(Gửi về phương trời Sydney)
Nhiều lần trở lại Vũng tàu,nhiều lần tay tôi chạm vào đâu cũng nghe bong vỡ dấu tích của một thời hoang phế.
Đâu chừng năm 1966,67 gì đó…cô bạn Gia Long thân thiết của tôi theo gia đình dời cư về Vũng Tàu. Cuộc chia ly dạo ấy làm buồn con phố nhỏ Phát Diệm (Cầu Kho) - con đường tình sử nằm đây /đèn khuya mắt đỏ còn đầy dấu xưa …! Tôi cảm nhận như vậy suốt mùa hạ năm đó.Quốc lộ 15 dạo ấy biến Saigon - Vũng Tàu thành hai đầu nỗi nhớ - đã trở thành động lực mù lòa“tam tứ núi cũng trèo…”dẫn đến những chuyến “đi bụi” xảy ra từ đó.Tôi nhớ mang máng như vậy và chắc là như vậy bởi tuy đã gần nửa thế kỷ,não óc tuy có hao hớt nhưng thi thoảng câu chuyện đầu đời vẫn cứ lao xao !
Chiều xuống lâu rồi quanh tôi ngập ngụa bóng tối.Hàng quán,quầy Bar,dãy kiosque bán đồ mỹ nghệ sò ốc lưu niệm đóng khép im lìm.Thị xã VT ngày ấy còn luộm thuộm lắm.Con đường Quang Trung căng ngang Bãi Trước vắng lặng.Tòa Bạch Dinh trăng trắng nhờ nhờ dưới ánh hải đăng quét loang loáng từ phía ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa Kitô dang tay rộng mở.Con đường chạy vòng Bãi Dâu có đoạn ôm cua vách đá dựng thẳng chi chit những vết tích hình trái tim tên anh,tên em được khắc vẽ rối rắm hoằng huệnh – có lẽ của những đôi trẻ nào đó qua đây muốn lưu chứng tích“ngày mình quen nhau,hiện diện nơi đây - nghe biển tình sóng hát” .
Bên núi,bên biển,con đường cắm đầu chạy tới Sao Mai,Bến Đá ngang qua Thích Ca Phật Đài,mải miết về phía Thắng Nhì đường Nguyễn An Ninh,ngã tư Giếng nước – nơi,trời ơi có em ở đó - người làm tôi phải khổ sở ngủ bụi đêm nay dưới những tàn dừa nghiêng tóc dài như những thanh gươm tua tủa huơ trong gió .Tiếng hai thanh tre chạm vào nhau theo nhịp lóc cóc thay lời rao đêm của một xe mì gõ trước nhà nghỉ công chức xa dần mất hút. Đêm nay mới thật là đêm…Biển ngoài kia đen quánh, gió quạt phần phật.Tôi thả cho nỗi buồn trôi dập dềnh vào khuya.Có ngủ nghê được gì đâu,nửa đêm triều dâng sóng tràn lên bãi kéo theo rác rưởi làm tán loạn giày dép dưới chân ghế. Gió vẫn hào phóng trần truồng trong đêm,thổi chung chiêng lật ngửa tàn dù rách bươm.Tôi co chân lên rọ rậy trong tấm nhựa nylông chẳng đủ đâu vào đâu,khí lạnh đục rúc vào da thịt,duy nhất chiếc áo padessus bạc phết vẫn bấu quấn lấy tôi .Ôi cái đêm lang thang bụi bặm như mũi dao khắc vào ký ức thành những hình thù không rõ mà mỗi lần trở lại biển tôi như chạm vào mắt môi,dáng vóc của một bóng hình có thật như những con tàu tít mù khơi xa chẳng thể nào với tới.
Núi Lớn Vũng Tàu ngày ấy hoang sơ lắm,am cốc,tịnh xá cùng với cỏ cây chen đá lẫn với kinh kệ tịch liêu mọc lưng chừng đường lên núi.Tôi đã có dịp tá túc qua đêm“nương nhờ cửa Phật”.Tối hôm ấy huynh đệ sa-di,người lánh trần ai về dưới bóng từ bi Phật Tổ mấy năm rồi kể cho tôi nghe về con đường tu tập khổ hạnh của bản thân .Còn trẻ quá tôi chỉ biết ngồi yên lặng nghe mà không cách chi chia sẻ đáp trả lại.Tôi cảm giác như có điều gì nghịch lý,thốt nhiên tự hỏi ô hay mình có chán cuộc trần gian này đâu mà có mặt nơi đây để nghe kinh pháp ! Trái lại là đằng khác.Tôi đang ngập lụt trong cảm xúc thanh khiết đầu đời.Sự có mặt đêm nay của tôi,nơi am cốc này được thôi thúc bởi cơn say khướt của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu:“Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn …/ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” (Vội Vàng)
Tôi lẩm nhẩm trong bóng tối thấy mình“mẫn nhuệ” kỳ lạ : Ô hay ta có thất tình đâu ? Đêm Vũng tàu vẫn loang loáng ánh hải đăng.Giàn radar (Viba)* trên núi Lớn vẫn khom mình dò sóng vợt bắt bóng người xa vời vợi.Tôi thả lưới rê,lưới giả cào khua khoắng đại dương vẫn không sao gặp .Thôi đành hẹn kiếp sau mù tăm người nhé !
(Saigon,tháng 3/2020)
(*) Đỉnh cao núi Lớn – trạm Radar -Vi ba ,nay là khu du lịch Hồ Mây Vũng Tàu