Là người lính, thơ Chung Tiến Lực phần nhiều viết về đời lính và quê hương đất nước. Người sao thơ vậy, người là thơ và thơ là người, thơ anh giàu chất lính. Thơ Chung Tiến Lực có độ nén chữ đến độ hàm xúc. Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa, thơ hay khi hội đủ ba yếu tố sau: giản dị, xúc động và ám ảnh. Đọc thơ Chung Tiến Lực, toát nên một phong cách giản dị với ngôn từ mộc mạc, gần gũi và đơn giản mà vẫn chan chứa tình người, tình đồng đội, tình yêu quê hướng, đất nước. Dù viết về đề tài gì câu chữ cũng cứng cỏi lạc quan, giàu chất thơ, đậm chất nhạc và rất nhân văn, nhân hậu. Điều này được thể hiện rất rõ trong tập thơ “ Đất nước những cánh cung”( nhà xuất bản quân đội, in năm 2020).
Tập thơ như nhật ký người ra trận, lại như là hồi ức của người lính đã đi qua nhiều chiến trường ác liệt. Trong đoàn quân ra trận thì hào hùng: “ Lốc cuốn Trường Sơn mùa chiến dịch/ những binh đoàn hối hả hành quân”. Nhưng khi về binh trạm thì lành hiền trước sự chăm lo của đồng đội. Rồi cảm động: “ …từ bàn tay thơm thảo/Như chị như em chu đáo dịu dàng” hay xúc động khi được người dân thương yêu: “ Tiểu đội chúng con mạ đón về nhà ...”. Mỗi vùng đất đi qua đều để lại cho tác giả những kỷ niệm không quên. Đặc biệt ở Vị Xuyên nơi chảo lửa trong chiến tranh biên giới, đá biến thành vôi, người thành đá, anh rưng rưng khi thăm lại chiến trường và hồi tưởng:
“ Đá choãi chân giữ đất
Đạn bay, pháo dội vẫn bền gan/Chìa lưng gió níu mưa ngàn
Che chắn nhau đồng đội
Lẫn vào đất vẫn vạm vỡ con trai”. Có sự lẫn vào đá vào đất nên nay Vị Xuyên:
“ Hoa gạo đỏ lưng trời thắp lửa
Giữa mù sương những ngọn đèn dầu
Đồng đội lạc trong “lò vôi thế kỷ”
Thung lũng gọi hồn” ánh lửa tìm nhau.” Những phát hiện nên thơ hay những chiêm cảm về một địa danh:
“Mèo Vạc không đâu như đây
Gió thổi ngược lên, mây rơi xuống núi
Đá cõng đá công kênh”
hay: “…nồng nàn mây mở vòng ôm”. Chiêm cảm rất lính khi viết về Địa đạo Củ Chi:
“Bập bùng cháy từ lòng đất
Âm thầm tiếp lửa chiến trường”.
Ngay trong lòng địa đạo, cảm nhận tình mẹ từ bà má Miền Nam: “…
chúng con trở về bên mẹ thơm thảo bàn tay mẹ chăm bẵm, ân cần”
hay người mẹ miền
Bắc:
“ Tất thủng, áo rách vai mạ thương chúng con
Kim chỉ vá may, đơm từng chiếc cúc”.
Đồng đội luôn có nhau, sẻ chia, chung lưng, chia lửa: “ Giấu sốt mình vẫn hành quân
Thương mình cậu mang vác nặng
Về nơi dừng chân binh trạm
Không nghỉ, cậu lại chăm mình”
Trên đường hành quân, có biết bao nhiêu hình ảnh, đẹp về hình thể và đẹp về tâm hồn, được tác giả tốc ký ngay vào trang nhật ký có sẵn trong hành trang người ra trận:
“ Đại đội xe toàn gái
Hương bồ kết xanh xao Đường dài với trăng sao…”.
Cái đẹp bình dị nơi chiến trường bom đạn:
“ Áo nguỵ trang cỏ úa
Chở lương thực, chở quân
Đi xuyên rừng xuyên núi
Xuyên cả thời thanh xuân”
Rất đặc sắc khi ngôn ngữ điện ảnh được tác giả sử dụng thành thạo. Đọc mà ta thấy như có thước phim đang quay:
“Em theo chồng xuống chợ
Thảo quả sa nhân nằm trên lưng ngựa
Gái núi
Xuống chợ
Rạng rỡ.”
Viết về Bộ đôi đường ống Trường Sơn:
“ Có gùi xăng vượt “trọng điểm”
Thùng phuy sông suối thả trôi
Mới hiểu xăng dầu như máu
Vắt từ xương thịt mồ hôi”. Và: “ Hiểm nguy mưa rừng gió chướng/Thần kỳ từ những bàn tay”. Người lính, đối mặt với bom đạn, hiểm nguy thì gan góc, xung phong nhưng trước cái đẹp, trước những giai điệu yêu thương của đời thường thì rung động với cảm nhận tinh tế. Khi nghe hát Then:
“ Đàn tính reo suối nhạc
Then gieo lời mùa vàng
Đắm trăng tròn vòng bạc
Thắt lưng xanh, áo chàm” Và
: “Then con mắt biết nói
Em nụ cười trăm hoa
Mắt nghiêng theo câu hát
Đêm cháy lòng hai ta”.
Với tiếng chiêng Mường thì sự liên tưởng thật là thơ:
‘Ấm tiếng gọi đại ngàn
Giọng trầm vang thác đổ
Vui tiết tấu nhịp nhàng
Buồn êm đềm sâu lắng”
hay: “ Đây giai điệu ngọn lửa
Hay tiếng lòng thân thương
Nâng bước người mở lối
Nhắc con trai đất Mường”. Có khi là tiếng reo của tác giả trước cảnh thiên nhiên gần gũi:
“ Chim chìa vôi nhảy sóng
Giỡn thảm xanh mướt xanh”
Lại còn nghe được tiếng lúa:
“ Lúa thì thầm con gái Ngẩn ngơ gió vòng quanh”. Mỗi vùng đất anh đi qua đều có tâm hồn: “ Buồn vui qua bao thay đổi ... Day dứt một thời chưa xa”. Xuyên suốt tập thơ là những nỗi nhớ, niềm thương rất Người của người con xa nhà. Nhớ về quê hương: “ Âm âm vọng mãi trong con” Và nhớ gia đình: “ … Tiếng hát lời ru thao thiết mẹ hiền”, nhớ người yêu: “ Lời con tim không giấu được đâu”. Nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm lửa cho chiến trường: “ Ngày mai dũng mãnh công đồn giặc”.
Gấp lại tập thơ Đất nước hình cánh cung” của nhà thơ Chung Tiến Lực trong lòng ta ngân rung nhiều cảm xúc khó viết bằng lời. Chất lính xen chất tình của người lính trên đường ra trận được nhà thơ phác hoạ sinh động, đẹp như một bài thơ qua những ngôn từ giản dị mà sâu lắng vừa gợi vừa gây xúc động lòng người.
Nga Sơn- Thanh Hoá