Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.184
123.150.162
 
Nhật ký chiến trường - NGÀY 16-17-18/4/1975 - Phan rang những ngày đáng nhớ
Trần Khởi

    

                                     

16/4/1975

     Sáng ngày 16/4/1975 dưới vườn điều thôn An Xuân, thị Xã Phan Rang, khi nhận được tin của cả phía địch và ta : 

- " Trung đoàn 25 của Sư 3 đã làm chủ sân bay Thành Sơn ", Tổ TSKT được lệnh của Trưởng Ban 2 Nguyễn Khắc Vẽ :-  " Tất cả Tổ TSKT tiếp tục mở máy theo dõi tin địch... " .

    Cũng lúc này, trên trời xuất hiện một chiếc trực thăng của địch cứ liều lĩnh, quần thảo , soi mói trong làn đạn lửa pháo phòng không dày đặc của ta. Toàn tổ 10 máy, mọi người đang mò mẫm, tìm kiếm tần số của chúng. Khi tôi đang xoay Volum, bỗng xuất hiện một tiếng gọi lạ phát ra từ tai nghe. Tôi nheo mắt theo dõi .

 - " Đại Bàng đâu Chim Ưng gọi!....Đại Bàng đâu Chim Ưng gọi!....". 

Nhà thơ Đào Quang Thắng liếc mắt qua phía tôi cùng nghe rồi nói : 

- Khả năng dưới mặt đất còn bọn địch, nên trực thăng đang quần lượn nhiều để tìm bãi bốc....Nhớ bám chắc, dò cho ra điểm đứng của bọn chúng...

     Nói thật, lúc này mình đau răng kinh khủng, mà không ai ngu như mình, tưởng đánh răng thì đỡ đau, ai dè càng đánh càng đau tợn. Nhức hết cả đầu , chỉ cần nuốt nước bọt cũng đau, mặc dầu uống thuốc giảm đau, nhưng vẫn không thuyên giảm. Vừa rên hừ hừ vừa phải nghe máy. Thằng Sỹ Hùng bổ mấy quả dừa, cho mấy lon sữa hộp pha một thau đầy. Nói chẳng có ngoa,10 năm bây chừ mới được uống sữa, vậy mà mình chẳng hớp được một tý nào. Lại nghe anh Vẽ căn dặn, phê bình mà càng thêm đau : - Tuyệt đối không được đụng đến chiến lợi phẩm.... Ai lấy lỡ rồi đem nộp lại ngay..... 

Thằng Phác nghe vậy hết hồn, bỏ cả máy, kịp vác mấy thùng sữa, mấy thùng kem đánh răng lên trả cho Ban 2.

 

    Một lúc sau, cũng trên tần số đó, lại xuất hiện tiếng trả lời  thì thào : 

- " Chim Ưng đây Đại Bàng trả lời!.....Hiện chúng tôi đang có trên trăm cái nón sắt... có mấy con cóc...có ông Hai Sao và Không Sao, có cả thằng Mũi Lõ.."

      Lập tức tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chộp ngay lấy máy bộ đàm của tên truyền tin, dặn dò nhỏ nhẹ :

- Nói nhỏ thôi!....nói nhỏ thôi!....Lộ hết!.....nhớ dùng khóa mã bằng tiếng Anh!.....

Và Hắn ta nói một tràng tiếng Anh bằng mã khóa đươc dịch lại như sau :

- Tôi đi ra cỗng số 1... đang đi men theo hàng rào phía Nam... lên hướng Cà Rá... Hiện nay cộng quân đầy rẫy ở khu vực này....Không thể cho  Sitmooc

( đạn khói) được..  sẽ bị lộ.... chúng tôi sẽ tự lo liệu.....Sitop!...Sitop!...

       Nói xong,⁹ Nghi lệnh cho lũ truyền tin khóa máy, không liên lạc nữa. Nguồn tin đó chúng kịp thời báo Ban 2 và BTL Sư đoàn .

 

      Lợi dung lúc bọn chúng đóng máy, tổ trưởng Nguyễn Tôn Việt nhanh chóng nhãy vào sóng Chim Ưng "- máy bay trực thăng nói một tràng tiếng Anh dẫn chúng sang tần số khác.

Tên phi công cho máy bay cua vơ mấy vòng tin tưởng nói :

- Bạn ơi!... Bạn có thể cho tôi quả Xitmooc, hoặc tấm vải trắng để tôi xác định Eodis ( bãi đáp ) đưa bạn về nhà. Chúng tôi kịp thời báo cho Trưởng Ban 2 Nguyễn Khắc Vẽ.

   Một lúc, anh Nguyễn Văn Phiêu Phó Ban 2 nhanh chóng mang mật lệnh khẩn của trên đến cho tổ :

- Các cậu hãy cho bọn chúng một tọa độ ở dãy núi phía Tây sân bay. Bộ đội ta đốt khói chỉ điểm cho máy bay. Bộ binh và cả pháo binh sẽ triễn khai bắt sống chiếc máy bay và cả bọn tàn binh của chúng.

 

Chiếc trực thăng sà thấp chao lượn mấy vòng. Từ máy bộ đàm có tiếng giục giã : 

- Sitmocs!....Sitmoc!...nhanh lên!....

      Chợt ở dãy núi phía Tây rộ lên một mấy loạt súng. Khả năng tiếng súng của bộ binh đánh nhau đâu đó, nên chiéc máy bay hoảng hốt, bỏ mặc con cái chuồn thẳng ra biển....

    Khi tổ TSKT báo tin này chưa mấy ai tin. Họ nghĩ làm gì có chuyện có cả trung tướng, chuẩn tướng và cố vấn Mỹ lại có cả hàng trăm lính VNCH sát nách BTL sư đoàn. Tuy vậy, nhưng BTL sư đoàn đã kịp thời triễn khai một lực lượng trinh sát sư đoàn, kết hợp với tiểu đoàn 1,trung đoàn 2 khép chặt vòng vây bắt gọn BTL tiền phương Quân đoàn 3 VNCH tại Vườn mía Phan Rang. Trong đó có trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tư lệnh tiền phương QĐ3, Chuẩn tướng Phan Ngọc Sang tư lệnh sư đoàn 6 không quân VNCH, cố vấn Mỹ JaVes

 

      Trưa ngày 17/4/1975 thấy Đại đội trưởng trinh sát C52 Trần Sỹ Cận chạy về khấp khởi bảo :

- Nguồn tin của tổ TSKT rất chính xác!... .Mình vừa cùng một số anh em đi nhận bàn giao tù binh từ trung đoàn 2 . Ông ta vất xuống một lô một lốc và giới thiệu . Đây là quân hàm quân hiệu của 2 bại tướng. Đây là 2 bộ áo quần có dây đai vàng, giày, mũ, sa bàn và chiếc gậy chỉ huy của chúng..... Chiều đó anh Cận cùng trưởng ban 2 Nguyễn Khắc Vẽ một số anh em trinh sát áp tải các tướng bại trận VNCH xuống vườn dừa Cam Ranh bàn giao cho Tổng Cuc 2. 

À ra thế ! Nay anh Trần Sỹ Cận còn cất cả Cái La Bàn, chiếc gậy chỉ huy.... mà sao nghe anh Tạo Nguyen Van nói trong bài viết bảo ngày ấy các anh họp nói chẳng thu được chi cả. Vậy quân hàm quân hiệu , áo quần, dày... chổ mô, tui thấy thiệt mà?.....Hay, ngày nớ mỗi người dấu một cái để làm kỷ niệm?..À !.tui biết chính xác anh Cận còn giữ một chiếc La Bàn của tướng Nghi.... tui cất một cái xắc cốt nhưng cho họ mất rồi.....

 

Ngày 17/4/1975

 

Mình , anh Nguyễn Văn Hường và Chu Văn Phác đóng máy vọt ra thị xã Phan Rang dạo một vòng. Thị Xã vừa mới giải phóng, còn khét lẹt mùi bom đạn chiến tranh.  Đường phố đầy rẫy xác xe, xác pháo, xác người. Các cửa hàng, cửa hiệu im ỉm đóng, lác đác cũng có vài cánh cửa hé mở, để lộ những ánh mắt nhìn sợ hãi.  Sự im lặng đến rơn người. Đường phố chỉ lác đác vài bóng người qua lại. Gặp một ông Tây đeo máy ảnh. Ông ta cất mũ chào, đòi xin chụp ảnh. Anh Hường ngại, đưa tay ra hiệu cho ông ta bảo không được chụp. Một người nhỏ thó đi cạnh ông ta, khả năng đó là phiên dịch, nói chuyện huyên thiên. Gặp một cô gái đeo súng AKa, mặc bộ bà ba đen, đội mũ tai bèo, có cả băng đỏ trên tay. Cô ấy nhếch nhác, mừng rỡ bám lấy tụi mình dò hỏi : 

- Các anh quân giải phóng vào tiếp quản à thị xã?....

Cả 3 cứ liều gật đầu.... Cô ta đưa cho mỗi người một cái băng đỏ đeo vào. Cô ấy bảo : - Chắc các anh đói lắm !.... và rồi cô ta dẫn bọn tôi đến một cửa hàng buôn thực phẩm lớn trong thị xã, thầm thì nói gì với ông chủ. Một lúc, thấy chiếc Xe lam chạy đỗ xịch trước măt bọn tôi. Trên xe chất đầy rau quả , hành tây, đường sữa, gạo và có nữa con lợn đã mổ thịt.

Ông già vái lạy mấy cái rồi khép nép nói : 

- Bẩm các ông, biết các ông vào tiếp quản, đi đường vất vã, chúng con rất mừng, chẳng có gì xin biếu các ông chút ít thực phẩm để ăn tạm ....

Tụi mình lặng im ngẫm ngợi, nhìn nhau, nháy mắt rồi đều đều lắc đâu......anh Hường trịnh trọng nói :

- Bộ đội cách mạng cảm ơn Bác và gia đình nhiều.... nhưng không được đâu Bác ơi ... Chúng tôi không được lấy một thứ gì của dân, dù chỉ là một cái kim sợi chỉ.. vã lại bọn tôi còn đi xa không thể mang vác được.. 

Cô gái rĩ vào tai tôi :

 - Dân họ có tình cảm biếu cho các anh, các anh có tự ý lấy của họ đâu!...

   Mấy người nhà đứng khép nép trong cánh cửa nhìn ra, nghe bọn tôi nói chuyện Họ đều trố mắt, xuýt xoa : - Mấy ổng Việt Cộng giỏi hè!........

       Chợt thấy một tờ lich có hình cô gái đứng khỏa thân, chỉ mang mỗi Cocse và Xilip treo bên tường chọc vào mắt. Và cũng nói thật, cả cuộc đời tôi từ trước đến giờ sống dưới chế độ XHCN tươi đẹp tôi có bao giờ thấy cảnh này đâu .Tôi bặm môi , trợn mắt quát :

- Sao Ông lại treo ảnh này!.Đây là thứ văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy....ông nhớ chưa?... Ông già mặt tái như đít nhái, đứng khựng lại một hồi, chẳng hiểu đầu đuôi xuôi ngược cái gì . Một lúc, dường như ông nhận ra, chắp tay vái lấy vái để rồi đưa bàn tay run run lên xé tờ lịch kia vứt vào sọt rác. Bây giờ viết lại điều này, mình cảm thấy buồn cười, sao ngày ấy mình ngây ngô, ấu trĩ đến vậy?...Bây chừ, nhìn cảnh phim ảnh, sách, báo, tranh ảnh khỏa thân đầy rẫy....  Cứ nghĩ... thương ông già...

 

Chiều 17/4/1975 Cậu Tài lái chiếc zep chiến lợi phẩm  thu được của địch, chở anh Trần Sỹ Cận, anh Hường, Phác, Tôn Viêt và tôi ra Tiểu Khu Ninh Thuân để lấy xăng. Tiểu khu đang ngổn ngang xác giặc, xác xe, xác pháo, vắng vẽ không bóng người. Các anh chia nhau một người một nơi lùng sục vào những ngôi nhà bỏ hoang để tìm tàn binh.... Một người du kích dẫn đường chỉ tay vào ngôi nhà 2 tầng bảo với tôi : - Đây!... là nhà tên Đai tá Tiểu Khu trưởng Ninh Thuận. Tôi lên đạn rồi cùng anh ta mở cỗng bước vào. Thoạt nhìn, ngôi nhà trống hoắc, buồn đến lạnh cả lưng. Chợt nghe tiếng động, tôi vội ngồi thấp xuống, hướng mũi súng vào phía trước. Tưởng ai, hóa ra con chó BecDe đang bị xích. Hình như bị bỏ đói lâu ngày, thấy tôi nó vẫy đuôi mừng rỡ., đi lại gần. Nó to cao như con Bê, đứng ngang vai tôi. Ui cha!... cả đời chừ tui mới chộ....Hết hồn luôn....

   Mình lấy cơm nắm mang theo cho nó ăn. Nó ăn ngon lành, lâu thay dương mắt lên nhìn mình như thầm cảm ơn. Mình cũng rơm rớm nước mắt, cầm sợi xích sắt thử kéo nó lại gần, nó ngoan ngoãn vâng lời và nằm gọn trong lòng mình như người thân.  Lục lọi lấy được một xắc cốt, một Kavatj, một bộ quân hàm Đại tá Ngụy và cả cái cặp giấy nhôm .

Và rồi mình dẫn chó về nhà, lại phải đi bộ vừa mệt, vừa lo sợ các ông lớn quy cái tội thu chiến lợi phẩm không khai báo, không giao nộp lên trên. Xui thế này nữa : Khi dẫn chó ra xe để về nhà, cứ loay hoay mãi không làm sao tìm cách đưa lên xe được. Chó thì to. Nó lạ người, cứ ì ra, không chịu leo lên.  Cả 4 anh em định cùng nhau định khiêng lên. Mới nhẹ tay sờ  đến thì nó nhăn răng, hừ mấy cái là các dũng sỹ đã từng lẫy lừng chiến công diệt Mỹ đái ra cả quần. Cuối cùng, buộc mình và anh Hường phải dắt bộ . Về nhà, được một hôm, nghĩ đi nghĩ lai...mình đành giao nó lại cho Đại đội vì đơn vị hành quân để đánh đấm bằng ô tô đường dài, không thể mang chó đi được. Nghe đâu, sau đó nó bị giết thịt. Chừ nhớ lại thương nó lắm!..... Con vật cũng như con người.... chiến tranh xãy ra là mất mát ,đau thương, tội nghiệp vô cùng, vô tận.....

 

Ngày 18/4/1975

 

Đại đội trưởng trinh sát C52 Trần Sỹ Cận, Trợ lý trinh sát Ban 2 Hoàng Ngọc Bôn cùng trung đội trưởng Nguyễn Văn Bằng rũ mình cùng đi thu chiến lợi phẩm, cùng nằm trong ban đăng ký người trình diện và thành lập chính quyền xã Vạn Xuân. Mới 9 giờ sáng, ngoài đường tiếng loa kêu gọi trình diện vang lên hối hã. Chỉ một lúc, ngụy quân ngụy quyền  đã giao nộp một nhà chật cứng vũ khi, sổ sách,súng đạn, đài điện.... Có nhiều tên lái cả xe con lên nộp,đậu thành một dãy dài. Họ ngồi chật kín sân. Mình giúp anh Cận ghi tên từng người trình diện và vũ khí giao nộp đến mỏi cả tay...

      Xong việc, mình chọn một khẩu Rulo mới toanh, một chiếc đài Soni. Những thứ này khi mình nằm viện, giao lại cho anh Hường tổ phó.

    Chiều 18/4  mít tinh trước đông đảo nhân dân, ra mắt chính quyền Xã Vạn Xuân. Mình còn nhớ trời nắng như thiêu như đốt, anh Trần Sỹ Cận và Chính trị Viên Trần Văn Lạc bảo mình và anh Nguyễn Văn Bằng lên hát bài " Giải phóng miền Nam ". Mồ hôi mồ kê chảy như tắm, nhưng mình vẫn hào hứng, say sưa hát và ngâm cả thơ nữa chơ :

"Tôi hành quân 

đêm dài tháng Bảy

Lửa bỏng miền Nam,

lửa cháy trong tim

Cả nước xuống đường 

như biển Đông sấm dậy

Nòng súng tôi bóc khói 

sáng niềm tin...."

 

Mọi người đứng dậy xem , cùng vỗ tay...

                                  

 Lệ thủy- mùa Đông 2020

 

Trần Khởi
Số lần đọc: 1276
Ngày đăng: 22.12.2020
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ghi chép – tản mạn những ngày ở Seattle - Phan Văn Thạnh
Du ký chiều quan tái - Giang Hiền Sơn
Thầy Huỳnh Lý của tôi - Nguyễn Anh Tuấn
Ký ức về người Thầy cũ - Lê Thị Tâm
Tuy – Hòa quê ngoại - Vương Kiều
Bản Troi và “Giấc mơ con chữ” - Hoàng Xuân
Nha – Trang ngày về - Vương Kiều
Đà – Lạt ngày ấy - Vương Kiều
Thư cho anh - Trần Hạ Vi
Tình thiêng - Trần Dzạ Lữ