Không một chữ, ừ. Không một chữ.
Giấy trắng trước mặt. Tôi bấm bút, ngoáy thử. Chưa chữ nào chịu phun xuống mặt giấy dù mực vẫn ăm ắp trong ruột. Bút bi màu đỏ, thứ bút dùng để chấm điểm và viết lời phê. Tôi không cố tình chọn màu mực này. Nhiều năm qua, tôi dùng mực đen. Chữ trên giấy phải luôn màu đen. Màu xanh thì đẹp. Xanh dương hoặc xanh cây cỏ, sắc biếc sậm của biển hiền, phù chú của vàng, tím, hồng, chàm, nâu đất, trắng bông gòn…cũng là lựa chọn không tồi với mỗi họa sỹ. Nhiều tranh lấy trắng làm áo khoác, cũng trắng là màu của trinh tiết sương mù, của cõi tuyệt âm tuyệt mù tuyệt náu, và trắng chỉ như lát tuyết ngắn, một dấu chân, kẽ nứt của sự sống trên bầu trời ngùn ngụt đủ thứ màu loang vỡ trong hố sâu. Vàng, của hoàng gia, của kim quang đất Phật, cũng vàng nhấn chìm mọi thủ phủ chọc trời trong sắc rữa, ủng ôi của xác mẹ vắng con. Đen, vật choàng ám muội, phù chú của yêu ma nhưng cũng đen đấy, an toàn, bình yên và bí hiểm, gọi thức lòng can đảm dũng sỹ phải liều mình khám phá từng lớp từng lớp. Người sống sợ màu đen nhưng chỉ ngủ say khi đen đã buông màn. Đêm sục ngầu và cũng trắng. Thực ra nếu đêm đã há hàm, cách ly vạn thằng người trong phòng hơi ngạt thì đỏ cũng khiến mắt mất sáng.
Tôi chưa từng vẽ, chỉ viết.
Tôi từng viết rất nhiều. Gan lì tôi luyện mình trước khi ra những trang bản thảo, khuôn đúc thành sách và chường mặt ngoài cuộc đời. Một bản thảo thường chấm dứt số phận cậu ấm khi đã thành sách. Những đầu sách vào lửa khi vừa chào đời, cũng lắm sách biến dạng, lở loét, sách được nựng, rồi sách bị truy sát, hỏa táng và cấp số nhân trong những xưởng in( bất hợp pháp) vì con người.
Trí óc tôi minh mẫn, nửa giờ trước tôi đã uống rượu. Rượu Xo nhắm cùng đĩa tôm khô. Tôi bật nhạc. Nhạc tôi chọn là những âm thanh của rừng của núi, tiếng sóng vỗ, gió thổi, lá reo vui được thâu lại. Thứ nhạc này giúp bữa nhắm ngon lành hơn. Bữa trước tôi uống rượu cùng chút đồ nướng mua từ nhà hàng danh giá nhất thành phố. Tay dĩa tay dao, tôi xắt nhỏ miếng thịt. Hớp một ngụm rồi nhai một miếng. Nhai thật chậm, tôi gắng quên tạp âm phía ngoài. Đĩa nhạc phát một bản mưa. Cơn mưa rừng nhiệt đới. Những giọt va mạnh xuống cây, khoét xuống đất bùn. Sẽ tuyệt vời nếu xong bữa, tôi viết được gì đấy. Giấy trước mặt, bút trước mặt. Giấy trắng.
*
Viết đi nào. Tôi cố ừ, thôi thúc mình. Tôi hút xì gà. Xơi một điếu, tôi thấy sảng khoái. Chất kích thích sóng não phải làm việc. Hơi thuốc quyến luyến lúc lâu rồi tan vào khí quyển. Tôi đương nghĩ sẽ viết về gì đấy. Cái gì nhỉ, tôi chưa hình dung ra.
Lật lại nhiều năm lịch chất rác trong quá khứ, tôi thấy mình từng viết rất hăng. Vẫn một căn phòng, vẫn mùi thuốc vẩn không khí và vẫn cái bàn với giấy trắng, bút bi. Lắm lúc tôi viết nhằm giảm tải những chướng vật quá ngổn ngang trong đầu, viết bởi cơn nhức lồng ngực, viết sau khi ngốn ngấu một chồng sách, chữ của thế nhân thấu thẳng vào óc, bồi bổ và thách thức tôi lấp đầy giấy trắng bằng ngôn ngữ riêng mình. Một thời gian, đầu tôi rỗng như cái ly úp ngược xuống đất, ừ, tôi không quên mình từng mút ngón tay qua ngày, ngậm đến nhăn nhúm, vẫn chẳng thấy giọt mật nào, trí lực như cái túi thủng. Viết, tôi chẳng biếng. Đói sách và đói viết, hai bi kịch của mỗi thằng chữ. Bấy giờ tôi bạc đãi mình quá, bao nhiêu tiền nướng sạch vào những chồng sách vỉa hè. Khát sách như con bạc, tên ngáo kinh niên. Tôi thấy ngạt và tìm khí thở trong sách, uống từng dòng từng dòng. Nếu giấy ăn được khéo tôi sẽ chén sau khi hút cạn mật.
Trước mặt tôi là một tủ sách, sau lưng cũng tủ sách lớn. Ngày đấy, tôi từng mong có một cái tủ cao chạm trần, trên mỗi ngăn ních đủ thứ sách. Phải là sách gáy dày, nhiễm bụi trăm năm. Triết học, tôn giáo hay văn chương không phải ưu tiên hàng đầu. Lắm lúc tôi bày sách khắp nhà, chất sách cả lên bàn thờ và làm gãy cánh tổ tông. Sau cái cúi xưng tội, tôi vớt sách lên, ừ, sách vướng tàn hương. Nếu bụi là dấu tích thời gian thì tàn hương là vết linh hồn. Tằng tổ nhà tôi đã lần tay, và sách được thương, được trân quý thêm một lần. Bởi sách bày khắp nơi, xếp thành chồng, thành dãy, vây quanh tôi tứ phía nên xẩy chân là vấp ngã. Ngã xuống sách, tấm thảm chữ, êm và dịu ngọt như ngả vào cơ thể thánh nữ. Khoái lắm những cuộc ăn chữ miên viễn hết tối lại ngày. Tôi đọc đến mờ mắt. Trong mơ tôi mộng thấy mình mỏng dính, được đóng vào một cuốn sách.
Thời gian cháy xèo xèo khiến tôi chỉ mong mình có phép co giãn thời gian, cuồng đồ hơn là giấc mơ đóng băng cả thế giới, chỉ tôi với sách tồn tại, yêu nhau và cấy giống nhau bằng những bản thảo kìn kìn chữ. Một ai từng bảo rằng chỉ muốn bôi mực khắp mình và lăn trên giấy.(1) Tôi không đồng thuận với quái ý này. Với tôi lão râu rậm, mũi lõ nào cũng chỉ là món thiên thực, thứ rượu nho ngàn năm chưng cất nơi bầu sữa Gaia. Xơi từng trang từng trang, tôi thèm ăn thêm, no nữa, no nữa và khi gân cốt đủ nóng, cơ bắp căng quá độ, những sợi thần kinh nóng bỏng đòi một trận điên, tôi húc mình xuống giấy. Giấy rũ sẵn váy, đợi chờ tráng sỹ ngày rỉ máu. Đọc, chỉ rèn ra một vũ khí, một giáp trụ liền mình với ngựa chiến đầu sừng. Viết thì khác, một đấu trường. Nơi đấy, nhà văn đối đầu với những gã khổng lồ trong số sách mình đã nhai nuốt. Gục rồi đứng. Lắm lúc trong đường gươm sắc chẻ đôi vũ trụ, thiến hết Hoàng Đạo tinh, y, thằng viết bắt gặp tiếng Chúa chết, gã mù trong pháo đài sách, tên ngậm tẩu nôn nao(2), ừ, tôi từng mắc kẹt trong mớ dây chằng bằng tơ tằm. Tơ này bền, dai và không sắc nhưng cứa được. Cưỡi trên mình con trâu đen, tôi bẻ sừng, vặn nó theo lối chỉ dẫn. Bộ guốc quăng quật, hất mạnh cái đầu sừng, tôi văng đi. Trong rối bời, tôi ợ một mẩu giấy, nhai, nhai mãi cho đến khi giấy tan đi, ngấm từ cuống lưỡi. Trận đấu với con trâu chưa thắng bại. Con thú một nẻo, tôi một nẻo và cả hai gặp nhau trên một cây cầu. Tôi lẫn nó đối đầu một lần nữa. Kết quả là giấy trắng, đúng hơn giấy vẫn ngòm ngòm mực nhưng đấy là khoảng rỗng đầy ngờ vực. Không dấu hỏi. Một dấu phẩy ngờ vực. Tôi có lúc reo lên sau khi xong một cuốn sách, thấy mình chế ra thứ hương gây nghiện cả thế gian, buồn thay chỉ là hương liệu dùng lại. Thay vì ướp dâu tây nguyên quả, tôi ướp nửa trái dâu, quên vặt lá. Lên đạn, bắn vào một đám mây. Mây không oặt thành những hài nhi hay tái tạo lại. Mây rơi. Những miếng mây sắc như và muốt đến mức soi gương. Nhặt một miểng mây lớn nhất, Kant cười kì lạ. Mảnh mây khác, sáng quắc khuôn mặt chia đôi, một của Faust, một của Mehisto(3). Gầy nên một cơ ngơi, tôi bỏ trống gian thờ. Lời nào trong sách rằng, đừng tận tin gì ngoài chân lý sau sương mù. Vác thập tự không phải lựa chọn bắt buộc. Thập giá có thể chẻ đóng thuyền, đóng cầu thang, làm củi đun nước thánh hay từ khối gỗ ruột đặc, tôi nhóm lửa cứu mình cứu những tha nhân co giật. Chân lý là thứ theo đuổi chứ không phải vật sở hữu. Chân lý nào nắm được trong tay, sẽ thành tà thuyết.
Chưa chữ nào. Và giấy trắng.
Tôi tính đặt một câu, câu gì, câu đơn hay ghép. Thử một chữ cái. Tôi viết rồi xóa lem nhem. Bởi xóa quá mau, tôi quên mình viết gì.
Giấy vẫn trắng. Không ai bắt đầu bằng dấu câu cả. Dấu ngoặc được đấy. Sau ngoặc phải là chữ. Tôi nghĩ, chống cằm nghĩ. Ý tưởng bay hơi. Tôi nhìn quanh nhà.
Xóa ngoặc.
*
Sách. Tôi đọc không thấy chữ và chẳng bỏ bụng. Sách nhà tôi chất hết trong tủ. Cái tủ gỗ thật bền, có bọc giấy vàng. Tủ rất mới, kính tủ cũng sáng bong, sau kính là sách. Giấy sách thơm, giấy đẹp, mịn, hoa văn cũng đẹp. Vớ bừa một cuốn, tôi giở và thấy một trang chưa rọc. Đọc một dòng, tôi quên một dòng. Viết một dòng, tôi xóa một dòng.
Nhạc không còn hiệu lực. Trước kia tôi…Tôi từng viết trong lúc đói. Cảm giác rã ruột vẫn phải ngồi trên bàn, bị gió cắt da, khi ướt sũng dưới nắng mặt trời còn trong đầu. Cơn đói rút bao tử, tiếng ục sôi của chảo dầu. Vừa nghĩ đến một cái bánh đầy đủ pate, thịt, mẩu khúc xích lớn với ớt và nước sốt, xà lách tươi, giòn tan, tôi viết xuống. Từ ngòi bút, tôi vấy mực và soạn đại tiệc cho mình. Tôi bắn rụng một cánh phượng và nướng lên. Cục đá trong tay, tôi ném gục con trâu ngày nào. Sau món nướng, là món nướng khác. Các đầu bếp tí hon vừa nhảy nhót vừa xẻo thịt trâu. Mực đen toát mùi thơm của thịt cháy. Nằm sau lớp lông huyền đen, là thớ thịt mềm với các chữ nổi gờ như vẩy cá. Lửa nhóm hết củi, nhóm miếng thịt chữ. Miếng ăn không cần gia vị, gặm rất khoái khẩu. Cái dai không bàn, trong lúc ngấu nghiến tôi thấy điển thư trong mình dày thêm, chữ nối chữ, trang nối trang. Tôi chia thịt cho đám tí hon, chia cho những sinh linh nhỏ kéo đến bởi mùi nướng. Lông phượng chất một đống. Cây bút như đũa thần, chữ tôi kéo một phép màu. Từ đám lông, một cánh chim xuyên lên, khoét cả mây cả gió, hủy hết nắng độc tháng tư. Từ đống bầy hầy thịt, con trâu gượng dậy. Thịt rơi lả tả, chỉ còn xương. Khung xương trắng, chi chít chữ viết. Cái sừng lắc lư, rồi con thú cũng đi. Bộ guốc vừa như khuất khỏi tôi vừa như đi vào đầu tôi. Cánh rừng cao lên, ngọn núi chữ đồ sộ. Đền vàng cháy xa xa. (4)
Tôi chắc lúc đấy mình viết nhiều vì đói. Viết không cứu đói, viết giúp tôi quên đi những thèm muốn phàm tục.
Tôi bỏ đói mình và suýt ngã gục. Một bữa thịnh soạn với đủ loại dưỡng chất, rượu ngon và đá lạnh. Tôi ních no mình. Cái bụng lớn dần lên và căng cứng. Cây viết trên bàn, giấy trên bàn. Giấy trắng, tuyệt không một vân chữ.
No quá, tôi muốn ngủ. Những tháng này hễ no là tôi ngủ. Giấc thật sâu. Tôi đã ngủ, đúng hơn, chỉ lịm đi. Không có lấy một giấc mơ ngắn. Không ý tưởng, không tưởng tượng, không mơ. Tôi thường đắn đo giữa viết và mơ luôn có mối liên kết, tương hỗ nhau. Trí tưởng tượng là hiện thực của mọi hiện thực đời sống. Thứ hiện thực bị giấu che trong cái bóng không ai nhìn. Quấn-Quýt cũng như một trạng huống trăn lấy bản ngã mình. (5) Một cuốn sách bay được, trước hết kẻ viết ra nó đã có một trí óc quái đản, thích mộng du lúc thức và luôn mơ giấc chẳng lành.
Quên đi giấc mơ khi vừa tỉnh dậy với lý do trí nhớ chẳng mấy thuyết phục. Sự thật thì tôi chẳng cảm giác mình đã mơ. Giấc rất đều, êm trong bình yên. Thứ khoái cảm bị rượt đuổi, bị nắm gáy, ném đi, sự thoi thóp khi mở một căn phòng chỉ tìm thấy đủ thứ chìa khóa mở những căn phòng khác xuyên vào lâu đài, cái cẫng mình hồi hộp, tróc da gà đòi thoát mộng bằng cú nảy bật khỏi chỗ nằm, đâu rồi sự vã mồ hôi lạnh, những tín hiệu may rủi khi rụng răng rụng tóc, nhện đốt, rắn nuốt, bay lên và tan chảy dưới xe ngựa…không thấy nữa. Giấc ngủ lành. Có lúc tôi ngủ dài, say sưa cả ngày trời. Ngủ dai dẳng đến mức khi tỉnh lại thấy khô khan. Óc tôi không nặng nhưng cứ ù ù, như có ai đang thổi tù và trong đầu. Tiếng tù rất to nhưng không rõ âm, chỉ biết nghe chối, vừa lù phù vừa ong ong như mấy ông già hết hơi thao thao chủ nghĩa xã hội. Chân tay rã rời, buồng tim tôi loạn nhịp. Tỉnh táo lại, tôi bước vào bàn và chẳng viết được gì. Những dòng viết bạt mạt rồi cũng bị xóa sổ.
Tôi từng viết rất mau về tình trạng bươm nát. Đôi phút rỗng ruyếch khô hết ý tưởng cũng giúp tôi viết ra trường đoạn hàng chục trang. Bệnh trạng nào cũng là thời cơ của bút. Bội phản đâu phải xấu xa. Nếu Đại Đồng luôn là tấm giáp của Độc Tài, bần cố nông sau khi vang danh, liền chém đi bàn chân đất để viết rằng mình sinh từ trời, con của rồng của phượng của thánh, nếu cõi người mong các phép màu từ Như Lai hơn phật pháp, bất chấp việc sẽ kéo ông khỏi Niết Bàn, bắt ông phải nhập vai tượng gỗ vô tri, thì người phản người là lẽ thường. Mọi cú huýnh, nhát đâm là mồi, là thuốc dẫn giúp thằng người hết đái dầm.
Túng chữ quá, tôi sẽ lôi cổ từng cuốn sách, hớp từng ngụm chữ nhằm đắp đầy mực. Và rồi, tôi bổ mình xuống giấy. Tại sao nhỉ, giờ này giấy trắng vẫn giấy trắng. Kẻ ngang hay ô ly không quan trọng. Tôi vừa uống một ly café chồn, loại cao cấp nhất được sàng kỹ lưỡng từ cao nguyên. Rồi một tách capuchino thật đặc. Mắt tôi sáng quắc, đừng mong cơn buồn ngủ sẽ chụp xuống và tiễn tôi vào tấm rèm mông lung. Nhưng không một chữ. Cả khi tôi đánh lừa mình rằng giấy không đủ mịn hay bút quá tồi, không vừa tay, hay chăng nhai sách chưa đủ thì đấy vẫn chỉ là cắc cớ vụng về. Mất ngủ là hiệu quả của café.
Hàng tiếng trời, tôi hết gật gù lại chống cằm. Hút thêm thuốc. Và nhạc, vẫn thứ nhạc thiên nhiên được thu trong cd. Sau khi viện cớ chán chê rằng âm hưởng rừng thiếu sự tĩnh tại, tôi chuyển sang tiếng lá rơi nhẹ, bấm sang chương sóng rì rào, suối nước, sáo diều vi vu đùa cùng mây. Nhạc nhẽo không tạp âm, ừ, cánh cửa. Cửa kính nhà tôi không cách âm nhưng đủ dày để lọc hết tạp âm bên ngoài. Hễ hé mở cửa là tai sẽ chảy nước. Bấm bút, rồi bấm bút, tôi tắt béng nhạc. Tôi tỉnh táo, quanh tôi tĩnh như không gian vừa được tắm gội.
Bàn viết. Không một chữ, ừ, không một chữ.
*
Mực tôi chọn, đỏ. Tôi thường viết mực đen. Các bản nháp luôn phải màu đen, à, đen là thứ màu vĩnh viễn nhất, sách nào in ra cũng chữ đen. Viết bằng bút đen chữ không đẹp hơn, ấy chỉ là thói quen. Tôi không nhớ mình quen viết mực đen bao giờ. Giấy không lấm màu đen, thì vẫn trắng. Mực đỏ là chọn lựa của riêng tôi. Không có phá cách nào như một đầu sách chỉ viết chữ nghiêng, không chấm không phẩy không xuống dòng, nhân vật không tên. Một bản thảo chỉ với một màu chữ đỏ đậm nhạt tùy ngẫu không ấn tượng lắm dù với cá nhân tôi hay người biên tập. Trừ việc nhức mắt. Sẽ có người sẵn sàng bỏ thời gian để tô lại chữ trên bản thảo dù bằng mực xanh hay mực đen.
Cắm ngọn bút xuống giấy. Một dấu chấm đỏ. Tôi dự tính từ hạt nhân này sẽ trồng cái gì đấy. Bút cắm thế. Đầu tôi không ngổn ngang, mọi thứ còn trật tự và gọn gàng nhưng tuyệt nhiên không còn háo hức.
Dấu chấm xuyên xuống giấy, đậm và loang.
Năm…tôi đã viết về những xác cá trắng biển. Nước mắt dân nghèo không chữa nổi chất độc nạo buồng trứng. Chất trắng đùn ngày một nhiều, rộng và bao la hết mặt biển. Mùi thối dày lên thành những tầng những tầng. Không khí như bị trục vét, hóa khí độc. Một cái hít quá sâu, sẽ thở ra một cái chết. Bút cắm phập. Xác cá nổi mặt nước và nổi cao hơn mặt nước, hướng trời. Từ lưng chừng, mùi ung thối đã sát thủ nòi giống được tẩy sạch. Cá không sống lại. Xác được gói trong mây, và mây, an táng cho những sinh linh tội nghiệp. Những sinh vật biển nghe tiếng đồng loại, cũng chào biển, bay lên. Tôm, mực, sứa, sao biển, ốc nối nhau leo lên, cá voi nổi chậm còn chàng mũi kiếm phóng một đường thật dài, cá mập trắng hiền đi và bơi khỏi dòng nước uế, gia tộc bạch tuộc cũng trèo lên, mỗi xúc tu giữ một rặng san hô. Cá xuyên qua mây và biến mất. Một chốn với nước sạch và gió trời bao dung đợi cá. Nơi đấy, không có giống hai chân. Biển hết cá, cũng bay hơi, để trơ trơ giữa địa cầu một sa mạc sâu hoắm như thấu xuống Vô Gián. Hết một cây bút là một cây bút. Tôi lờ mờ nhớ mình đã viết biển dâng cao, nuốt hết mặt đất, xóa sổ giống độc ác đã hủy biển bằng chính thứ nước nồng nặc phenol. Một ngẫu đoạn, tôi viết rằng biển cạn khô sinh vật, sóng dềnh lên rác thải. Xú uế muôn nơi. Xác người chết trôi ngổn ngang. Không còn cá, xác chỉ nuôi ra giòi. Và giòi, khi no bụng sẽ hóa ruồi. Và ruồi, bay kín trời đất, nhấm nháp mọi thứ còn sót lại. Biển cạn nước, chỉ rác đùn lên những pháo đài lớn. Đấy, vương quốc mới, triều đại mới của dòng Diptera. Trời đất chỉ thấy ruồi. Tiếng vù vù, bóng đen cả hành tinh. Chữ được nhuộm đen, cứ vậy đâm xuống giấy. Chữ chồng chữ, cộn hải triều. Tôi như viên đường, kích dụ loài kiến đạn kéo đến xé phanh. Ngón tay tôi run run, có lúc cứng đơ rồi thì ngón tay rỉ máu. Lúc đấy, tôi mong mình có một cây bút không bao giờ hết mực cùng xấp giấy vô tận, hết lại có. Viết hết giấy trắng, tôi viết xuống bàn, ghi chép khắp mọi nơi trong phòng. Lắm khi tôi mong có thể viết lên chính cơ thể mình. Để chữ phá khỏi nòng bút, xăm vào da, thấu đến xương. Khi tôi chết, họ sẽ tìm thấy một cái xác đầy chữ như cuốn sách da người.
Dấu đỏ lớn lắm. Mực lấm xuyên trang giấy. Không một chữ.
Tôi lùng sách, mở sách điên loạn như cố cướp bóc tiền của thiên hạ để xây lên triều đại mang tên mình. Kéo hết cửa kính, tôi lấy hết sách. Những tầng sách ở quá tầm với thì tôi dựng thang. Vác từng chồng từng chồng. Các ông tổ Hy Lạp, binh đoàn La Mã, Thiết Mộc Chân, tôi ném lão râu xồm lẫn Mao Trạch Đông xuống. Lôi hết thánh thần, bảy mươi hai phép biến hóa, vét sạch Mộc Tinh, Diêm Vương tinh, dải ngân hà được kéo như rút hết len trong áo, chẳng để chừa dù anh em nhà Grim hay chàng thủy thủ lúc tí hon lúc khổng lồ…Sách chồng lên nhau, cao dần cao dần rồi đổ ập. Thang kênh, rồi đổ nhào. Ngã, không đau, chỉ ê ẩm vì các gáy sách bìa cứng. Thời gian lúc này là ngọn nến, phải tranh thủ từng giọt sáp trước lúc ngọn đăng teo thành đống sáp xù xì.
Sách khắp nhà. Chồng cao chồng thấp, xếp thành vòng tròn, đổ dồn dưới đất như lát gạch. Đi đâu cũng dẫm phải sách. Tôi không định dọn thật gọn sách để có một lối đi, không xúc phạm con chữ. Giấy thơm, không ngái mê như số sách tôi đọc nhiều năm trước. Trong một góc nhỏ với cây đèn nhỏ, khi thì gầm cầu thang, trên căn xép cao, một góc ảm đạm trong thư viện, quán café hết thời, tôi cúi đầu xuống trang sách. Giấy vàng hoặc nhợt vàng. Mùi sách cũ với lỗ chỗ vết lủng của răng mối. Chính thứ mùi ương, mốc của thời gian này đã chuốc nghiện tôi. Thế là tôi mê mệt, chữ chui hết vào mắt, xâm chiếm não bộ và tái sinh lại các mạch máu chết. Các dòng gạch chân, khoanh vùng không khiến sách xấu đi. Nếp quăn gấp, một trang bị xé lìa nhét vào túi học là bằng chứng toàn hảo cho việc sách đã sống. Kẻ viết sách rồi sẽ quắt queo, chết xấu xí trong một cơ thể bệnh tật. Khi trút hơi tàn, hắn sẽ bị tống vào một cái hộp gỗ chữ nhật và táng xuống đất. Và sách, nếu còn được đọc, chữ được truyền qua nhiều cái đầu, nhiều cửa tim và bị tranh giành sở hữu thì đời kẻ viết đã không phí phạm.
Tôi từng ngốn không sót chữ nào. Nướng hết sách kinh điển đến tôn giáo, triết học, không buông tha hồi ký hay bút ký, chuyên luận ngắn, dài, sách phản Chúa, rồi thì triết duy vật, duy tâm, tiểu thuyết phản địa đàng. Đọc không để no, cái đọc chừng ấy cũng khác xa việc dùng tri thức để xổ hết bã cặn từ mười hai viên thuốc. Tôi chỉ biết đến sách vở, sẵn lòng bỏ sọt rác mọi vật chất, đoạn tuyệt hết quan hệ người người. Tin cậy sách vở cũng là tin cậy những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn người.
Sách mở hết ra. Chữ nghìn nghìn. Tôi đã chăm chú, nhưng chữ, oái ăm, cứ trơn đi. Quanh tôi sách là sách. Sách chất cao, nghiền mọi đồ đạc còn lại trong nhà xuống đáy. Chữ trên giấy mới, không một dấu vân tay, không nếp gấp, không cả bụi đóng. Chúng được mua và bị hắt hủi.
Quá mệt, tôi nằm lăn trên đống sách. Mồ hôi ướt sũng khắp người. Tôi thấy mệt, thấy nặng vì những múi thịt lớn, cái bụng lớn giấu đi cái rốn lồi. Tiếng tôi thở phì phò, và tiếng ngáy lớn.
*
Sách khắp nơi. Tôi khựng một chỗ, cơ thể này dốc không có gì.
*
Không còn nhạc từ đầu đĩa cd. Tôi mở cửa kính. Bởi đóng cửa quá lâu, bụi làm rít thành ra khó kéo. Dốc sức đẩy, cánh cửa chỉ dịch xê chút ít. Tiếng phía ngoài len lỏi, râm ran nhói óc. Tôi đẩy mạnh, dẫm cả vào một cuốn sách nằm dưới thềm. Giấy nhàu và bẹp dúm dưới bàn chân mập.
Cú đấm. Tiếng loảng xoảng. Từ cái ngách lớn, tôi nhìn ra ngoài.
Tiếng gì đấy, ừ, tôi đập thêm kính. Một cú, thêm một cú, mảnh kính sắc làm trầy máu. Cảnh phía ngoài thoạt tiên chỉ như khe hở, được khoét rộng ra, hệt bộ vuốt bị cắt để thấy bàn tay lành. Phía dưới, thành phố lớn. Các cao ốc đâm thẳng lên trời và rỗng con người. Thang máy chết cứng từ bao giờ, riêng điện đóm vẫn chóe sáng. Đèn giăng khắp các tầng, loại đèn công suất cao khiến tòa nhà như một ngọn núi lửa. Cao ốc xây theo dạng uốn, gập một chữ U tham vọng. Tòa thì nóc nhọn, tòa nóc vuông, năm cánh sao lộn nhào. Chúng đều rất sáng, sáng đến mức lòa con mắt. Dãy phố nào cũng không bóng râm. Nhiều năm trước cây vẫn rợp, đổ vết đen mỗi lúc nắng. Sang Hạ, cây gọi gió và gọi ve bay đến. No nhựa, ve cười cả đêm. Hoa sữa khiến các cặp đôi tìm đến nhau, kiếm mật dù nơi mái tóc quên gội, đôi môi chưa lấm son. Dưới gốc liễu rủ, lứa đôi trao nhau hơi thở. Chàng rất cao, còn nàng phải kiễng chân, hai tay quàng cổ, đóa hoa tìm vào đóa hoa. Gió hà hơi, tóc liễu lòa xòa, tóc nàng cũng ve vẩn. Gió phồng miệng, thổi khí lạnh. Vòng tay người tình xiết mạnh. Chiếc hôn thôi phớt lờ và chặt hơn, sâu hơn, ngon lành như miếng dorayaki. Ngày hôm nay sẽ tàn qua, riêng thời khắc này là vĩnh cửu. Tôi đi trong mùi hoa sữa. Đặt xuống cái ghế nhỏ, tôi ngồi dưới cây phượng và mở sách, cúi đầu. Hương sữa ướp thơm giấy sách. Lá phượng rơi rơi, phủ lên đầu, dính trên trang sách. Tôi đã không rũ lá, tôi để vậy, lưu giữ chúng trong sách. Ý tưởng nhảy nhót, dẫm trên lá cây rơi, nhún cái mạnh và mắc võng vào gió, cứ vậy rong chơi. Tôi bấm bút và trải cuộn giấy. Rồi thì viết…
…Cây đã trụi hết tóc, bị nhổ khỏi đất mẹ. Trên tấm thớt màu hỏa, cây bị chặt, chia khúc như cái bánh ngọt Trung Hoa. Tên đao phủ nào đã núp bóng thần Kali để triệt sản nòi cây xanh. Tiếng cây đổ không còn vang. Sau lớp kính vỡ, tôi thấy những hố thủng, ừ, dấu tích cột mốc danh dự bị nhổ. Nhiều lắm, những cây mới được cấy xuống đất. Chúng trụi lủi, không lá không cành, bộ rễ cũng yếu, không ăn vào đất. Một trận bão là đổ nhào. Khắp nơi chỉ thấy các cọc lớn, cái cao cái thấp, khấp khiểng như bộ răng hỏng. Màu tươi của gỗ bị nạo. Số cọc không dưới sông, không nhọn để đâm giặc Hán. Các cọc cắm trên đất liền, táng xuống cư dân nước tôi, lủng qua tim. Mỗi cọc tương ứng một đầu người, một cái giá treo mình. Rào chắn khắp nơi. Mỗi ngày, giở báo lại thấy tin báo tử. Kia kìa, một người nhảy sông. Căn phòng với đầy đá trong túi không đắm(6) mà nổi lên, nhão nhoét như tờ giấy hỏng. Đèn khắp nơi, dây điện muôn nẻo, phố phường sát vào nhau. Kiến trúc nhà trong ngõ sâu hoắm đời đời không xê dịch. Diện tích hẹp lại, chật ních. Tôi tưởng như thành phố này như một sinh thể sống. Ngóc ngách liền vào nhau nhưng các mô máu, các tế bào luôn xung đột, ăn thịt, đào thải nhau. Thức ăn vào bụng bị chia ra, không thể bài tiết nên dồn ứ lại. Cái bụng lớn cứ trương lên, ậm ạch, và luôn đói. Tôi nhìn ra xa. Vắng tiếng người. Sau những tiếng máy móc két vào nhau, họ im lìm. Ai cũng run rẩy. Có bầm dập không lý do, có bị tiếng còi tầm cắn đứt màng nhĩ, vẫn vô tư. Ai nấy nói vào tai nhau, nói nhỏ, thều thào. Nhà cửa như có ma, đuổi hết ông chủ ra đường. Nơi cánh cửa toang đến gãy cánh, kẻ lạ hoắc bước vào, nói tiếng hẹ. Giấy đấy ư, một tấm giấy tuyệt không khoảng trống. Tất cả bị phủ nhòa trong mực đỏ, thứ mực tôi đã chọn. Đỏ này làm hoa mắt, khiến ai cũng run sợ như thấy máu. Thế rồi, một cái lật tay, giấy úp xuống. Hình in lồi qua mặt sau, mờ mờ. Đừng cố lần vào sợi dây chằng, càng đi sâu sẽ thấy con nhện lớn. Nhện, ừ, nhện đói. Con quái này bắt người không lý do. Chết là sự cố không ai muốn. Không có toà án cho khẩu súng chợt cướp cò, nhà tù thiết quân luật với lũ trộm bánh mỳ. Trong trà có gián, nhưng trà là trà, gián là gián. Kẻ phiền nhiễu, gây rối đáng bỏ tù. Cư dân lết theo cái bóng người khác. Nếu không suỵt thì phải cố cắt lưỡi ngắn đi, nhét thật đầy hạt mận vào họng. Hướng chỉ tay lên trời. Đèn vẫn sáng, choang choang khắp nơi. Dưới đất, xác ve chết yểu. Đàn ong ủ rũ. Hết cây, hết hoa, không còn mật. Tiếng mẹ ơi vừa thốt ra liền bị vặn nhỏ. Mất mẹ, ơi ai bây giờ. Họ điều lao công vệ sinh đến. Chổi sắt quét hết chữ rơi, nước muối đặc sát trùng, vòi phun nước sạch rửa hết chứng tích. Đường xá sạch bong. Bốt. Rào chắn. Súng hướng trời. Nòng súng không chỉ trời. Đạn nhiều lắm.
Tôi lùi một bước, không còn nhạc. Ngoài kia, tạp, ừ, tạp âm trong này. Tay tôi đã ráo máu. Sắp có sẹo. Tay tôi. Hết nhìn tay trái, lại nhìn phải. Tay cầm bút, ừ, tay cầm bút.
Thấy cái bóng mình, tôi đấm. Các cú đấm nhiều, liên tục và mạnh đến mức khiến vết thương há miệng. Cái bóng quét đất, cao hơn cả tôi. Nó bất diệt. Tôi đau.
Nhìn khối sách lớn, tôi như gục. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi…
*
Rầm. Cửa gãy cánh.
Cửa kính thứ nhất đã vỡ, tôi tháo lìa vứt đi. Như con ốc chính bị tháo, số cửa còn lại lung lay.
Cánh thứ hai, thứ ba, thứ tư…Tuần tự thế, cả căn phòng tróc mảng. Sau một cú đẩy mạnh, những mặt kính ngã va vào nhau. Tiếng loảng xoảng kéo đoạn, phòng sang phòng, tầng xuống tầng. Đồ đạc vỡ theo, đèn đóm tắt ngúm, các đĩa Cd lìa tan tành, tủ rượu quý, cái giường với nệm da hổ, gối bông của Pháp, sàn nhà tróc hết, vàng tứ tung. Tôi tụt xuống từng tầng một. Không va đập, không níu vào đâu. Cứ thế rơi. Rồi thì Rầm…
Còn lại tôi với đống sách. Trong sách, toàn giấy trắng.
Giấy trắng, ừ, giấy trắng. Chữ bắt đầu.
(1) Paul Nguyễn Hoàng Đức.
(2) Niezche ( người viết rằng Chúa đã chết), Borges, Jean Paul Satre.
(3) Goetheo.
(4) Ngôi Đền Vàng, tiểu thuyết của Mishima Yukio
(5) Tiểu Thuyết ngắn của Romain Gary (dùng bút danh Romily Ajar), viết về một người sống cùng con trăn có tên Quấn-Quýt.
(6) Virginia Woolf, tự sát bằng cách nhét đầy đá vào túi và nhảy xuống sông River Ouse, căn phòng, tức “Căn Phòng riêng”, tiểu luận của bà.