Ở HUẾ
Từ thập niên 60, nghĩa là lúc đó tôi khoảng 14 tuổi.Vậy mà không hiểu sao tôi luôn trăn trở về phận người và mê hai câu thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương như điếu đổ:
….Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ , giống nòi khinh…
Và càng thấm thía hơn khi ghiền “Đoạn Trường Tân Thanh” của thi hào Nguyễn Du.
Càng đọc càng soi và càng thấy:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…( truyện Kiều )
Thời gian này chiến tranh đang manh nha để gặm nhấm hai miền Nam Bắc.
Tôi ở vùng “xôi đậu” nên đêm đêm phải lên ngủ nhờ nhà anh LêBáLăng, là thầy giáo
là bạn văn nghệ của tôi ở Vỹ Dạ.Thời gian này anh tôi thành lập Thi Văn Đoàn Mây Ngàn.
Báo tự chép tay quy tụ một nhóm bạn bè Quốc Học.Nội dung họ viết là những thao thức
đầy nhân bản về Tình yêu Quê Hương, Đất Nước.Thấy họ nhóm họp, trao đổi văn chương mỗi cuối tuần mà tôi háo hức đến lạ.Thế rồi một ngày tôi đưa bài thơ cho anh ấy xem.Anh gật đầu rồi cho tôi vào nhóm.Ngoài nhóm bạn của anh ,tôi còn biết đến những
người làm văn nghệ như Mường Mán, Từ Hoài Tấn, Nguyễn Miên Thảo, Lê Bá Lăng, Hồ Minh Dũng, Lương Viết Khiêm, Võ Quê, Tần Hoài Dạ Vũ…
Nhờ trái tim và đầu óc trời cho mà chỉ 2 năm sau là tôi thay thế chỗ anh tôi để miệt mài lo tờ báo viết tay ấy.Vừa học, vừa đi dạy kèm vừa sáng tác, tôi đã tự mình đi vào các tạp
Chí thời ấy như Văn Học,Văn, Thời Nay, Bách Khoa…mà không thông qua một người nào giới thiệu.Thật hạnh phúc khi thấy báo đăng thơ mình vừa phát hành còn thơm mùi giấy mực…
Đặc biệt là 3 người rất ấn tượng với tôi.Đó là chị Lê Thị Ái Niệm ,anh Lê Bá Lăng và anh Lương Viết Khiêm.Chị Niệm là chị con cô ruột của tôi.Hồi đó chị cũng tập tành làm thơ và cũng tham gia thi văn đoàn Mây Ngàn.Hai chị em thương yêu nhau như là tri kỷ.Lúc đó chị học trường nữ Trung Học Đồng Khánh.Nhà ở quê chỉ đèn dầu tù mù nhưng đêm đêm tôi và chị thường trao đổi chuyện thơ văn.Có khi say mê viết, muỗi cắn không cần biết.Sau năm 68 chị theo gia đình vào Đà Nẵng nhưng không quên đứa em con cậu ruột.Thơ chị viết bằng trái tim nên dễ đi vào lòng người đọc:THƠ LÊ THỊ ÁI NIỆM
TIỄN ĐƯA
Tin em đi chị bỗng buồn như biển
Trời thu mưa hiu hắt mấy dặm xa
Áo sờn vai mưa thơ em có ướt
Bến sông nào em dừng nhớ quê xưa?
Mai em đi gầy gò thân lữ thứ
Tiễn đưa em có lá rụng ven sông
Em đi rồi ai làm thơ chị đọc
Suốt một đời chị làm bến trông mong
Dăm ba người thân bỏ đi trăm ngả
Mùa thu nào cũng vàng lá chia ly
Chị ngồi lại bên bờ thương nhớ cũ
Giọt nước mắt nào thầm đưa tiễn người đi
Mai em đi vui với khung trời rộng
Đem tim lòng hòa điệu với đại dương
Hát vỡ cổ những khúc tình ca biếc
Hãy yêu người như chị đã yêu em…
Người thứ 2 tôi muốn nhắc đến là anh Lê Bá Lăng.Nhà anh ở chợ Vỹ Dạ.Quen nhau cũng nhờ đọc báo cọp ở nhà sách đối diện chợ Vỹ Dạ.Nơi này tôi còn gặp và quen cả Viêm Tịnh, Võ Công Liêm.Nhà sách này là của bố hai anh ấy.( Vừa là tiệm vàng vừa nhà sách).Anh Lăng là nhà giáo rất nghiêm túc nhưng tâm hồn thì rất phóng khoáng.Nhà anh là chỗ trú cho anh em văn nghệ mà tôi là “ủy viên thường trực” ngủ nhờ…Tôi còn nhớ Hồ Minh Dũng ,em rễ của anh ) Lê Khắc Cầm, Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư.Hồi ấy có thanh niên nào lớn lên mà không trăn trở về Quê Hương , Đất Nước khi không bình yên nhỉ ? Kỷ niệm khó quên nhất là có một đêm Trần Hoài Thư từ Quy Nhơn về thăm rồi ngủ lại.Sau khi nhâm nhi cà phê, nhắc chuyện văn nghệ ,3 anh em ( LBL, THT và tôi ) cùng viết bài gửi cho tạp chí Văn ở SG. Và cả 3 đều được Văn giới thiệu trang trọng.Mẹ và anh Lê Bá Lăng rất thương tôi.Suýt là em rễ anh ấy.Điều tôi không tin mà đã chứng nghiệm.Có lần tôi rủ L, em gái anh Lăng lên chùa Thiên Mụ …và sau đó thì chia xa biền biệt!
Anh LBL không chỉ làm thơ mà còn viết truyện nữa.Truyện thì không thể trích ra đây nên tôi post một bài thơ của anh:
Lê Bá Lăng
Nuôi
bây giờ ta nuôi tình yêu em bằng nỗi nhớ
nỗi nhớ đã khiến ta nhắc tên em nhiều lần
mỗi ngày mỗi đêm
mỗi khi ăn cơm
mỗi lần uống nước
mỗi khi cầm súng đứng canh
mỗi khi nằm ngủ dưới hào
mỗi lần soi gương
mỗi khi muỗi cắn
bây giờ ta nuôi ước vọng ta bằng mồ hôi
mồ hôi đã làm mỏi tay ta
đã làm sạm mặt ta
đã giết chết thơ ta
đã làm hôi hám ta
bây giờ ta nuôi căm thù cho quê hương ta bằng nước mắt
nước mắt đã khiến ta phiền muộn
đã làm ta đau thương
nước mắt đã làm cho ta khóc bạn bè
khóc mẹ cha
khóc nhà tan cửa nát
và bây giờ ta chỉ còn biết nuôi tình yêu em bằng nỗi nhớ
nuôi ước vọng ta bằng mồ hôi
và nuôi căm thù cho quê hương ta bằng nước mắt.
Sau anh Lê Bá Lăng, tôi không thể không nhắc đến anh Lương Viết Khiêm.Cũng là một nhà giáo nhưng sống hết mình.Cháy hết mình khác nào que diêm sinh chờ ngún, mà tôi và bạn bè hay đùa là M.113.
Anh học giỏi và là người đi dạy rất sớm.Khi tôi đang còn mài đũng quần ở trường Nguyễn Tri Phương thì anh đã là giáo sinh vào thực tập ở đây.Một buổi thực lớp đệ ngũ A 2 anh hỏi: Ở đây có em nào viết trên tạp chí Văn lấy bút hiệu là Trần Dzạ Lữ? ( Tôi đoán không lầm là anh hỏi báo chí )Tôi rụt rè giơ tay.Anh bước đến bắt tay và giới thiệu với cả lớp: Em này làm thơ hay đấy. Từ buổi thực tập tôi và anh có những giao tình cũng rất hay.Nhà ba mẹ anh ở Vân Dương nhưng anh có một căn phòng riêng ở sát bờ Đập Đá.Tôi cũng thường hay lui tới.Hồi ấy nghe đâu anh cũng đã có một nhóm văn nghệ với nhà văn Trần Duy Phiên.Tôi cũng có một mối tình không may với LTTB, em gái của anh.Thơ anh cũng như người anh đầy triết lý hiện sinh.Anh khoái J.P Satre là thế.Tôi thích những bài 4 câu của anh ý tại ngôn ngoại :
Người thì làm thơ thật
Ta thì làm thơ chơi
Mượn tạm trang giấy trắng
Cho thơ có chỗi ngồi ( Bài Tự Bạch )
Hay:
Ta thả tình ta xuống biển em
Mênh mông sóng nước biết đâu tìm
Cuối nẻo trần gian sông biển cạn
Ta vớt tình lên đâu thấy em( Bài Thả Tình )
Hoặc:
Dừng ngay từ dấu hỏi
Vì không thể trả lời
Đã đánh mất tiếng nói
Tôi gật đầu với tôi ( Bài Độc Thoại )
Tôi thích tính cách của anh.Nhân hậu và bao dung.Vì thế anh rất nhiều bạn.
Một người tôi muốn nhắc đến là Võ Quê.Bạn ở Quãng Trị song gốc gác là làng Chuồn-An Truyền ( Vào Huế học ).Cũng tham gia vào tờ Mây Ngàn.Thơ bạn ấy đầy lửa đấu tranh.Lúc giao tình bạn hay nhắc về nhà thơ Ngô Kha( bạn mê anh Ngô Kha thì đúng hơn )Chúng tôi hay ngồi cà phê Lạc Sơn.Có khi gặp cả anh Ngô Kha ( anh cũng rủ tôi tham gia tranh đấu) Tôi cười cười bảo là thích thuần túy văn nghệ thôi.Võ Quê có chí hương riêng.Tôi vẫn tôn trong bạn. Và thích bài thơ:
Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa!
khi mùa đông rớt xuống vai người
chiếc lá vàng khô chết hồn vui
lòng em có đau ơi người tù thiếu nữ
manh áo nâu bùn em
nép mình đằng sau cánh cửa
những cánh cửa chua ngoa
giam hãm bóng chim hiền
giọt nước mắt em rưng rức từng đêm
ta biết em đang vo thành lửa bỏng
ngày em đến đây
ngờ nghệch vô cùng
tội tình gì
một sáng ven sông
lũ chúng bạo hành em
lưỡi lê ghìm đầu súng
mẹ rên xiết gào lên uất hận
con tôi! tội nghiệp con tôi
Hai ơi con đã đi rồi
vườn hoang cỏ cháy mẹ ngồi khóc con
từ đó không còn bay áo mỏng
trên quê hương hào khí ngất Trường Sơn
trong khám lạnh lòng càng cao căm phẫn
em lớn khôn theo chí căm hờn
em đang mơ ngày bứt xiềng bạo lực
đời hồn nhiên hoa bướm thong dong
sau cánh cửa nhà giam nụ cười thơm giấy mực
tiếng hát em về réo rắt giòng sông
ơi người tù thiếu nữ trưa nay
đang quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi
hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng
ta biết lòng em đang rực hồng biển lửa
chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên
Chí Hòa Tân Hiệp Côn Sơn
cuồng phong Thừa Phủ cuốn tan ngục tù
mắt em sáng nắng mùa thu
tình long lanh ý ngoc
em đang mơ ngày bạo quyền ngã gục
xác chúng phơi trên ngưỡng cửa đề lao
kiêu hùng tóc biếc bay cao
em tung nón rách
em gào tự do!
ngày mai trên những chuyến đò
có cô con gái học trò sang sông
áo bay thơm má em hồng
cờ vươn cao ngọn gió
Thừa Phủ ơi! Thừa Phủ ơi!
Lòng ta hồng biển lửa!
Và có một chàng trai gốc Quãng Nam khiến tôi khó quên đó là Tần Hoài Dạ Vũ.Thập niên 60 anh anh về Huế học Quốc Học.Đệ Tam là anh đã có thơ đăng trên các tạp chí ở SG.Đặc biệt là thơ tình.Lúc này mà giọng điệu thơ anh như vậy là rất mới và thi cảm đầy hồn vía.Tôi rất thích.Huể nhỏ nên đi lui đi tới rồi cũng quen nhau.Tôi thích nhất là 2 bài DI NGÔN và HẸN VỀ VỚI HUẾ.
THƠ TẦN HOÀI DẠ VŨ
DI NGÔN
Rồi anh sẽ gối đầu lên giấc mộng
ngủ quên đời trong giường mộ bình yên
em hãy khuấy hai tay làm biển động
che giùm anh tiếng đại bác vang rền
Xin em hãy liệm anh bằng tiếng hát
đắp mặt anh bằng mái tóc em buồn
cho anh quên những xác người tan nát
những kẽm gai còn rào kín tâm hồn
Em có nhớ, thắp hương bằng nước mắt
ngọt vô cùng anh sẽ uống no say
để anh quên chuyện trần gian đói khát
chén cơm đen muối mặn nuốt qua ngày
Và em hãy viết thư bằng cổ tích
đừng nhắc chuyện quê hương chinh chiến hận thù
anh sẽ tưởng hồn anh không xiềng xích
bay tìm em dù gió cát, sương mù
...