Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.888 tác phẩm
2.761 tác giả
508
123.365.894
 
Chuyện viễn mơ thời chiến (Chương 12)
Phan Tấn Uẩn

 

                        Không hẹn trước nhưng chúng tôi đã gặp lại Terry Factor tại nhà Ron.Terry dẫn theo một người bạn. Tôi nhận ra Terry đã xem chúng tôi như những vị khách duy nhất ở Thủ Phủ biết thưởng thức các chuyện kể vui nhộn của anh.  Vừa bước lên bậc cấp căn nhà Bungalow, anh ta gọi lớn tên Ron và lên tiếng.

            “ Ron ! ngày mai người bạn tôi về nước.Tôi muốn Ron ghi lại câu chuyện “lịch sử” của Smith đúng vào ngày tàu Apollo 11 đổ bộ xuống mặt trăng…” Terry nói lý do ghé thăm .

            “ Terry! Bạn muốn cho chúng tôi nghe một câu chuyện hài hước trước khi bạn anh về nước phải không ?” Ron bông đùa hỏi Terry,vì biết Terry là một tay tấu hài nổi tiếng.

            “ Không. Ngày đó Smith đang hành quân trong rừng rậm Trường Sơn và đã lợi dụng Apollo 11 để chấm dứt chiến tranh Giao Thường trong thời gian khá dài! ” Đúng là lời lẻ của một anh chàng giỏi bịa chuyện.

            Nghe Terry nói vậy, Ron bảo Apollo 11 xẫy ra như chuyện cổ tích trong đời thường.Trông thấy bộ mặt hối hả của Terry , tôi hỏi chuyện của Smith có gì đặc biệt sao anh phải nặng tình với nó như vậy ?…

            “ Bạn không nhớ nó sao ? ” Terry hỏi tôi.

            Vâng. Đó là biến cố con người đổ bộ xuống mặt trăng làm rúng động thế giới.  Ngày đó,ông Nguyễn Hiến, chủ bút báo Văn Cầm bảo tôi phải có ngay một bài báo đăng vào ngày hôm sau.  Tôi nhớ đã xử dụng bản tin đọc chậm của Đài phát thanh Bắc Mỹ để có chất liệu đáng tin cậy.Bản tin nầy do Mission Control (trung tâm điều khiển sứ mệnh) cung cấp về nhịp tim của phi hành gia Neil Armstrong, người chỉ huy con tàu Apollo 11. Nhịp tim là sự sống. Theo dỏi nhịp tim để xác nhận đặc điểm thích nghi của con người khi bay vào vũ trụ. Xin nhắc lại bài báo cần nhớ nầy… 

            Trái tim Arstrong đang đập với tốc độ 75 mỗi phút,một tốc độ đáng chú ý đối với con người sắp hạ cánh trên mặt trăng. Nhịp tim khi nghỉ ngơi bình thường của một người trưởng thành ,từ 60 đến 100 mỗi phút. Neil Armstrong, ai cũng biết, là một trong những phi công giỏi nhất hoàn vũ. Đây là viên phi công đã phóng mình ra khỏi chiếc máy bay chiến đấu bị hư hỏng trong Chiến tranh Triều Tiên với một lực rất mạnh mà anh ta cảm thấy "như thể tất cả các bộ phận cơ thể của anh bị ép vào không gian có kích thước bằng một hộp bánh mì." Armstrong đã từng xoay trở để đặt đúng viên nang của mình trong không gian khi nó quay một cách dữ dội, lộn nhào một vòng mỗi giây khiến tầm nhìn trở nên hư ảo. Chỉ huy cuộc đổ bộ mặt trăng, một lần nữa anh ta đã tự đẫy mình ra khỏi một thiết bị mô phỏng chưa đầy ba giây trước khi nó lao xuống đất và bị nuốt chửng trong biển lửa — chỉ một năm trước khi lên tàu Apollo 11.(Phi hành đoàn của Armstrong cũng đã trải qua quá trình đào tạo cực kỳ nghiêm ngặt, bao gồm cả việc nhào lộn trong một thiết bị mô phỏng cảm ứng mờ nhạt cho đến khi cơ thể của họ học được cách không bị ngất. Khi thi hành sứ mệnh, họ ở trên một tên lửa 300 feet chứa đầy hydro lỏng có thể thổi bay họ lên trời cao, nhưng đối với họ, nó giống như một trò chơi nhào lộn ).

            Mission Control theo dõi nhịp tim của phi hành đoàn Apollo 11, cùng với các tín hiệu sinh lý khác, từ đầu đến cuối. Các phi hành gia đeo cảm biến điện tâm đồ trên ngực, được cạo râu trước khi lao khỏi dàn phóng để có độ dính tối đa. Trong nháy mắt, điện tâm đồ không hơn gì những vết mực đen trên một trang giấy.Tuy nhiên các đoạn thẳng và cong trên điện tâm đồ diễn tả nhịp tim.

            Vào sáng ngày 16 tháng 7 năm 1969, các phi hành gia Apollo 11 bước ra khỏi khu phi hành đoàn của họ tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy trong bộ đồ vũ trụ, mũ bảo hiểm của họ lấp lánh như bong bóng xà phòng .Họ leo lên một chiếc xe van màu trắng đi tới bệ phóng cách đó khoảng 15 phút. Tên lửa Saturn V đã chờ sẳn, một khối mô-đun và động cơ chất đống giữa bầu trời Florida trong xanh. Một chiếc thang máy 34 tầng đưa họ lên tàu vũ trụ. Động cơ tên lửa gầm gừ và lực đẩy 7,5 triệu pound tung Apollo 11 lên trời xanh…

            “ Bác sĩ phẫu thuật trong chuyến bay báo cho chúng tôi biết nhịp tim khi phóng tàu sau 36 phút,” một sĩ quan NASA thông báo với công chúng. “Nhịp tim của chỉ huy Neil Armstrong, 110. Phi công module chỉ huy Michael Collins, 99. Phi công module mặt trăng Buzz Aldrin, 88 .”

            Mười bảy giờ sau khi phóng, phi hành đoàn Apollo đã ổn định giấc ngủ đầu tiên trong không gian. Mission Control vẫn thức và theo dõi các chỉ số quan trọng khi nhịp tim phi hành đoàn giảm dần về độ tuổi 40, một dấu hiệu của giấc ngủ sâu. Bác sĩ phẫu thuật chuyến bay biết các phi hành gia vẫn còn thức. Phi hành đoàn pha một ít cà phê, đốt động cơ của module trong vài giây để thiết lập quỹ đạo lên mặt trăng. Họ ăn salad cá hồi trong khi Merrilee Rush hát "Angel of the Morning" trên một máy cát-xét. "Này, bạn có bất kỳ bác sĩ nào ở dưới đó đang theo dõi nhịp tim không?" Collins hỏi Mission Control sau bữa sáng. “Tôi đang cố gắng thực hiện một số động tác chạy tại chỗ ở đây và tôi đang tự hỏi chỉ vì tò mò liệu nó có làm nhịp tim của tôi tăng lên hay không.” Charlie Duke, người giao tiếp với tàu vũ trụ ở Houston, trả lời: “Chúng tôi thấy tim bạn đang đập, nhịp tim khoảng 96."

            Hai ngày sau, Mission Control không thấy gì cả. Module chỉ huy đã đi vòng quanh phía xa của mặt trăng, ngoài tầm với của liên lạc vô tuyến. Trong khoảng thời gian im lặng này, module giảm tốc độ và trượt vào quỹ đạo của mặt trăng trước khi quay trở lại. Vào thời điểm này, khi các phi hành gia không chống chọi nổi với trọng lực của một thế giới khác, nhịp tim của Armstrong là 106, Aldrin là 70 và Collins là 66.

            Phi hành đoàn sẽ quay quanh mặt trăng hàng chục lần nữa trước khi phi thuyền tách ra làm hai.Collins ở lại module Columbia, nơi sinh hoạt của họ, trong khi Armstrong và Aldrin leo vào module Eagle và đẫy nó về phía mặt trăng. Lực hấp dẫn của mặt trăng đón chào họ. “Cánh tay họ chùng xuống. Cơ thể ổn định trong bộ quần áo bay trong lúc chân bị ép xuống trong ủng khi phải hứng chịu tốc độ lao nhanh xuống bề mặt nguyệt cầu ” Jay Barbree, một nhà báo vũ trụ lâu năm và là bạn thân của Armstrong, đã viết trong cuốn tiểu sử về phi hành gia nầy.

            Sau đó,có tiếng chuông báo động vang lên; các máy tính của Eagle đã quá tải với hàng loạt tín hiệu. Armstrong có thể nhìn thấy đầy đủ địa hình lởm chởm qua cửa sổ để biết rằng module Eagle đã vượt quá mục tiêu bốn dặm. Họ cần một nơi bằng phẳng để hạ cánh. Nhưng module Đại bang (Eagle) đang hướng về một miệng núi lửa đầy đá tảng. Đã đến lúc tắt chế độ lái tự động. Armstrong đã dùng tay điều khiển Đại bàng và di chuyển module ra khỏi miệng núi lửa. Module vẫn ở trên không khi đèn nhiên liệu yếu bắt đầu nhấp nháy…

            Armstrong sau đó cho biết anh không lo lắng về nhiên liệu vì lúc đó nếu động cơ bị ngắt, trọng lực của mặt trăng – chỉ bằng một phần sáu của Trái đất - sẽ cho phép module hạ xuống an toàn. Nhịp tim của Armstrong bắt đầu tăng lên 150 sau khi anh tắt chế độ lái tự động và điều khiển bằng tay cầm có đeo găng của mình. Số phận của sứ mệnh đang nằm trong tay anh. Hàng chục nghìn kỹ sư đã giúp đưa anh ta lên đây, nhưng phần cuối cùng này tùy thuộc vào anh. Trách nhiệm lớn lao đó làm nhịp đập tăng nhanh. Khi đặt chân lên mặt trăng, nhịp tim Armstrong đập mạnh với tốc độ 125 mỗi phút.

 

Armstrong hồi tưởng lại chuyến đi trên Mặt Trăng - KhoaHoc.tv

Neil Armstrong đi trên mặt trăng

           

Hai phi hành gia bước bồng bềnh trên mặt nguyệt cầu , thiết lập các thí nghiệm khoa học và thu thập đá cho các nhà địa chất như Gerald Schaber, người lúc này đang theo dõi chuyển động của họ trong cảnh quay video đen trắng tại Mission Control. Chuyển động trên mặt trăng nhẹ nhàng đến nỗi Armstrong và Aldrin làm việc không biết mệt.

            " Không có thời điểm nào làm cho nhịp thở phi hành gia trở nên nặng nhọc”, NASA cho biết. “Trong hầu hết các phân đoạn làm việc, nhịp tim các phi hành gia thấp hơn dự kiến — trong một số trường hợp, còn thấp hơn nhịp tim của những người ở Mission Control đang theo dõi.”

            Nhưng khi các phi hành gia sắp kết thúc chuyến di hành, nhịp tim của Armstrong tăng vọt lên 160. Anh đang xếp những chiếc hộp nhồi đầy đá vào module bằng hệ thống ròng rọc. Armstrong móc từng chiếc hộp vào một vòng vải rồi kéo lên cho đến khi bốc hết lên tàu, nơi Aldrin đang đợi. “Neil, đây là Houston,” Mission Control gọi, yêu cầu anh cập nhật số liệu thống kê về hệ thống hỗ trợ nhịp thở của mình.

            Trở lại module Eagle, Armstrong và Aldrin không ngủ được. Mission Control chuyện trò rất lâu với họ sau khi chúc họ ngủ ngon. Nhịp tim của Armstrong thỉnh thoảng giảm xuống trước khi quay trở lại, cho thấy anh chỉ ngủ gật. Sau này, Armstrong nói rằng trong module rất lạnh, độ sáng quá mạnh ngay cả khi đã giảm bớt cường độ. Anh bị cuốn vào các sự kiện trong ngày. Khi cảm thấy thoải mái, Armstrong nhận ra có thứ gì đó rọi thẳng vào mắt mình, “giống như một bóng đèn”. Hóa ra là Trái đất lấp lánh qua kính viễn vọng của module.

            Ngày hôm sau, module Eagle được phóng trở lại quỹ đạo và đồng bộ hóa với module Columbia để quay trở lại Trái đất.

            Hành trình khám phá mặt trăng của Apollo 11 đầy ắp tiếng cười.Liên lạc giữa phi hành đoàn và Mission Control thông suốt tốt đẹp, ngay cả giữa những khoảnh khắc căng thẳng nhất. Cuối cùng họ vượt qua khó khăn. Armstrong trở thành biểu tượng của con người phi thường. Những người theo đạo Thiên chúa vinh danh đặc tính Christian của anh, - một cơ đốc nhân (Christian) cơ thể bên ngoài giống con người bình thường nhưng có điều gì đó đã vĩnh viễn thay đổi ở bên trong.

            Sau sứ mệnh thành công của tàu Apollo 11, lòng dân Bắc Mỹ thống nhất hơn bao giờ hết. Họ hướng lòng về mặt trăng thay vì quan tâm đến cuộc chiến Giao Thường. Có điều ít người biết : hệ quả của quá trình thiết kế Apollo 11 đã dẫn đến sáu ngàn phát minh áp dụng vào cuộc sống hàng ngày của hàng tỉ dân thế giới. Và quan trọng hơn hết, nó đã kết thúc cuộc chạy đua không gian tốn kém nhiều tỉ đô la giữa Liên Xô và Bắc Mỹ.

            Thông tin về Apollo 11 tràn ngập báo chí thế giới và các phương tiện truyền thông khác. Báo Văn Cầm, ngoài phần ghi tin đọc chậm của tôi, đã khai thác những vấn đề đặt ra từ chuyến bay vũ trụ nầy…

            Chuyện xẫy ra đã lâu,Terry bất ngờ dẫn Smith đến nhắc lay chuyện cũ. Có điều gì kỳ bí ở đây ? Anh ta nói thời điểm Apollo 11 đổ bộ xuống mặt trăng,Smith đang hành quân trong rừng rậm Trường Sơn ?

            Trước khi hỏi chuyện, tôi giúp Ron pha cà phê và bày buổi ăn sáng lên chiếc bàn xinh xắn kê sát cửa sổ phòng khách nhìn ra bờ một con suối thấp thoáng phía xa.

            “ Terry…” Ron lên tiếng. “ Chúng tôi chỉ biết bạn là người vui tính nhất trên đời nầy. Ngoài ra không biết gì khác. Tôi nghĩ Smith hành quân trong rừng rậm Trường Sơn phải là một lính chiến gan dạ ?”

            “ Tôi là Đại úy bộ binh,” Smith lên tiếng. “ được bổ nhiệm làm cố vấn quân sự cho một Tiểu Đoàn Nam Thường. Tôi biết rất rỏ Ban Tham Mưu Tiểu Đoàn và các Đại Đội Trưởng. Một số sĩ quan trong Tiểu đoàn được đào tạo tại Trường Ranger School hoặc Airborne School. Cánh cửa dẫn đến các cuộc đối đáp giữa hai bên đối địch chính là máy bộ đàm PCR - 25 của quân đội Nam Thường. Lính Bắc Thường với chiến lợi phẩm PRC- 25 lượm được xử dụng như một công cụ tuyên truyền. Từng phút, từng giờ, Nam Thường là một vùng đất vang rền âm thanh chiến tranh. Trong vùng chiến trận của tôi, đạn pháo từ các căn cứ hỏa lực lớn thường xuyên yểm trợ liên tục làm rung chuyển đồi núi. Xen vào đó là những màn đối đáp chửi bới nhau trên máy PCR-25…”

            “ Bạn thấy khác nhau thế nào giữa lính Nam Thường và lính Bắc Thường ? ” Ron chen ngang lời Smith.

            “ Họ giống nhau vì Nam Bắc gì cũng thèm đồ Quân Tiếp Vụ  Mỹ…” Terry trả lời thay cho Smith.Tôi bật cười.

            “ Ý của tôi muốn biết những lời tuyên truyền trên PCR-25 của lính Bắc Thường có tác dụng gì đối với lính Nam Thường ?” Ron hỏi lại.

            “ Tác dụng gì ? Bạn nên chọc mù đôi mắt của lính Nam Thường trước khi hỏi Smith câu ấy…” Terry trả lời tiếp, thay vì Smith. Thấy Ron im lặng, Smith kể tiếp …

            “Hơn bốn ngày sau khi tàu Apollo 11 cất cánh từ Mũi Canaveral, Tiểu đoàn Bộ binh của tôi cách thành phố Đà-Rằng khoảng 20 dặm về phía Tây Nam. Trinh sát chúng tôi phát hiện một Trung đoàn Bộ binh Bắc Thường.Lúc đó là mười giờ tối tại Bắc Mỹ, tức là 10 giờ sáng tại Nam Thường. Phi hành đoàn Apollo 11 đang thực hiện sứ mệnh theo chương trình trên mặt trăng trong lúc các Đài Phát Thanh trên mặt đất đưa tin về công việc của họ.

            Tất cả chúng tôi, từ các sĩ quan, cố vấn quân sự, thông dịch viên ,ngồi trong căn hầm chỉ huy quanh chiếc Radio đang tường thuật,hết sức  kinh ngạc về sự kiện xẫy ra. Có lẻ do bị cảm xúc kích động, tôi bỗng nẫy ra ý tưởng liên lạc với quân đội Bắc Thường…”

            “ Liên lạc với mục đích gì giữa thời điểm đó ?” Ron hỏi.

            “  Tôi bàn với bộ chỉ huy Tiểu Đoàn Nam Thường nói chuyện trực tiếp với viên Trung Tá trung đoàn trưởng Bắc Thường trên máy bộ đàm PRC-25…” Smith nói.

            “ Chuyện hấp dẫn đây… ”  Tôi lên tiếng.

            “ Thiếu tá Nam Thường thông báo cho Bắc Thường biết sứ mệnh của Apollo 11 lên mặt trăng để chấm dứt chiến tranh Giao Thường…” Một lần nữa,Terry xen vào câu chuyện Smith đang kể.

            “ Thật ra, tôi bàn với Nam Thường báo cho Bắc Thường biết một loại vũ khí bí mật do Apollo 11 mang từ trái đất lên mặt trăng hiện được giữ trong module Eagle với sứ mệnh chấm dứt chiến tranh Giao Thường…” Smith nói tiếp.

            Ron hỏi Smith vũ khí bí mật có thật không hay Smith bịa chuyện. Smith nói riêng với Ron, vũ khí sắp bắn xuống trái đất là  loại vũ khí năng lượng định hướng dựa trên tia laser.

            “ Tôi biết đó là vũ khí laser.” Ron tỏ ra hiểu biết.“Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu và phát triển, vũ khí nầy vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm.”

            “ Nhưng tôi tin lính Bắc Thường chưa bao giờ nghe tên loại vũ khí nầy…” Smith trả lời.

            “ Tôi biết lý do vũ khí laser chưa được xử dụng.” Ron góp ý . “ là do sự dãn nở của khí quyển vì nhiệt độ cao, đây là một vấn đề lớn chưa được giải quyết . Nó còn tồi tệ hơn nếu gặp sương mù, khói, bụi, mưa, tuyết...Về cơ bản, laser tạo ra một chùm ánh sáng cần không khí trong, hoặc chân không, để hoạt động mà không bị nở nhiệt.”

            “  Đúng vậy.” Smith nói. “Nhiều loại tia laser có khả năng gây mất thị lực tạm thời hoặc vĩnh viễn khi bắn vào mắt. Mức độ, đặc điểm và thời gian suy giảm thị lực do mắt tiếp xúc với ánh sáng laser thay đổi theo các điều kiện như công suất của tia laser, bước sóng, hướng chính xác của chùm tia và thời gian tiếp xúc. Những tia laser có công suất dù chỉ bằng một phần nhỏ của watt cũng có thể gây mất thị lực ngay lập tức hoặc vĩnh viễn trong một số điều kiện nào đó. Tia laser có thể trở thành vũ khí không gây chết người nhưng có khả năng giải quyết nhanh trận chiến đang xẫy ra.”

            “Vũ khí nầy đã bị cấm bởi Nghị định thư của Liên Hiệp Quốc về vũ khí gây mù mắt vĩnh viễn.” Ron nói. “Kết quả việc làm của bạn như thế nào ? ”

            “ Thiếu tá Nam Thường đã rất khó khăn mới tiếp xúc được với Trung Tá Bắc Thường để truyền đạt những gì chúng tôi đã bàn về vũ khí bí mật .”  Smith cho biết.

            “ Bạn có thể nhắc lại những gì đã nghe được giữa hai sĩ quan Nam Bắc Thường không ?” Ron hỏi.

            “ Bắc Thường im lặng tuyệt đối, không nói gì trên máy bộ đàm. Nhưng kết quả là một điều kỳ diệu xẫy ra trong chiến tranh: Vùng chiến trận của chúng tôi im tiếng súng, sống trong hòa bình một thời gian dài hơn năm lần thời gian hưu chiến của hai phía. Có thể nói Apollo 11 đã làm cuộc chiến dừng lại với dấu vết nổi bật của nó. Tôi muốn bạn ghi lại câu chuyện nầy trước khi tôi rời Nam Thường về Bắc Mỹ…” Smith nói lời cuối .

            “ Câu chuyện nầy có tôi là chứng nhân lịch sử, Ron cần thêm vào bài viết như vậy. ” Terry cười và kết luận.

            Tin hay không tin Apollo 11 mang vũ khí laser lên mặt trăng để chấm dứt chiến tranh Giao Thường là quyền của bạn.Nhưng với tôi, nó gợi lại nhiều cảm xúc khó tả.Tôi nhớ chưa bao giờ có cảm giác kỳ lạ như khi thấy bức ảnh Armstrong đặt chân xuống mặt trăng. Bức ảnh đã bức tử huyền thọai Chú Cuội chị Hằng . Dấu chân con người trên nguyệt cầu đã xóa tan hình tượng chú Cuội cây đa trong trí óc trẻ thơ và những áng thơ văn bất hủ qua mấy ngàn năm…

(Còn tiếp)

 

 

Phan Tấn Uẩn
Số lần đọc: 813
Ngày đăng: 23.12.2021
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chuyện viễn mơ thời chiến (Chương 11) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (Chương 8) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (Chương 5) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (Chương 4) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (chương 3) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (chương 2) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (chương 1) - Phan Tấn Uẩn
Chuyện viễn mơ thời chiến (chương mở đầu) - Phan Tấn Uẩn
Kỳ 3/7 (Tập truyện ngắn: Không phải lần đầu: Áo bà ba) - Huyền Văn
Kỳ 2/7 (Tập truyện ngắn: Không phải lần đầu) - Huyền Văn
Cùng một tác giả
Đêm Mù Mộ Địa (truyện ngắn)
Chuyến về quê (truyện ngắn)
Giấc mơ chiếu manh (truyện ngắn)
Trên sợi tóc buồn (truyện ngắn)
Quán về khuya (truyện ngắn)
Phố đỏ (truyện ngắn)