Truyện của H. G. Wells
Hiếu Tân dịch
Cách Chimborazo hơn ba trăm dặm, khoảng một trăm dặm từ vùng tuyết trắng Cotopaxi, trong những miền hoang vu nhất của dãy Andes Ecuador, có một thung lũng bí hiểm nằm trong núi, bị cắt rời khỏi thế giới của con người: Xứ Mù. Cách đây đã lâu thung lũng xa xăm này nằm phơi mở dưới trời để người ngoài có thể đến sau khi đã vượt qua những khe hẹp ghê sợ qua những con đường phủ băng tuyết đi vào những đồng cỏ bằng phẳng của nó; và những con người đã đến theo cách đó, là một vài gia đình người Peru lai chạy trốn khỏi ách thống trị Tây Ban Nha tham tàn bạo ngược.
Rồi ngọn núi lửa Mindobamba phun trào, suốt muời bảy ngày vùng Quito chìm trong đêm tối, nước sông Yaguachi sôi lên sùng sục, tất cả cá đều chết xác nổi đầy sông đến tận Guayaquil; khắp nơi dọc theo những triền dốc phía Thái Bình Dương kế tiếp nhau những vụ đất lở, băng tan nhanh và lụt lội bất ngờ, rồi cả một bên của đỉnh Arauca ầm ầm trượt xuống, vĩnh viễn cắt rời Xứ Mù khỏi những bước chân thám hiểm của con người. Có một người trong số những người định cư đầu tiên tình cờ ở phía bên này của hẽm núi khi mặt đất nổi cơn rùng mình khủng khiếp, ông ta buộc phải quên đi người vợ với đàn con và tất cả bạn bè tất cả của cải của mình để lại ở đó, và bắt đầu làm lại cuộc đời ở vùng xuôi. Ông ta bắt đầu lại nhưng đau ốm và bị mù, ông chết vì vị trừng phạt trong những hầm mỏ nhưng câu chuyện ông kể tạo thành một truyền thuyết lan truyền suốt chiều dài những dãy núi của vùng Andes liên miên cho đến tận ngày nay.
Ông ta kể lí do vì sao từ nơi đang sống yên ổn ông phải mạo hiểm quay trở lại thung lũng, là nơi lần đầu tiên ông được chở đến khi còn bé, trên lưng một con lạc đà không bướu, phải buộc người vào nó bên cạnh một kiện hàng lớn. Ông nói, thung lũng ấy có tất cả những gì mà trái tim một người đàn ông khao khát – dòng nước ngọt lịm, bãi chăn thả, và ngay cả khí hậu nữa, những triền dốc đầy đá cuội nâu với những bụi cây rậm rạp đầy quả ngon ngọt tuyệt vời, một mặt bên là những cánh rừng thông cheo leo chặn tuyết lở từ trên cao xuống. Ba mặt kia là những vách đá cao vút xám xanh bị băng phủ kín; nhưng dòng sông băng không chảy đến những vách ấy mà theo những sườn dốc thoải chảy đi xa tít, và chỉ thỉnh thoảng mới có vài khối băng khổng lồ trượt xuống thung lũng. Trong thung lũng này không có mưa cũng chẳng có tuyết rơi, nhưng những dòng suối đầy ắp tạo nên những đồng cỏ xanh tươi, tưới tiêu đều khắp cả vùng thung lũng. Nơi đây những người dân định cư sống sung túc, những đàn gia súc của họ béo tốt và sinh sôi nảy nở, nhưng có một điều làm tổn hại đến hạnh phúc của họ, nó đủ làm cho họ khốn khổ. Một chứng bệnh kì lạ ập đến, làm cho tất cả trẻ con sinh ra ở đây đều bị – và kể ra, cả nhiều đứa trẻ lớn hơn cũng bị: mù. Chính là để đi tìm thuốc giải căn bệnh dịch này mà ông, dù mệt mỏi, khó khăn và nguy hiểm vẫn quyết quay trở lại hẽm núi. Thời ấy, trong những tình huống ấy, người ta không nghĩ đến những chuyện như vi trùng và lây nhiễm, mà nghĩ về tội lỗi; ông thấy hình như nguyên nhân của tai ương này nằm trong việc xao nhãng của những người dân di cư này, họ không có thầy cúng và đã không xây ngay một miếu thờ khi mới đặt chân đến thung lũng. Ông muốn có một miếu thờ uy nghi, giản dị mà linh thiêng – được xây trong thung lũng; ông muốn có những thánh tích và những vật thờ đầy uy lực như thế, những đồ vật được ban phúc, những mề đay huyền bí và những kinh cầu nguyện. Trong hầu bao của mình ông có một thỏi bạc của thổ dân nhưng ông không bao giở nói đến; như một kẻ nói dối vụng về, ông khăng khăng bảo rằng trong thung lũng không có bạc. Ở cõi trên đâu cần nhiều vàng bạc châu báu, ông nói, tất cả mọi người chung nhau góp tiền và đồ thờ, để cầu xin thần thánh phù hộ giúp chữa chạy cho tật nguyền của họ. Tôi tưởng tượng người đàn ông miền núi này, mắt mờ đục, da sạm nắng, gày gò và lo lắng, tay luống cuống giữ chặt vành mũ, con người hoàn toàn xa lạ với cung cách của người miền xuôi, đang kể câu chuyện này cho vị linh mục mắt sắc chăm chú nghe trước khi trận động đất kinh hoàng nổ ra. Tôi có thể hình dung ông ta ngay sau đó quay trở lại tìm kiếm phương thuốc hiệu nghiệm để chữa chạy căn bệnh quái ác ấy, và đã vô cùng nản chí trước cánh mênh mông đổ nát ở nơi trước kia hẻm núi còn mở lối. Nhưng phần sau của câu chuyện bất hạnh ấy tôi không được nghe, ngoài tin tức về cái chết khốn khổ của ông nhiều năm sau đó. Tội nghiệp con người lạc lõng đáng thương đến từ vùng xa xôi mờ mịt ấy! Dòng suối ở nơi trước kia từng là khe hẽm bây giờ chẩy tràn ra từ miệng một hang đá, và câu chuyện được kể một cách vụng về đã phát triển thành một truyền thuyết về giống người mù loà, ở một nơi nào đó “ngoài kia” mà đến tận bây giờ người ta vẫn còn nghe kể.
Và giữa dân cư nhỏ bé của cái thung lũng bây giờ bị cô lập và quên lãng ấy, căn bệnh vẫn tiến triển theo hành trình của nó. Người già thì mù dở, sờ soạng lần mò, người trẻ thì thấy nhưng mờ mịt, còn trẻ con thì mới sinh ra đã không nhìn thấy gì cả. Nhưng cuộc sống trong cái lòng chảo viền băng tuyết mất hút giữa thế giới ấy rất dễ chịu, không vui không buồn, không có sâu bọ độc hại cũng không có thú dữ ngoại trừ những con lạc đà không bướu hiền lành mà họ lôi kéo, đẩy đi theo những lòng sông cạn. Thị lực ngày càng trở nên tồi tệ nhưng họ dần dần chẳng buồn chú ý đến mất mát của mình. Họ dẫn những đứa trẻ mù hẳn đi đây đi đó cho đến khi chúng thông thuộc toàn bộ thung lũng; và khi cuối cùng khả năng nhìn mất hẳn thì giống người ấy vẫn tiếp tục sống. Trong mù lòa họ vẫn sử dụng được ngọn lửa trong những bếp lò bằng đá. Ban đầu họ là giống người đơn giản, không biết chữ, chỉ mới chớm tiếp xúc với nền văn minh Tây Ban Nha, nhưng họ có một phần truyền thống nghệ thuật của Peru cổ xưa và nền triết học bị mai một của nó. Thế hệ này kế tiếp thế hệ khác. Họ quên đi nhiều thứ; họ lại tìm ra nhiều thứ. Những kí ức về thế giới rộng lớn bên ngoài, nơi từ đó họ đến, trở nên mơ hồ không rõ rệt và mang màu sắc huyền hoặc. Trừ khả năng nhìn, còn lại mọi thứ khác họ đều mạnh và giỏi, và dòng giống của họ cũng có lúc sinh ra một con người có đầu óc mạnh mẽ, biết ăn nói và có khả năng thuyết phục, rồi sau đó, một người khác nữa. Hai người này chết đi, để lại ảnh hưởng của họ, và cái cộng đồng nhỏ bé này lớn lên về số lượng và về hiểu biết, đã phải đương đầu giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế nảy sinh. Thế hệ này kế tiếp thế hệ khác.Thế hệ này kế tiếp thế hệ khác. Rồi đến lúc ra đời đứa cháu đời thứ mười lăm của ông tổ, người đã đi ra ngoài thung lũng với một thỏi bạc để tìm sự cứu giúp của Chúa nhưng đã không bao giờ trở lại. Rồi đến một thời có một người đàn ông khác từ thế giới bên ngoài đến cộng đồng này. Và đây là câu chuyện của anh ta.
Anh là một người miền núi từ đất nước gần Quito, một người từng đi biển và quan sát thế giới, người đọc sách một cách độc đáo, có đầu óc sắc bén và dám nghĩ dám làm. Một nhóm người Anh đến Ecuador để leo núi, nhận anh vào nhóm để thay cho một trong ba người hướng dẫn gốc Thụy Sĩ bị ốm. Anh đã đi leo núi ở nhiều nơi, nhưng đến cuộc leo núi ở Parascotopetl, ngọn Matterhorn của dãy Andes, thì anh bị mất tích. Câu chuyện về tai nạn này đã được viết hàng chục lần. Bài tường thuật của Pointer là hay nhất. Ông kể nhóm nhỏ kia đã cố gắng như thế nào để vượt khó khăn, họ leo gần như theo chiều thẳng đứng lên từng bước chân trên vách đá cuối cùng và kì vĩ nhất, họ đã dựng một căn chòi nghỉ đêm giữa tuyết trắng trên một thềm đá cheo leo, rồi bỗng, bằng một linh cảm mạnh mẽ, ngay lập tức họ nhận ra Nuñez (phát âm là “nun-nhét”) đã biến mất khỏi bọn họ. Họ gọi to, họ huýt còi vang vọng cả núi, nhưng không có tiếng đáp lại, và từ đó đến sáng không một ai chợp mắt.
Sáng ra, họ thấy dấu vết của anh nơi anh ngã. Hình như anh đã không kịp thốt ra một tiếng. Anh đã trượt ở phía đông, xuống một phía núi chưa ai biết đến, do đạp phải một đoạn dốc phủ đầy tuyết, và trôi tuột xuống giữa dòng tuyết lở như thác lũ. Những dấu vết còn lại của anh dẫn thẳng tới một vách đá dựng đứng ghê hồn, và qua khỏi nó, tất cả chìm trong màn bí mật. Rất sâu phía dưới, xuyên qua màn sương mù thăm thẳm, họ nhìn thấy những cây cối mọc từ một thung lũng hẹp bị núi non bịt kín: Xứ sở của những Người Mù – Xứ Mù. Nhưng họ không biết nó là Xứ Mù, cũng không cách nào phân biệt nó với những giải thung lũng hẹp trên cao nguyên. Tai nạn làm họ mất hết nhuệ khí, họ bỏ cuộc vào buổi chiều; rồi Pointer bị gọi ra lính trước khi ông kịp làm một đợt mới chinh phục ngọn núi này. Từ ấy đến nay những vách đá Parascotopetl vẫn còn là những đỉnh cao chưa bị chinh phục, còn căn chòi nghỉ đêm của Pointer thì đổ nát giữa vùng tuyết trắng và chẳng ai lui tới.
Nhưng người đàn ông bị ngã vẫn sống.
Cuối đoạn dốc, anh rơi xuống một nghìn bộ, và trôi giữa một dòng thác tuyết bên trên một sườn dốc ngập tuyết còn dốc đứng hơn cả đoạn trên. Lúc rơi anh bị xoáy tít, lộn nhào, và bất tỉnh, nhưng xương không bị gẫy, và rồi cũng tới một đoạn dốc thoải hơn, và cuối cùng lăn đi và nằm bất động, bị vùi giữa một đống mềm và trắng nó theo anh, ôm anh và cứu anh. Anh tỉnh lại, mơ hồ nghĩ rằng anh đang ốm nằm trên giường, rồi với trí sắc bén của một người miền núi anh nhận ra tình cảnh của mình, anh thả lỏng người, nằm nghỉ một lát, mãi cho đến khi anh nhìn thấy những vì sao. Anh nằm úp sấp một lúc, tự hỏi mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra. Anh sờ nắn lại tay chân, và phát hiện ra nhiều khuy áo đã bay mất, và chiếc áo khoàc tuột ra trên đầu anh. Con dao của anh đã không còn trong túi, mũ cũng đã mất, dù anh đã buộc chặt dưới cằm. Anh nhớ ra rằng lúc ấy anh đang đi tìm mấy hòn đá rời để về xây tường căn chòi. Cái rìu bổ băng của anh cũng đã biến mất.
Anh chắc chắn rằng mình đã ngã từ trên xuống, và ngẩng lên nhìn để hình dung ra cuộc vật lộn khủng khiếp mà anh đã trải qua; ánh trăng non nhợt nhạt càng làm cho cảnh tượng thêm ghê rợn. Anh nằm như thế một lúc lâu, đôi mắt trống rỗng nhìn vào vách đá xám dựng lên cao vút trên kia, từng phút từng phút vươn lên khỏi bóng tối đang từ từ rút xuống. Vẻ đẹp bí hiểm và ma quái của nó khiến anh đờ ra một lúc, rồi một trận khóc cười nức nở bùng phát không gì cưỡng được…
Sau một khoảng thời gian dài anh bắt đầu nhận ra anh đang ở gần rìa mép của một thềm đá phủ tuyết. Bên dưới, dưới một dốc xoai xoải đi dược và lúc này đang được ánh trăng chiếu sáng, anh thấy hiện ra một vùng đất tối đen nhấp nhô có đá rải rác. Anh cố sức đứng dậy, tất cả các khớp xương và bắp thịt đau nhức, anh cố gượng đau ra khỏi đống tuyết xốp lần mò đi xuống phía dưới, tới tận chỗ đất đen, tại đó anh thả mình rơi phịch xuống bên cạnh một tảng đá trơn nhẵn, hớp một ngụm thật sâu từ bình rượu bẹt trong chiếc túi áo trong, và lập tức chìm vào giấc ngủ…
Tiếng chim hót trong những tán cây xa xa bên dưới đánh thức anh dậy. Anh ngồi lên và nhận thấy mình đang ở trên một bãi cỏ nhỏ dưới chân một vách đá lớn dựng đứng, trên vách đó có một rãnh sâu xoi thẳng xuống mà chắc anh cùng với mớ tuyết bao quanh đã theo đó trượt xuống. Phía bên kia một vách đá khác vươn lên trời cao. Khe hẽm nhỏ giữa hai vách đá dựng đứng ấy chạy theo hướng đông tây và tràn ngập ánh nắng ban mai, nắng chiếu sáng khối đất đá phía tây từ núi sập xuống bít kín lối hẽm đi xuống. Bên dưới anh hình như vách núi thoải đều, nhưng đằng sau lớp tuyết trong rãnh xoi anh thấy một cái khe nước từ tuyết tan ra đang nhỏ giọt mà người nào liều mạng có thể mạo hiểm vượt qua. Anh thấy nó dễ qua hơn anh tưởng lúc đầu. Cuối cùng anh đi đến một bãi cỏ hoang vắng khác, rồi trèo qua tảng đá không mấy khó khăn lên một cái dốc thoải có cây cối. Anh lấy lại hơi thở và quay lại ngước nhìn lên hẽm núi, anh thấy nó mở ra bên trên một đồng cỏ xanh rì trong đó anh thoáng thấy rất rõ mấy ngôi nhà bằng đá theo kiểu cách lạ lùng. Có nhiều lúc anh đi như leo trên mặt một bức tường, rồi đến lúc ánh mặt trời không còn chiếu dọc con hẽm nữa và tiếng chim ngừng hót, xung quanh anh trời trở lạnh và tối. Nhưng thung lũng ở xa kia với những ngôi nhà của nó thì sáng sủa hơn. Anh bước đến bên bờ dốc, và anh nhận ra một giống dương xỉ lạ len giữa những tảng đá (anh vốn là người quan sát giỏi) dường như bám chặt lấy những khe đá bằng những bàn tay xanh mạnh mẽ. Anh bứt lấy một lá, nhấm cái cuống của nó và cảm thấy dễ chịu.
Vào khoảng giữa trưa, cuối cùng anh cũng ra khỏi họng thắt của hẽm núi và xuống tới đồng bằng nắng. Người anh tê cứng và mệt lử, anh ngồi xuống dưới bóng một tảng đá, đổ đầy nước suối vào cái chai dẹp, uống, và nghỉ lại một lúc trước khi đi về phía những ngôi nhà.
Chúng thật lạ lùng dưới mắt anh, và khi anh ngắm nhìn, toàn bộ diện mạo của thung lũng trở nên kì quặc hơn và xa lạ hơn. Phần lớn bề mặt thung lũng là đồng cỏ sum sê xanh tốt, điểm những bông hoa đẹp, được tưới tiêu cực kì cẩn thận, việc thu hoạch cỏ theo từng lô tỏ ra rất có phương pháp. Một bức tường cao vây quanh thung lũng, và cái gì giống như một máng nước chạy vòng quanh, nước từ đó theo các dòng nhỏ chảy vào tưới cho cây cối của đồng cỏ. Trên những sườn dốc cao bầy lạc đà không bướu đang gặm những ngọn cỏ thưa thớt hiếm hoi. Đây đó tựa vào bức tường bao là những dãy chuồng, nhìn bên ngoài như những lều trại, nơi nuôi những lạc đà không bướu. Những dòng nước tưới tiêu đổ chung vào dòng kênh chính ở giữa thung lũng, hai bên kênh được xây kè đá cao ngang ngực. Nó đem lại cho nơi hoang vu hẻo lánh này cái vẻ đô thị khác thường, nhất là những con đường lát đá trắng hoặc đen của nó, có lề đường nhỏ, tỏa ra các hướng trông thật qui củ, lại càng có cái vẻ thị thành. Nhà cửa ở khu trung tâm làng hoàn toàn không giống sự tụ tập cẩu thả và lung tung bừa bãi của các làng miền núi mà anh biết, chúng đứng sát bên nhau thành hàng hai bên đường phố trung tâm, sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên; mặt chính của chúng nhiều màu sắc lòe loẹt, có một cái cửa ra vào nhưng không có lấy một ô cửa sổ. Những màu sắc sặc sỡ loạn xạ, những lớp vữa tô trát màu xám, chỗ xám nâu chỗ xám đen, hoặc màu nâu tối, chính cái cảnh tượng hoang dại này đã khiến nhà thám hiểm của chúng ta nảy ra cái ý “mù”. “Tay nào làm cái này chắc hẳn phải mù tịt” anh nghĩ. Anh đi xuống dốc, và từ đó đi đến bức tường và dòng kênh chảy quanh thung lũng tới gần nơi khối nước dư thừa của dòng kênh đổ vào sâu trong hẽm, thành một thác nước mảnh trào ra từng đợt. Lúc này anh thấy một số người cả đàn ông đàn bà ngồi nghỉ bên những đống cỏ khô chồng chất, dường như đang cố chợp mắt buổi trưa ở phần xa xăm hẻo lánh này của đồng cò, và gần phía làng hơn, tụi trẻ con nằm la liệt, và gần hơn nữa, ba người đàn ông đang gánh những thùng nước đi dọc theo con đường nhỏ từ bức tường bao về khu nhà. Những người này mặc quần áo bằng vải làm từ lông lạc đà không bướu, giày ống và thắt lưng bằng da, và đội mũ vải bịt kín gáy và tai. Họ nối theo nhau đi hàng một, bước chậm rãi vừa đi vừa ngáp, như người đã thức suốt đêm. Trong dáng điệu của họ có một vẻ từ tốn của người sung túc khiến ta yên lòng, nên sau một hồi do dự, Nuñez bước ra chỗ dễ thấy và cất tiếng gọi vang cả thung lũng.
Ba người đàn ông dừng lại và ngẩng đầu lên như thể nhìn quanh họ. Họ quay đầu bên này bên kia, còn Nuñez thì khua tay loạn xạ. Họ không có vẻ gì là nhìn thấy anh và những cử chỉ rối rít của anh, rồi một lúc sau, hướng về phía dãy núi xa bên phải, họ hét to như thể để trả lời. Nuñez lại gào lên mấy lần nữa, rồi khi thấy những cử chỉ của mình vô hiệu, cái từ “mù” lại hiện lên trong óc anh. “Mấy thằng điên này chắc mù hẳn,” anh nói.
Cuối cùng, sau hồi lâu gào thét và tức giận, Nuñez đi qua mương trên một chiếc cầu nhỏ, qua cái cổng của bức tường, đến gần họ, thì anh chắc chắn rằng họ mù thật. Anh biết chắc rằng đây chính là Xứ Mù mà truyền thuyết nói đến. Niềm tin chắc ấy lóe lên trong anh, và cùng với nó là một cảm giác diệu kì về một may mắn bất ngờ đáng thèm muốn. Ba người đứng sát cạnh nhau, không nhìn anh, mà hướng lỗ tai về phía anh, xét đoán anh bằng những bước chân lạ của anh. Họ đứng sát vào nhau như thể hơi sợ hãi, và anh thấy những mí mắt của họ sụp xuống và lõm sâu, như thể chính tròng mắt bên trong đã teo lại. Trên nét mặt họ có biểu hiện gần như kinh sợ.
“Một người” một người trong bọn nói bằng thứ tiếng Tây Ban Nha rất khó nghe. “đây là một người – hay một hồn ma – từ trên tảng đá xuống.”
Nhưng Nuñez bước tới bằng những bước chân tự tin của một người trẻ mới vào đời. Tất cả những câu chuyện kể cổ xưa về thung lũng vô tăm tích và Xứ sở của những Người Mù trở lại trong óc anh, và câu ngạn ngữ chạy qua ý nghĩ của anh, như một điệp khúc:
“Xứ Mù thằng Chột làm Vua”
“Xứ Mù thằng Chột làm Vua”
Và rất lịch sự anh chào họ. Anh nói với họ và dùng mắt của mình.
“Anh ta từ đâu đến, anh trai Pedro” một người hỏi.
“Phía bên kia tảng đá.”
“Tôi đã vượt núi đến đây,” Nuñez nói “Từ một xứ sở rất xa ngoài kia – nơi con người có thể nhìn. Gần Bogota, nơi có một trăm ngàn người, và thành phố thì rộng ngoài tầm nhìn”
“Nhìn?” Pedro thốt lên. “Tầm nhìn?”
“Anh ta từ bên kia tảng đá đến,” người thứ hai nói.
Nuñez thấy các áo khoác của họ may bằng thứ vải lạ, mỗi chiếc khâu theo một lối khác nhau.
Họ làm anh rùng mình khi đồng loạt bước tới, mỗi người một tay giơ ra. Anh bước lùi lại tránh những ngón tay xòe ra đưa tới. “Lại đây,” người mù thứ ba nói, tiến theo chuyển động của anh và tóm gọn. Rồi họ giữ chặt anh và sờ soạng, không nói một lời cho đến khi xong.
Anh kêu lên “Cẩn thận! ” khi một ngón tay sờ vào mắt anh, với những mi mắt đang chớp chớp, và anh nghĩ chắc họ phải thấy nó kì quặc lắm. Họ lại sờ nó.
“Một con vật lạ, Correa ạ” người có tên là Pedro nói “Sờ xem tóc nó thô không này. Như lông con lạc đà ấy.”
“Nó thô như thể từ đá sinh ra,” Correa nói, thám hiểm cái cằm lởm chởm râu không cạo bằng một bàn tay mềm mại và hơi ướt. “Có lẽ dài ra nó sẽ mịn hơn.” Nuñez vùng vẫy khi họ lục xét anh, nhưng họ kềm anh chặt cứng.
“Cẩn thận đấy,” anh lại nói.
“A, nó nói được,” người thứ ba nói. “chắc chắn nó là một con người.”
“Gớm quá!” Pedro nói, khi sờ vào chiếc áo khoác thô ráp của anh.
“Tức là anh đã đi vào thế giới?” Pedro hỏi.
“Đúng hơn là ra khỏi thế giới. Vượt qua những dãy núi và những sông băng, lên tít trên kia, nửa đường lên trời. Ra khỏi cái thế giới vĩ đại dưới xuôi, đi mười hai ngày thì tới biển.”
Họ chẳng để ý anh nói gì. “Cha của chúng tôi đã bảo con người có lẽ là do Thiên nhiên sinh ra.” Correa nói. “Nó là hơi ấm của muôn vật, và ẩm ướt, và mục nát – thối ruỗng.”
“Chúng ta dẫn hắn đến gặp các già làng.”
“Trước hết ta hãy kêu to lên, để bọn trẻ con biết cho chúng khỏi hoảng sợ,” Correa nói. “Đây là một dịp hiếm có.”
Bới vậy họ kêu to lên, rồi Pedro đi trước và dắt tay Nuñez đi về phía những ngôi nhà.
Anh rụt tay lại. “Tôi thấy đường mà.”
“Thấy?” Correa nói.
“Phải, tôi thấy,” Nuñez quay về phía hắn nói, và vấp phải cái thùng của Pedro.
“Các giác quan của hắn chưa hoàn chỉnh,” người mù thứ ba nói. “Hắn vấp, và nói những lời vô nghĩa. Phải lấy tay dắt hắn.”
“Nếu các anh thích thế,” Nuñez nói. Anh cười và bị dắt đi.
Hình như bọn họ chẳng biết gì về việc nhìn.
Được, lúc nào rảnh mình sẽ dạy họ.
Anh nghe có tiếng người la hét, và thấy một số dáng người túm tụm lại giữa đường làng.
Lần đầu tiên đụng với cư dân ở Xứ Mù, anh thấy nó làm anh khó chịu và mất kiên nhẫn hơn anh tưởng. Càng đến gần làng anh càng thấy nó rộng lớn hơn, những bức tường được tô trát quái dị hơn, và một đám đông những trẻ em, đàn ông và đàn bà (đàn bà con gái, anh thích thú nhận xét, một số có gương mặt rất khả ái, trong khi toàn bộ mắt nhắm và trũng sâu) lại gần anh, nắm cánh tay anh, sờ vào người anh, bằng những bàn tay mềm mại và nhạy cảm, ngửi anh, và lắng nghe từng lời anh nói. Tuy nhiên có một số cô gái và trẻ em đứng tách xa ra như thể sợ hãi, và quả thật giọng anh khản đặc và thô bên những giọng thanh thanh của họ. Họ tấn công anh. Ba người hướng dẫn anh đứng sát vào anh như chứng tỏ quyền sở hữu, họ nói đi nói lại: “một người dã man từ bên ngoài tảng đá.” “Bogota,” anh nói. “Bogota. Bên kia các dãy núi.”
“Một kẻ dã man, dùng những lời dã man.” Pedro nói. “Các vị có nghe nó nói không? Bogota? Trí óc của nó chưa thành hình. Nó mới tập nói.”
Một thằng bé con cấu vào tay anh. “Bogota!” nó nói với giọng chế nhạo.
“À! Đó là một thành phố so với cái làng của các vị. Tôi đến từ một thế giới rộng lớn – nơi mọi người đều có mắt và nhìn được.”
“Tên nó là Bogota!” họ nói.
“Nó vấp,” Correa nói. “Vấp hai lần khi chúng tôi dẫn nó đến đây.”
“Dẫn nó đi gặp già làng.”
Rồi họ đột ngột đẩy anh qua cửa vào một căn phòng tối đen như mực, trừ ở cuối phòng có ngọn lửa leo lét. Đám đông vây kín đằng sau anh, và che kín ánh sáng chỉ còn để le lói một chút ánh ngày yếu ớt nhất lọt vào, và trước khi có thể gượng lại được anh ngã chúi xuống chân một người đang ngồi. Khi ngã, cánh tay anh vung ra đập vào mặt một người khác; anh cảm thấy và nghe một tiếng kêu giận dữ, và một lúc sau anh vùng vẫy chống lại nhiều bàn tay đang nắm chặt anh. Đó là một cuộc chiến đấu đơn phương. Anh tù mù về tình huống đang diễn ra, và nằm im lặng.
“Tôi bị ngã” anh nói “Tôi chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối đen như mực thế này.” Lặng đi một quãng như thể những người không nhìn thấy anh đang cố gắng hiểu anh. Rồi giọng nói của Correa nói: “Hắn chỉ là người đang thành hình. Hắn vấp khi bước đi và lời nói lẫn lộn lung tung chẳng có nghĩa gì cả.” Những người khác cũng nói nhiều điều về anh, rằng anh nghe hiểu không hoàn hảo. “Tôi có thể ngồi lên không?” anh hỏi, trong lúc mọi việc tạm ngưng. “Tôi sẽ không chống lại các ông nữa.”
Họ hội ý rồi để anh đứng lên.
Tiếng nói của một người có tuổi bắt đầu hỏi anh, và anh cố gắng giải thích thế giới rộng lớn mà từ đó anh ngã vào đây, về bầu trời và dãy núi, về việc nhìn và những điều kì diệu như thế, cho những già làng đang ngồi trrong bóng tối ờ Xứ Mù. Và họ không tin và chẳng hiểu mô tê gì về những điều anh nói, thật trái với mong đợi của anh. Thậm chí họ còn không iểu nhiều từ ngữ anh dùng. Trong mười bốn thế hệ những con người này đã bị mù và bị cắt đứt khỏi toàn bộ thế giới người sáng; những cái tên cho mọi vật đã mờ đi và thay đổi, câu chuyện về thế giới bên ngoài đã mờ đi và thay đổi thành câu chuyện của một đứa trẻ, và họ đã thôi không còn băn khoăn về bất cứ thứ gì vượt ra khỏi những dốc đá phía trên bức tường bao của họ. Những người mù có tài đã khởi xướng trong cộng đồng những tín ngưỡng vụn vặt và truyền thống họ đã mang theo từ ngày họ còn sáng mắt, và đã vứt bỏ tất cả những thứ đó như những tưởng tượng vô dụng, và thay thế chúng bằng những giải thích mới và tỉnh táo hơn. Phần lớn những tưởng tượng của họ đã bị teo đi cùng với những con mắt của họ, và họ đã tạo ra cho mình những tưởng tượng mới bằng những lỗ tai và đầu ngón tay vô cùng thính nhạy. Nuñez đã dần dần nhận ra điều này, điều anh mong đợi là họ sẽ thán phục và kính nể về nguồn gốc và những khả năng của anh đã không thành thực tế, và sau khi cái cố gắng tội nghiệp của anh đề giải thích cho họ về sự nhìn đã bị dẹp bỏ đi như những chuyện đầu cua tai nheo của một loài vật mới được tạo ra đang cố công mô tả những cảm giác mơ hồ hỗn độn của nó, anh đành nhượng bộ một chút, và chịu nghe những lời giáo huấn của họ. Và người già nhất trong những người mù giảng giải cho anh thế nào là cuộc sống là triết học là tôn giáo, và ban đầu thế giới (tức là cái thung lũng này) là một khoảng trống rỗng như thế nào giữa những tảng đá, và sau đó, đầu tiên, xuất hiện những chất vô sinh không biết cả sờ mó, rồi đến những con lạc đà không bướu và một số sinh vật khác có rất ít giác quan, rồi đến con người, và cuối cùng là những vị thần, ta có thể nghe được tiếng hát và những âm thanh xao động của họ nhưng không ai chạm được vào, cái này thật sự đánh đố Nuñez nhưng cuối cùng anh cũng nghĩ ra được đó là những con chim. Ông già tiếp tục giảng giải cho Nuñez tại sao thời gian lại chia ra thời gian ấm và thời gian lạnh, với người mù nó tương đương với ngày và đêm, và tại sao lại nên ngủ lúc ấm và làm việc lúc lạnh, do đó giờ này lẽ ra cả làng người mù còn đang ngủ nhưng vì có anh đến nên mới thức. Ông già nói rằng Nuñez chắc chắn đã được sinh ra để học và sử dụng cái trí khôn mà họ có được, và rằng do tất cả cái loạc choạc trong tâm thần và hành vi vấp váp của anh, anh phải có can đảm và hết sức cố gắng mà học. Nghe đến đây tất cả những người ngồi trên lối vào nhà lầm rầm khích lệ. Ông ta nói rằng đêm – người mù gọi ngày của họ là đêm – còn lâu mới hết, nên tất cả hãy về nhà ngủ. Ông ta hỏi Nuñez có biết cách ngủ không, Nuñez nói anh biết, nhưng trước khi ngủ anh muốn ăn.
Họ mang thức ăn đến cho anh – sữa lạc đà trong một cái bát, và bánh mì với muối thô – và dẫn anh vào một nơi vắng vẻ, để tiêu hóa cho hết những lời họ nói, và sau đó ngủ đến khi khí lạnh của đêm miền núi đánh thức họ dậy cho một ngày mới. Nhưng Nuñez chẳng ngủ nghê gì được.
Trái lại, anh ngồi nguyên ở chỗ họ bỏ anh lại, duỗi chân tay cho thoải mái và tua lại trong trí những cảnh bất ngờ từ khi anh đến.
Chốc chốc anh lại cười, lúc thì thích thú, lúc thì tức giận.
“Một trí óc chưa thành hình!” anh nói. “Chưa có đủ giác quan! Bọn chúng không biết rằng chúng đã nhục mạ vị vua và ông chủ mà Trời gửi xuống cho chúng. Ta sẽ phải làm cho chúng biết điều. Ờ, để nghĩ xem nào, nghĩ xem nào.”
Đến tận hoàng hôn mà anh ta vẫn còn đang nghĩ.
Nuñez thích ngắm những cảnh đẹp, với anh ráng chiều rực rỡ trên những cánh đồng tuyết phủ và những sông băng nhuốm hồng mọi phía trên thung lũng là cảnh đẹp nhất mà anh từng thấy. Mắt anh lia từ ánh huy hoàng xa xăm đến ngôi làng gần gũi và những cánh đồng được tưới tắm, rồi nhanh chóng chìm vào ánh chạng vạng. Anh bỗng thấy lòng ngập tràn cảm xúc, tự đáy lòng anh cảm ơn Thượng đế và cái khả năng nhìn mà Thượng đế đã ban cho anh.
Anh nghe có tiếng gọi từ phía làng: “Này anh kia. Bogota! Lại đây!”
Nghe thế anh đứng lên và cười. Anh muốn cho những con người này thấy một lần sức nhìn có thể đem lại gì cho con người. Họ có thể tìm anh, nhưng không thấy anh.
“Anh không đi à, Bogota,” giọng kia nói.
Anh cười không thành tiếng, và bước hai bước vững chãi ra khỏi mặt đường.
“Không được giẫm lên cỏ, Bogota; không được phép.”
Bản thân Nuñez cũng không nghe thấy tiếng động anh làm phát ra. Anh kinh ngạc dừng lại.
Người vừa nói chạy đến chỗ anh trên con đường loang lổ. Anh bước trở lại mặt đường. “Tôi đây,” anh nói.
“Tao gọi sao mày không đến?” người mủ nói. “Hay phải lôi mày đi như đứa trẻ con? Mày không nghe tiếng bước chân của mày à?”
Nuñez cười “Tôi nhìn thấy đường mà,” anh nói.
“Không có cái chữ gì như là “nhìn” cả. Người mù nói sau một thoáng im lặng.
“Bỏ cái chuyện ngu ngốc ấy đi, và đi theo tiếng bước chân tao.”
Nuñez đi theo, hơi tức giận.
“Sẽ đến thời của ta,” anh nói.
“Mày sẽ học,” người mù nói. “Có khối thứ cho mày học.”
“Đã có ai nói với ông câu này chưa “Xứ Mù thằng chột làm vua”?”
“Mù là cái gì?” người mù hờ hững hỏi.
Đã bốn ngày trôi qua, mà ngày thứ năm Ông Vua của Xứ Mù vẫn còn ẩn danh không ai biết đến, như một gã người lạ, vụng về lúng túng và vô tích sự giữa các thần dân của mình. Gã thấy việc tự tuyên phong khó khăn hơn gã tưởng, và trong thời gian đó, trong khi nghiền ngẫm về cuộc đảo chính của mình, gã làm theo những gì người ta bảo gã, gã học các phong tục tập quán của Xứ Mù. Gã thấy đi lại và làm việc vào đêm thật khó chịu, và quyết định rằng đó là việc đầu tiên gã sẽ làm thay đổi.
Những con người này sống một cuộc sống đơn giản, cần cù, có đủ mọi yếu tố của đức hạnh và hạnh phúc, như người ta thường hiểu. Họ làm việc cực nhọc nhưng không bị áp bức, họ có đủ đồ ăn thức uống và áo quần cần thiết, họ có ngày nghỉ và mùa nghỉ, họ có nhạc và ca hát, họ yêu đương và có nhiều con cái. Thật tuyệt diệu họ đã khởi công xây dựng cái thế giới ngăn nắp ấy một cách chính xác và tin cậy biết bao. Bạn thấy đấy, họ đã làm mọi việc để đáp ứng những nhu cầu của họ, mỗi con đường tỏa ra trong thung lũng nối với đường khác bằng một góc cố định, và bên lề đường có những dấu mốc để phân biệt; tất cả những chướng ngại, những chỗ sai qui tắc của đường hoặc đồng cỏ đều bị dẹp bỏ, và những phương pháp, những thủ tục của họ đều nảy sinh một cách tự nhiên từ những nhu cầu cụ thể. Các giác quan của họ trở nên bén nhọn tuyệt vời, họ có thể nghe và phán đoán về những cử chỉ mong manh nhất của một người đứng cách xa hàng chục bước, có thể nghe mạch đập của tim họ. Ngữ điệu từ lâu đã thay thế sự biểu đạt bằng cử chỉ, và họ làm việc bằng cuốc thuổng một cách tin tưởng và thoải mái như những công việc làm vườn nhẹ nhàng. Khứu giác của họ tinh nhạy phi thường, họ có thể phân biệt sự khác nhau giữa hai người một cách dễ dàng như một con chó đánh hơi, và họ nuôi những con lạc đà không bướu sống trên núi đã xuống bức tường bao để có thức ăn và chuồng trại, thoải mái và tin cậy. Chỉ đến lúc Nuñez tìm cách khẳng định bản thân, gã mới thấy mọi cử động của họ thoải mái và tin cậy biết bao. Gã chỉ nổi loạn sau khi đã cố gắng thuyết phục.
Đầu tiên gã cố gắng, trong nhiều dịp, nói với họ về sự nhìn. “Nhìn các bạn ở đây” gã nói.
“Có nhiều cái các bạn chưa hiểu về tôi.”
Một hoặc hai lần một hoặc hai người nghe theo gã: họ ngồi cúi mặt vểnh ta về phía gã, và gã cố hết sức nói với họ thế nào là nhìn. Trong số người nghe có một cô gái, mi mắt đỡ thâm tím và ít trũng hơn những người khác, đến nỗi người ta gần như có thể tưởng tượng cô có đôi mắt ẩn giấu phía sau, nên gã đặc biệt hi vọng thuyết phục được cô. Gã nói về vể đẹp của cảnh vật, của việc ngắm nhìn núi non, bầu trời và ánh bình minh, và họ nghe gã với vẻ nghi ngờ khoái trá chẳng mấy chốc biến thành lời kết tội. Họ bảo gã thật ra chẳng có núi non nào đâu, và nơi kết thúc của những vách đá chỗ những con lạc đà đi qua thật ra là nơi kết thúc của thế giới, từ nơi đó hiện lên cái vòm động của vũ trụ, cũng từ đó sương rơi và tuyết lở. Khi gã ngoan cố khăng khăng rằng vũ trụ không có nơi kết thúc hay cái mái nào như họ tưởng, họ bảo ý nghĩ của gã thật độc địa. Khi gã mô tả bầu trời với những đám mây và những vì sao cho họ nghe, họ thấy dường như gã đã đem một khoảng trống trơn ghê tởm, một lỗ hổng khủng khiếp thay vào chỗ cái mái vòm mịn màng che chở những điều mà họ tin, đối với họ, cái vòm động mịn màng thanh nhã ấy là một tín điều. Gã thấy rằng không rõ vì sao gã đã làm họ choáng, gã hoàn toàn từ bỏ khía cạnh này của vấn đề, và cố gắng chỉ cho họ thấy những lợi ích cụ thể của việc nhìn. Một hôm gã thấy Pedro trên con đường số Mười Bảy đi về phía những ngôi nhà ở trung tâm làng, nhưng còn quá xa để có thể nghe hoặc ngửi, gã tiên đoán “chỉ chút nữa Pedro sẽ đến đây.” Một ông già nhận xét rằng Pedro không có việc gì trên đường Mười Bảy, và, như để xác nhận lời nói ấy, người kia đến gần thì rẽ ngang sang đường số Mười, và lanh lẹn đi về phía bức tường bao. Họ chế nhạo gã khi Pedro không đến, và sau đó, khi gã hỏi Pedro những câu hỏi để làm rõ tính cách của anh ta, Pedro từ chối trả lời, nhìn gã trừng trừng và từ đó có vẻ thù ghét gã.
Sau đó gã rủ một anh chàng trông có vẻ tự mãn cùng gã đi lên những đồng cỏ trên sườn dốc thoai thoải đi về phía bức tường, và gã hứa sẽ mô tả cho anh ta tất cả những gì xảy ra giữa các ngôi nhà. Gã nhận thấy có những người đến và đi, nhưng những việc thật sự có ý nghĩa với những con người này lại xảy ra bên trong các ngôi nhà – và là cái duy nhất họ đem ra thử gã – thì gã không thể trông thấy. Sau khi những mưu mô ấy thất bại và bị họ trêu chọc quá trời, gã mới dùng đến sức mạnh. Gã tính ăn cắp một chiếc mai rồi bất ngờ đánh gục một hay hai người trong bọn họ trong một trận đấu công bằng, như vậy chứng tỏ được lợi thế của đôi mắt. Gã đã ăn cắp được cái mai, và sau đó phát hiện ra một điều mới ở gã, là không thể hạ một người mù máu lạnh. Gã do dự, và thấy tất cả bọn họ đã nhận ra gã vừa chộp lấy cái mai. Họ đứng đó, cảnh giác, tất cả quay đầu về một bên, vểnh ta về phía gã xem gã làm gì tiếp.
“Bỏ cái mai xuống,” một người nói, và gã cảm thấy một nỗi sợ hãi vô phương chống đỡ. Dần dần gã đi đến chỗ vâng phục.
Rồi gã đầy một người ép lưng vào tường và qua mặt người ấy, chạy trốn ra khỏi làng.
Gã đi xuyên qua một trong những đồng cỏ của họ, để lại đằng sau gã những vệt cỏ bị dẫm đạp, rồi ngồi trên vệ đường.
Gã cảm thấy như sức lực trở lại với gã giống như với mọi người vào lúc bắt đầu một trận đấu, nhưng bối rối hơn. Gã bắt đầu nhận thấy gã thậm chí không thể vui vẻ đấu với những con người đứng trên một nền tảng tinh thần khác xa gã. Xa xa gã trông thấy một toán người mang cuốc thuổng gậy gộc túa ra đường, tỏa ra nhiều con đường khác nhau dẫn đến chỗ gã đang ngồi. Họ tiến chậm rãi, thường xuyên nói với nhau, chốc chốc cả đoàn lại dừng chân, hít hít và lắng tai nghe.
Lúc đầu thấy họ làm thế Nuñez cười. Nhưng sau đó gã không cười nữa.
Một người phát hiện ra dấu vết của gã trên cỏ, cúi mình bước đi và cảm nhận đường theo những dấu ấy.
Trong vòng năm phút gã nhìn toán người chậm rãi tỏa rộng ra, rồi sau đó tâm trạng của gã đang mập mờ lập tức trở thành rồ dại. Gã đứng dậy, bước vài bước về phía bức tường bao, quay lại, và đi trở lại một con đường nhỏ. Họ đứng đó, theo một hình vòng cung, bất động và lắng nghe.
Gã cũng đứng bất động, nắm chặt cái mai bằng cả hai tay. Gã có nên tấn công họ không?
Mạch đập trong màng tang gã theo nhịp điệu “Xứ Mù thằng chột làm vua.”
Gã có nên tấn công họ không?
“Bogota!” một người gọi “Bogota! Anh ở đâu?”
Gã nắm chặt chiếc mai hơn, và đi xuống qua các bãi cỏ về phía có người ở, và họ đi gần lại phía gã. “Ta sẽ phang chúng nếu chúng chạm vào người ta” gã thề “Thề có Trời, ta sẽ..Ta sẽ đánh.”
Gã gọi to lên: “Nhìn đây! Ta sẽ làm những gì ta thích trong thung lũng này, Các người có nghe thấy không? Ta sẽ làm những gì và đi những đâu ta thích!”
Họ đang tiến lại gần gã rất nhanh, dò dẫm đi, nhưng vẫn rất nhanh. Cứ như thể chơi trò bịt mắt bắt dê, tất cả đều bịt mắt, trừ một người. “Tóm lấy nó” một người kêu lên. Gã thấy gã lọt vào trong một cung tròn lỏng lẻo của những người đuổi bắt. Bỗng gã thấy gã phải chủ động và quyết đoán.
“Chúng mày không hiểu,” gã gào lên bằng một giọng tỏ ra oai hùng và quyết liệt, “Chúng mày mù, còn tao mắt sáng. Đừng động đến người tao!”
“Bogota! Bỏ cái mai xuống, và bước ra khỏi cỏ!” Mệnh lệnh cuối cùng, nghe kì cục vì cái giọng thành thị quen thuộc, gây nên một cơn giận.
“Tao đập chết mày,” gã nói, giọng nghẹn lại vì kích động. “Thề có Trời, tao đập chết mày. Hãy để tao yên!”
Gã bắt đầu chạy, nhưng không biết chạy đi đâu. Gã chạy ra khỏi người mù đứng gần nhất, bởi vì nếu đánh ông ta thì khủng khiếp quá. Gã dừng lại một chút, rồi vùng chạy thoát khỏi những hàng khép kín của họ. Gã lao đến chỗ có khoảng hở lớn, và những người ở phía bên kia nhanh chóng nhận ra tiếng bước chân hắn đến gần, lao nhanh đến ráp lại với nhau. Gã bùng ra phía trước, và đúng lúc đó gã thấy gã nhất định sẽ bị bắt, và vút! Cây mai phóng ra. Gã cảm thấy tiếng huỳnh huỵch của bàn tay và cánh tay, rồi người đàn ông ngã vật xuống với một tiếng kêu đau đớn, và gã thoát ra.
Thoát! Sau đó gã đi tới gần những dãy phố, còn những người mù thì khua tít mai và gậy lên, chạy tới chạy lui.
Đúng lúc đó gã nghe tiếng bước chân phía sau lưng, và thấy một người đàn ông cao lớn lao tới và đánh mạnh vào chỗ có tiếng động của gã. Gã hoảng hồn lao mạnh cái mai ra cách đối thủ một mét, và xoay tít, rồi bỏ chạy và hét lên khi tránh một cú đánh khác.
Gã cực kì hoảng loạn, chạy tới chạy lui như phát rồ, né tránh khi không có gì phải tránh, và lo sợ phải nhìn tứ phía một lúc, gã vấp dúi dụi. Có lúc gã ngã và người ta nghe tiếng gã ngã. Xa xa trong bức tường bao có một ô cửa nhỏ trông giống như màu trời, gã bắt đầu chạy như điên dại đến đó. Gã thậm chí chẳng nhìn quanh xem những người đuổi theo gã, cho đến lúc họ tới gần, và gã vấp té khi qua cầu, rồi trèo lên một lối đi nhỏ giữa các tảng đá, làm cho một con lạc đà không bướu ngạc nhiên hốt hoảng chạy biến, gã nằm vật xuống thở hồng hộc.
Thế là cuộc chính biến của gã kết thúc.
Gã nằm lại bên ngoài bức tường bao của thung lũng Mù hai đêm ngày không thức ăn không chỗ ngủ và nghiền ngẫm về điều bất ngờ. Trong những lúc nghiền ngẫm ấy gã nhắc đi nhắc lại liên tục và luôn với một vẻ châm biếm sâu sắc câu ngạn ngữ “Xứ Mù thằng chột làm vua.” Gã chủ yếu nghĩ về các cách chiến đấu và chinh phục những con người này, và càng thấy rõ chẳng có cách nào mà gã có thể áp dụng được.
Gã không có vũ khi, và bây giờ thì khó mà kiếm được một thứ. Cái đồi bại của văn minh đã nhiễm vào gã ngay từ thời ở Bogota, nhưng gã không thể tìm ra nó trong người gã lúc này để lao xuống mà ám sát một người mù. Tất nhiên, nếu gã làm thế, gã có thể áp đặt những điều kiện bằng cách đe dọa ám sát tất cả bọn họ. Nhưng – sớm muộn gì, gã cần phải ngủ!…
Gã cũng cố gắng đi tìm cái gì để ăn giữa những cây thông, để được thoải mái dưới những cành thông khi sương đêm xuống – chẳng mấy tự tin – dùng mẹo bắt một con lạc đà không bướu để giết, có lẽ đập bằng một hòn đá – và cuối cùng, có lẽ, ăn thịt nó. Nhưng những con lạc đà đã nghi ngờ gã và nhìn gã bằng đôi mắt nâu cảnh giác, và phun phì phi khi gã đến gần. Ngày thứ hai, nỗi sợ và những cơn run rẩy đến với gã. Cuối cùng gã bò xuống bức tường thành của Xứ Mù và cố tìm thỏa thuận. Gã bò lê dọc con suối, kêu gào mãi đến khi có hai người mù ra cổng thành nói chuyện với gã.
“Tôi điên,” gã nói. “nhưng tôi chỉ là kẻ mới thành hình”
Họ bảo thế thì khá hơn rồi đấy.
Gã nói với họ rằng bây giờ gã đã khôn hơn, và ân hận về tất cả những việc gã đã làm.
Rồi gã bật khóc dù không định trước, vì gã rất yếu và ốm, bây giờ gã lấy chuyện đó làm lợi thế.
Họ hỏi gã bây giờ gã còn nghĩ là gã có thể “nhìn” được không?
“Không,” gã nói. “Điều ấy là ngu ngốc. Cái từ ấy chẳng có nghĩa gì cả, còn kém hơn cả sự vô nghĩa!”
Họ hỏi gã trên đầu là cái gì.
“Khoảng mười lần mười chiều cao của con người có một cái mái bên trên thế giới – bằng đá, và rất, rất mịn màng.”… Gã lại bật ra những giọt nước mắt bấn loạn. “Trước khi hỏi thêm tôi câu gì, các ông cho tôi ít thức ăn không tôi chết mất.” Gã chờ sự trừng phạt thảm khốc, nhưng những người mù có khả năng khoan dung. Họ coi cuộc nổi loạn của gã chỉ là bằng chứng của sự ngu si và thấp kém của gã; và sau khi đánh gã bằng roi họ giao cho gã những công việc đơn giản nhất và nặng nhọc nhất, và gã thấy chẳng còn cách sống nào khác, ngoan ngoãn làm theo bất cứ cái gì họ bảo.
Gã ốm mất mấy ngày, và họ chăm sóc gã tận tình. Việc ấy càng làm cho gã cảm động và thần phục. Nhưng họ cứ nhất định bắt gã nằm trong bóng tối, và đó là một bí mật lớn. Các triết gia mù đến nói chuyện với gã về sự khinh suất tệ hại của trí óc gã, mắng mỏ gã nặng nề vì đã nghi ngở về cái vung bằng đá úp trên cái nồi vũ trụ của họ, đến nỗi gã thật sự ngờ không biết có phải gã đã rơi vào hoang tưởng nên không nhìn thấy nó trên đầu.
Nuñez đã trở thành công dân Xứ Mù như thế, và những người này thôi không còn là những con người chung chung, mà đã là những cá nhân gần gũi với gã, trong khi cái thế giới bên ngoài những dãy núi kia trở nên ngày càng xa và không thực. Ở đây có Yacob, chủ của gã, là người nhân hậu khi không nổi nóng; có Pedro, cháu của Yacob, và có Medina-saroté, là con gái út của Yacob. Nàng không được quí trọng trong thế giới của người mù, vì nàng có khuôn mặt gãy gọn, thiếu vẻ trơn láng tròn trặn no đủ vốn là lí tưởng về vẻ đẹp của nữ giới ở những người mù. Nhưng Nuñez lúc đầu nghĩ rằng nàng đẹp còn bây giờ nàng là đẹp nhất trong số tạo vật mà gã biết. Đôi mi khép của nàng không trũng và không đỏ như thường tình ở thung lũng này, nhưng nằm im như thể nó sẽ mở ra bất cứ lúc nào; nàng có hàng lông mi dài, vốn bị họ coi là xấu xí dị hợm. Giọng nàng vang to, nhưng những chàng trai cục mịch trong thung lũng vốn thính tai không thích, bởi vậy nàng vẫn chưa có người yêu.
Rôì đến một lúc Nuñez nghĩ rằng, nếu gã có được nàng, gã sẵn sàng ở lại đây trọn đời.
Gã nhìn nàng, tìm mọi cơ hội để làm cho nàng những việc nhỏ, và sau gã nhận ra nàng theo dõi gã. Có lần vào ngày nghỉ hai người ngồi cạnh nhau dưới ánh sao mờ, âm nhạc nghe dịu ngọt. Gã đưa tay tìm tay nàng rồi đánh bạo đan vào bàn tay nàng. Nàng bóp nhẹ để trả lời. Rồi một lần vào bữa ăn trong bóng tối, gã cảm thấy tay nàng vô cùng mềm mại đang lần tìm tay gã, tình cờ lúc ấy ánh lửa bùng lên và gã nhìn thấy gương mặt nàng đầy âu yếm.
Gã tìm cách thổ lộ với nàng.
Vào một ngày gã đến với nàng khi nàng đang ngồi quay tơ dưới ánh trăng mùa hè. Ánh trăng như dát bạc lên nàng khiến hình ảnh nàng thêm bí ẩn. Gã ngồi sát dưới chân nàng và nói gã yêu nàng, nói gã thấy nàng thật đẹp. Giọng gã tình tứ, gã nói một cách kính trọng dịu dàng gần như kinh sợ, và nàng thấy xúc động vì chưa bao giờ được ngưỡng mộ đến thế. Nàng không trả lời rõ ràng, nhưng chắc chắn gã đã làm nàng vui thích.
Sau đó cứ khi nào có cơ hội là gã lại lân la nói chuyện với nàng. Thung lũng này trở thành thế giới đối với gã, và cái thế giới bên ngoài những dãy núi kia, nơi người ta sống dưới ánh mặt trời chỉ còn là một câu chuyện thần tiên gã đã từng được nghe kể. Dè dặt ngập ngừng gã nói với nàng về sự nhìn. Với nàng sự nhìn giống như những tưởng tượng đầy thi vị, nàng nghe gã tả những ngôi sao và những dãy núi, gã tả vẻ đẹp rạng rỡ ngọt ngào của chính nàng, và nàng nghĩ đó là cám dỗ tội lỗi. Nàng không tin, nàng chỉ hiểu một nửa, nhưng nàng âm thầm sung sướng, và điều đó khiến gã nghĩ nàng đã hiểu hoàn toàn.
Tình yêu khiến gã không còn sợ hãi mà thêm can đảm. Gã bắt đầu tính tới chuyện nói lời cầu hôn nàng với Yacob và các già làng, nhưng nàng sợ hãi và trì hoãn. Và một trong những người chị của nàng đã nói với Yacob rằng Medina-saroté và Nuñez yêu nhau.
Ngay từ đầu cuộc hôn nhân của Nuñez và Medina-saroté đã bị chống đối kịch liệt, không phải vì họ coi nàng có giá trị, mà vì họ coi gã là kẻ ngoài lề, một thằng ngu đần không xứng đáng, thấp kém dưới mức một con người. Các cô chị của nàng gay gắt phản đối vì chuyện này sẽ làm cho tất cả bị mang tai mang tiếng, còn lão Yacob mặc dù đã thấy hơi thinh thích thằng ở vụng về ngoan ngoãn này, lão vẫn lắc đầu bảo không thể được. Bọn trai trẻ tức giận vì cho rằng cuộc hôn nhân này sẽ làm nòi giống thoái hóa, có đứa còn đến chửi rủa và đánh Nuñez. Gã đánh lại. Lúc đó lần đầu tiên gã thấy được lợi thế của khả năng nhìn, cho dù trong ánh chạng vạng, và sau khi cuộc đấu kết thúc không kẻ nào dám giơ một bàn tay lên đánh gã nữa. Nhưng họ vẫn không chấp nhận cuộc hôn nhân ấy.
Lão Yacob thương đứa con gái út, lão cảm thấy đau khổ khi cô gục đầu vào vai lão khóc.
“Con thấy đấy, con gái ạ, nó là một thằng ngu. Nó có những ảo tưởng, nó sẽ không làm nên trò trống gì.”
“Con biết,” Medina-saroté khóc. “Nhưng anh ấy đã khá hơn trước. Anh ấy ngày càng khá hơn. Anh ấy khỏe, bố ạ, và tốt. Khỏe hơn, và tốt hơn bất kì người con trai nào trên thế giới. Và anh ấy yêu con, bố ơi, và con yêu anh ấy.” Lão Yacob vô cùng đau buồn khi thấy không sao an ủi được con gái, và, ngoài ra, lão lại càng đau buồn hơn vì chính lão cũng đã thích Nuñez về nhiều điểm. Bởi vậy lão đến căn nhà không cửa sổ của phòng hội đồng, ngồi với những lão già khác, theo dõi chiều hướng của câu chuyện, rồi lựa lúc thích hợp lão nói. “Nó đã khá hơn trước nhiều. Rất có thể, vào một ngày nào đó chúng ta sẽ thấy nó cũng lành mạnh như chúng ta.”
Lúc đó, một trong những ông già, sau khi đã suy nghĩ sâu, có một ý kiến. Ông ta là một thầy thuốc giỏi trong dân chúng, có đầu óc triết lí và sáng tạo, và ông nảy ra ý nghĩ chữa trị cho Nuñez khỏi cái chứng bệnh quái đản của gã. Một hôm khi có mặt Yacob ông ta quay trở lại đề tài Nuñez.
“Tôi đã khám cho Bogota,” ông nói, “và đã rõ bệnh tình của hắn, Tôi nghĩ hoàn toàn có thể chữa cho hắn.”
“Đó là điều mà tôi luôn hi vọng,” lão Yacob nói.
“Não của nó mắc bệnh.” Ông thầy thuốc mù nói.
Các già làng lầm rầm tán thành.
“Ờ, vậy nó mắc bệnh gì?”
“Ôi chao” Yacob thốt lên.
“Cái này,” ông thày thuốc tự trả lời câu hỏi của mình. “Có những vật kì quặc được gọi là mắt, tồn tại để tạo thành một chỗ trũng mềm mại dễ thương trên mặt, trong trường hợp Bogota, bị mắc bệnh, chúng sưng vù lên, và bệnh nhiễm lên óc của nó. Nó lại có lông mi, và mí mắt của nó động đậy được, kết quả là não của nó ở trong tình trạng thường xuyên bị kích thích và xao lãng.
“Vậy hả?” lão Yacob hỏi.
“Và tôi nghĩ tôi có thể nói khá chắc chắn rằng, để chữa cho nó khỏi hoàn toàn, điều mà chúng ta cần là một cuộc phẫu thuật đơn giản và dễ dàng – tức là, lấy cái vật gây kích thích này ra.”
“Và sau đó nó lành mạnh?”
“Sau đó nó sẽ lành mạnh một cách hoàn hảo, và là một công dân hoàn toàn đáng ngưỡng mộ.”
“Cảm ơn Thương đế vì khoa học!” Yacob nói, và ngay lập tức đi tìm Nuñez để nói cho gã biết hi vọng về hạnh phúc của gã.
Nhưng thái độ của Nuñez khi nhận được tin mừng này làm cho lão chưng hửng, vì nó lạnh lùng và thất vọng.
“Cái thái độ của anh làm người ta có thể nghĩ anh cóc cần gì con gái ta” lão nói.
Chính Medina-saroté đã thuyết phục Nuñez hãy nhận cuộc giải phẫu mù.
“Em không muốn anh bị mất khả năng nhìn đấy chứ?” gã nói.
Nàng lắc đầu.
“Khả năng nhìn là cả thế giới đối với anh.”
Nàng cúi đầu thấp hơn.
“Có những cảnh đẹp diệu kì, những vật nho nhỏ xinh đẹp – những bông hoa, địa y trên vách đá; cái nhẹ nhàng và mềm mại của một chiếc áo lông thú; bầu trời xa với những đám mây trôi, cảnh hoàng hôn và những vì sao đêm. Và có em. Chỉ riêng có em thì việc nhìn thấy được đã là tuyệt diệu rồi, vẻ ngọt ngào của em, nét mặt thanh thản, đôi môi xinh tươi hé mở, đôi bàn tay đẹp chắp trước ngực. ..Chính em đã chinh phục được cặp mắt này của anh, cặp mắt đã giữ anh ở bên em, chính cặp mắt này bọn ngu kia muốn lấy…Nếu không có chúng, anh có thể chạm vào em, nghe em, nhưng không bao giờ nhìn thấy em nữa. Anh phải đến dưới cái mái bằng đá, trong bóng tối, cái mái khủng khiếp ấy, mà trí tưởng tượng của em cúi xuống chui vào… Không; em sẽ không bắt anh làm thế chứ?”
Một mối ngờ vực khó chịu nảy ra trong gã. Gã dừng lại, và bỏ ngỏ câu hỏi.
“Em mong, “ nàng nói, “đôi khi —” Nàng ngưng lại.
“Phải,” gã nói, đã hơi hiểu.
“Em mong đôi khi –anh sẽ không nói như thế”
“Như thế nào?”
“Em biết nó đẹp… nó là tưởng tượng của anh. Em thích, nhưng bây giờ—“
Gã lạnh người. “Bây giở?” gã nói một cách yếu ớt.
Nàng ngồi bất động.
“Em muốn nói — em nghĩ – anh nên, tốt nhất có lẽ nên —-“
Gã nhanh chóng nhận ra tình thế. Gã cảm thấy tức giận, giận vì cái oái oăm của số phận, nhưng đồng thời cũng thông cảm cho sự thiếu hiểu biết của nàng – một sự thông cảm gần giống với thương hại.
“Em yêu,” gã nói, trông nàng trắng bợt gã có thể thấy những điều ấy đã gây sức ép mạnh mẽ nhường nào lên tâm hồn nàng, những diều mà nàng không thể nói ra. Gã vòng tay ôm nàng, hôn lên tai nàng, và hai người ngồi im lặng một lúc.
“Nếu anh bằng lòng?” cuối cùng gã nói, bằng giọng vô cùng dịu dàng.
Nàng choàng tay ôm gã, khóc nức nở. “Ôi, nếu anh bằng lòng,” nàng thổn thức, “chỉ cần anh bằng lòng!”
* * * * *
Một tuần trước khi diễn ra cuộc phẫu thuật sẽ nâng chàng từ thân phận nô lệ thấp kém lên hàng công dân xứ mù, Nuñez chẳng còn biết đến giấc ngủ, và xuyên suốt những giờ nắng ấm, trong khi những người khác vui vẻ thoải mái ngủ, chàng ngồi ủ ê hoặc đi lang thang vô mục đích, cố gắng đưa ý nghĩ trở về cái thế tiến thoái lưỡng nan của chàng . Chàng đã đưa ra câu trả lời, chàng đã nói bằng lòng, nhưng vẫn còn chưa chắc. Và cuối cùng thời gian chờ đợi đã hết, mặt trời chói lọi mọc trên đỉnh vàng, và ngày cuối cùng chàng trông thấy ánh sáng đã đến. Chàng có mấy phút với Medina-saroté trước khi nàng về đi ngủ.
“Ngày mai, anh sẽ không nhìn thấy gì nữa,” chàng nói.
“Anh thân yêu,” nàng trả lời, bóp tay chàng bằng tất cả sức mạnh của nàng.
“Họ sẽ làm anh đau, nhưng chỉ chút ít thôi,” nàng nói, và anh sẽ vượt qua cái đau – anh sẽ vượt qua, anh ạ, vì em… Anh yêu, em sẽ bù đắp cho anh, nếu trái tim và cuộc đời một người đàn bà có thể làm được điều đó. Anh yêu nhất đời của em, với giọng dịu ngọt, em sẽ bù đắp.”
Chàng khóc đầm đìa vì thương thân và thương nàng.
Chàng quàng tay ôm chặt nàng, gắn môi chàng lên môi nàng, nhìn gương mặt dịu dàng của nàng lần cuối. “Tạm biệt em!” chàng thì thầm với hình ảnh thân yêu ấy “Tạm biệt em!”
Rồi chàng lặng lẽ quay đi.
Nàng nghe thấy tiếng bước chân chầm chậm xa dần, và trong nhịp điệu của chúng có cái gì khiến nàng muốn khóc.
Chàng muốn đến một nơi thật vắng vẻ, ở đó đồng cỏ thật đẹp với những đóa thủy tiên trắng, và ở lại đó cho đến giờ lên bàn mổ, nhưng khi bước đi chàng ngước mắt nhìn và thấy ánh bình minh, ánh bình minh như một thiên thần trong giáp trụ bằng vàng, đang từ từ bước xuống triền dốc…
Trước cảnh tượng huy hoàng tực rỡ này, chàng thấy dường như chàng, và cái thế giới người mù trong thung lũng, và tình yêu của chàng, và tất cả, không hơn gì một cái hố tội lỗi.
Chàng không muốn rẽ ngang như đã định thế, mà tiếp tục thẳng tiến, qua bức tường bao, và trèo lên những tảng đá, mắt chàng luôn dán vào băng tuyết lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Chàng thấy vẻ đẹp vô hạn của chúng, và trí tưởng tượng của chàng bay vút lên bên trên chúng, tới những cảnh vật ngoài kia mà nay chàng sắp vĩnh viễn từ bỏ.
Chàng nghĩ về cái thế giới tự do kì diệu mà chàng bị cắt lìa, cái thế giới trước kia đã là của chàng, chàng nhìn những dốc núi xa tắp, những tầm xa vượt ra ngoài những tầm xa, với Bogota, nơi có vô vàn vẻ đẹp lay động lòng người, ban ngày rực rỡ huy hoàng, ban đêm bí ẩn, nơi có những lâu đài, vòi phun nước và tượng đài, những ngôi nhà trắng đẹp nằm ở khoảng giữa. Chàng nghĩ đến làm sao người ta có thể chỉ trong một ngày đi xuống qua những hẽm núi, tới gần những khu phố và những con đường sầm uất. Chàng nghĩ đến chuyến đi đường sông, ngày này qua ngày khác, từ Bogota vĩ đại đến thế giới còn bao la hơn ngoài kia, qua những thành phố và làng mạc, rừng rú và sa mạc, con sông cuồn cuộn chảy, ngày này qua ngày khác, cho đến khi các bờ lùi xa và những con tàu chạy hơi nước tung bọt trắng xóa, và ra đến biển – biển rộng vô hạn, với hàng ngàn hòn đảo, và những con tàu xa tít mù tắp, trong hành trình không ngơi nghỉ của chúng chạy vòng quanh cái thế giới bao la này.
Và ở đó, không bị nhốt trong những dãy núi, ngưởi ta nhìn thấy bầu trời – bầu trời không phải giống chiếc đĩa như ngưởi ta thấy ở đây mà là một vòm xanh mênh mông một chiều sâu hun hút, trên đó những chấm sao nhấp nháy trôi đi..
Đôi mắt chàng nhìn xăm soi rặng núi hùng vĩ với những câu hỏi mông lung.
Ví dụ, ta leo lên qua cái khe đó tới hẽm núi trên kia, rồi từ đó có thể leo tới bãi thông còi cọc bao quanh núi như một cái thềm kia, rồi leo lên cao hơn, cao nữa đến khi vượt qua hẽm núi bên trên đó.
Rồi sau đó thì sao? Cái bờ dốc kia thì có thể cố vượt qua được. Từ đó có thể tìm ra chỗ trèo lên tới cái vách đứng phủ băng tuyết, và nếu không qua được hẽm núi ấy, thì đi xa hơn về hướng đông có lẽ sẽ tốt hơn. Còn sau đó? Sau đó thì có thể ra chỗ bãi tuyết được chiếu sáng như hổ phách kia, và thế là được nửa đường lên đỉnh cao nhất của cõi hoang vu đẹp đẽ này.
Chàng liếc xuống làng, rồi quay đúng một vòng và chằm chằm nhìn nó.
Chàng nghĩ đến Medina-saroté, nàng đã trở nên nhỏ bé và xa vời.
Chàng quay lại nhìn dãy núi, qua nó, ánh ngày đã đến với chàng .
Rồi, hết sức thận trọng, chàng bắt đầu trèo.
Khi mặt trời lặn, chàng ngừng trèo, nhưng đã đi được xa và cao. Trước đó còn cao hơn, nhưng bây giờ vẫn rất cao. Quần áo rách toạc, tay chân bê bết máu, người chàng thâm tím nhiều chỗ, nhưng chàng nằm nghe chừng thoải mái lắm. Một nụ cười nở trên gương mặt.
Từ chỗ nằm nghỉ nhìn xuống chàng thấy thung lũng như một cái hố và cách gần một dặm bên dưới. Nó đã mờ đi vì sương mù và bóng tối,
mặc dù những ngọn núi xung quanh chàng đang ngập tràn ánh sáng. Những ngọn núi xung quanh ngập tràn ánh sáng, từng chi tiết nhỏ của núi đá thấm đẫm vẻ đẹp mê hồn – một gân xanh của khoáng thạch nổi bật lên trên màu xám, đó đây những mặt tinh thể lóe sáng, vẻ đẹp thoáng qua của địa y màu cam kế sát bên mặt chàng. Trong hẽm núi có những bóng tối sâu thẳm đầy bí ẩn, từ màu xanh dương đậm chuyển thành màu tía, và trên đầu là bầu trời xanh vô tận. Nhưng chàng không để ý đến những vật đó nữa, mà nằm đó hoàn toàn bất động, mỉm cười như thể chàng chỉ thỏa mãn vì đã thoát khỏi thung lũng Mù. Ở đó đã có lúc chàng muốn làm một ông vua.
Ánh hoàng hôn rực rỡ đã tắt, đêm xuống, chàng vẫn nằm thanh thản hài lòng dưới những vì sao sáng lạnh.
14082017