương bằng nước mắt

ngọt vô cùng anh sẽ uống no say

để anh quên chuyện trần gian đói khát

chén cơm đen muối mặn nuốt qua ngày

 

Và em hãy viết thư bằng cổ tích

đừng nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù

anh sẽ tưởng hồn anh không xiềng xích

bay tìm em dù gió cát, sương mù

...
 

Trần Dzạ Lữ
Số lần đọc: 2681
Ngày đăng: 13.11.2016
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Dọc đường văn nghệ của tôi - Hồi ức (tiếp phần 3) - Trần Dzạ Lữ
Ghi chép Oktober - 2016 - Nguyễn Hồng Nhung
Nhớ Muối - Nguyễn Hàng Tình
Dấu xưa Tuy Phong - Phan Chính
Ngọc trong đá - Nguyễn Thanh
Rừng trong phố - Minh Tứ
Ghi chép Március - 2016 - Nguyễn Hồng Nhung
Trần Dzạ Lữ - Nhật ký hành trình Tuy Hòa - Phú Yên, một lần đến... - Trần Dzạ Lữ
Ngày Hạ Xanh Cabramatta - Phạm Nga
Shiva Bạc Phơ Trong Panduranga - Nguyễn Hàng Tình
Cùng một tác giả
Hương cau quê nhà (truyện ngắn)
Cắt (thơ)
Thư Gửi Chị (tạp văn)
Liếc (thơ)
Nhớ (thơ)
Chờ O (thơ)
Khát (thơ)
Câm (thơ)
Nhớ Bạn (tạp văn)
Tát (thơ)
Cần (thơ)
Tím Nhớ (tạp văn)
Dắt (thơ)
Nhốt (thơ)
Chìa (thơ)
Trượt (thơ)
Trộn (thơ)
Bắt (thơ)
Xa cách (thơ)
Chặt (thơ)
Lấn (thơ)
Cách ly (thơ)
Quỳ (thơ)
Tôi (thơ)
(thơ)
Hoa cà (thơ)
(thơ)