VỚI KHUẤT NGUYÊN
Từ bên dòng sông Mịch
Vọng về khúc Ly Tao
Muốn mời ông cốc rượu
Biết hồn ông nơi nào?
GIÁ ĐƯỢC SAY NHƯ LÝ BẠCH
Trăng in lòng sông trong vắt
Ngỡ như dĩa ngọc vừa rơi
Giá được say như Lý Bạch
Chắc ta ôm gọn trăng rồi!
RÙA VÀNG ĐỘC THOẠI
Thương thay thân phận con
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia
Ta là người có công
Hay là người có tội
Ai oán hận ta không?
Đêm đêm ta tự hỏi.
Công ta, ai cũng biết
Tội ta, mấy ai hay
Lương tâm ta cắn rứt
Từ bấy cho đến nay.
Một lời ta lỡ nói
Chẳng suy xét trước sau
An Dương Vương nổi giận
Chém rơi đầu Mỵ Châu.
Máu tươi ròng ròng chảy
Dẫu có thành ngọc trai
Những lời ta buộc tội
Ngàn năm còn oan sai!
Có phải vì thế chăng
Ta bị trời trừng phạt
Lên đình thì đội hạc
Xuống chùa thì đội bia?
LƯỠI GƯƠM OAN NGHIỆT
Ngày hôm ấy đùng đùng sấm nổ
Cây vặn mình, chớp xé mây đen
Nước sông chảy nghẹn ngào, nức nở
Sóng ngoài khơi uất ức gào lên...
Người chính trực quặn lòng, không dám khóc
Chỉ âm thầm than thở với non sông
Môi mím chặt để khỏi trào nước mắt
Thương anh hùng đành nuốt lệ vào trong
Ở vườn quỳnh có lũ chim ton hót
Chúng hiềm thù cây trúc đứng ngăn
Lời xúc xiểm của lũ chim hiểm ác
Để bất ngờ trúc bị chém ngang thân
Quân bạo chúa vung lưỡi gươm oan nghiệt
Máu đỏ bầm lịch sử đến nghìn năm
Nhân nghĩa thế mà Ức Trai bị giết
Hởi triều đình đầy rẫy lũ bất nhân?
Người tài đức bị vu oan giá hoạ
Lũ bất tài nắm quyền bính trong tay
Ghét ánh sáng, chúng hùa cùng bóng tối
Dùng kẻ gian, chúng gạt bỏ người ngay
Chữ an dân suốt một đời mơ ước
Tóc bạc rồi mà dân vẫn chưa an
Đêm thức trắng bởi nỗi lo dân nước
Thơ đọng buồn với bao tiếng oán than
Sống làm cây tùng coi thường giá rét
Thuốc trường sinh mong để lại cho đời
Cảm ơn thời gian công minh phán xét
Lòng Ức Trai vằng vặc giữa trời!
BẾN GIANG ĐÌNH*
Đầu xuân thăm bến Giang Đình
Tố Như xưa đứng một mình nơi đây
Lặng nhìn sông núi, cỏ cây...
Ngậm ngùi nuối tiếc những ngày vàng son...
Dấu xưa, lối cũ... đâu còn!
Thuyền câu
thả
sợi khói buồn
trên sông...
* Bến Giang Đình ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh – quê hương Đại thi hào Nguyễn Du
ĐỌC “ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ”*
Một nàng tiên ở vườn trời
Chẳng may sẩy bước lỡ rơi xuống trần
Làm xôn xao khắp sáu thành
Nhành thiên hương ấy sao đành gãy ngang?
Có ai thương kiếp hồng nhan
Thác rồi còn chịu tiếng oan ở đời
Tài hoa uổng phí một thời
Lại còn mang tiếng là người gió trăng
Khát khao gặp Liễu Kỳ Khanh
Cõi trần không gặp nên đành ra đi
Biết đâu có bạn tương tri
Cảm thương thân phận ca nhi lỡ làng
Một mình tìm viếng mộ nàng
Vì nàng muốn giải tiếng oan ở đời
Bút hoa thảo một đôi lời
Hoá thành châu ngọc khóc người ngày xưa
Ngồi trầm ngâm trước trang thơ
Mộ nàng tiên ấy bây giờ ở đâu?
*Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
NỖI NIỀM HUYỀN TRÂN
Vết thương cố giấu vào tim
Nửa đêm thức giấc chỉ mình biết thôi
“Nước non ngàn dặm”… chàng ơi!
Ai làm cho thiếp chịu lời thị phi?
Cái ngày chàng bỏ thiếp đi
Đất trời “tử biệt, sinh li” não nùng…
Tháp Chàm khóc đấng anh hùng
Hiên ngang khí phách, lẫy lừng một phương!
Bị đưa về lại cố hương
Mà lòng trăm nhớ, ngàn thương quê người
Đứa con vừa mới chào đời
Mất cha, lìa mẹ khản hơi khóc gào…
Lánh xa cái chốn ba đào
Nỗi đau biết đến khi nào nguôi ngoai?
Gửi thân vào chốn Phật đài
Sớm trưa chay tịnh, kinh bài ngày đêm.
Mặc cho trăng đợi trước thềm
Mặc cho gió thổi ngoài hiên thầm thì
Thời gian lặng lẽ trôi đi
“Lửa lòng đã tắt” còn gì nữa đâu!
Tuyết sương nhuộm trắng mái đầu
A di đà Phật! Nguyện cầu chúng sinh…
VIẾNG MỘ TRẦN TẾ XƯƠNG
Thi nhân mằm dưới đất sâu
Nắm xương chắc chẳng còn đâu đến giờ
Gia tài chỉ mấy vần thơ
Nắng sương không nhạt, gió mưa không nhoà
Sông thành đồng bãi, cửa nhà...
Giật mình tiếng ếch xót xa nỗi niềm
Trò đời nhốn nháo, đảo điên
Lôi thôi lều chỗng bao phen khóc, cười ...
“Dài lưng tốn vải” vợ nuôi
Thân cò bà Tú một đời long đong
Tảo tần buôn bán mom sông
Năm mưa, mười nắng vẫn không nề hà
Quan trường ậm oẹ thét loa
Ngoái nhìn ông cử nhà ta thêm buồn
Dẫu không chớp bể, mưa nguồn...
Đêm đêm Sông Lấp gọi hồn đêm đêm...
Bây giờ trời đất bình yên
Bó hoa ai đặt ở trên mộ Người?
Sông kia dù bị lấp vùi
Dòng - sông - Thơ vẫn ngàn đời trong xanh!