Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.110
123.143.034
 
Tiếng Hồ Cầm gieo cảm xúc vào thơ tôi
La Thụy

 

 

Đại thi hào Nguyễn Du tả tài nghệ đánh đàn Thúy Kiều:

 

Cung, thương, làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

 

Các cụ Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Vĩnh… đều chú giải: “Hồ cầm là cây đàn Tỳ Bà, vì đời xưa, vua Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cây đàn ấy, nên mới gọi là Hồ cầm”.

Nhà thơ Tản Đà lại cho rằng: “Hồ cầm là cây đàn của rợ Hồ, nguyên chính là cái nhị; vì có kiểu nhị làm giống như cây Tỳ Bà, cho nên Tỳ Bà người ta cũng gọi là Hồ cầm”.

 

Nói tóm lại, các học giả đã chú giải Truyện Kiều đều cho Hồ cầm là đàn Tỳ Bà, hầu hết đều nói: “Chiêu Quân khi đi cống Hồ, hay đánh đàn Tỳ Bà, nên đàn Tỳ Bà có tên là Hồ cầm”. Đọc lời chú giải về “Hồ cầm” của các học giả trên, ban đầu tôi đinh ninh “Hồ cầm” là đàn tỳ bà. Chỉ có ý của nhà thơ Tản Đà là có khác: “Hồ cầm là cây đàn của rợ Hồ, nguyên chính là cái nhị…”

 

Tìm hiểu về Hồ cầm ta thấy:

 

Hồ cầm là một loại đàn của người Hồ (tên gọi được người Hán dùng để chỉ các dân tộc sinh sống tại vùng giáp giới giữa tây bắc Trung Quốc với các nước Trung Á). Nó là nhạc cụ của những người du mục, được dùng trong sinh hoạt văn nghệ dân gian và trong các cuộc tế lễ.  Như thế, nhạc cụ này có thể có nguồn gốc từ các khu vực ở phía bắc hoặc phía tây của Trung Quốc thường có người dân du mục cư của các bộ tộc gần Trung Quốc trong quá khứ.

 

Hồ cầm hiện nay có xuất xứ từ Ấn Độ và vùng Trung Á, được du nhập vào Trung Quốc từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau công nguyên từ người Hồ trong thời kỳ thịnh đạt của “Con đường tơ lụa”. Vì vậy nên người. Người Việt Nam gọi theo ngôn ngữ của mình là đàn hồ.

Hiện nay, Hồ cầm có mặt trong hầu hết các dàn nhạc dân tộc cổ truyền Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Đài Loan. Loại đàn này cũng có mặt ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước khu vực Tây Á và Kavkaz. Loại nhạc cụ này dần dần được bản địa hóa. Không chỉ người Kinh mà các dân tộc khác ở Việt Nam cũng chế tác đàn hồ cho mình.

Trong các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam, đàn hồ luôn có mặt. Thời cổ, dân gian Việt Nam có một loại đàn giống với đàn này, được gọi là đàn gáo (có bầu đàn giống cái gáo, mặt đàn bằng gỗ mỏng). Do cấu tạo và tính năng tương tự, nó được coi như một họ hàng của Hồ cầm.

 

Từ điển Từ Hải cho chúng ta hiểu rằng:

“Hồ cầm là tên một nhạc khí; xuất xứ tại Bắc Phiên, nên gọi là Hồ cầm; ống làm bằng trúc, mặt căng da trăn; trên có cán nhỏ, dài chừng một thước; đầu cán có lỗ xuyên ngang, và 2 trục, quấn 2 dây, căng thẳng trên mặt ống; dùng cung trúc căng mã vĩ mà cọ xát thành thanh âm”.

Nhạc khí này ta gọi là Cây hồ hay Đàn gáo cùng loại với Cây nhị hay Đàn cò.

Như vậy, Hồ cầm (đàn hồ) ở Việt Nam chính là nhị hồ (đàn nhị).

 

Nhà thơ Xuân Diệu có bài thơ “Nhị hồ” thật hay, trong đó có hai câu:

 

“Nhị hồ để bốc niềm cô tịch,

Không khóc, nhưng mà buồn hiu hiu...”

 

Cũng trong bài thơ “Nhị hồ” này, xuất hiện hai câu thơ bình thanh cũng rất hay:

 
       “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...”

 

Hai câu thơ trên được coi là dạng thơ bình thanh tiên phong của làng thơ Việt Nam, đồng thời với các bài thơ bình thanh “Tỳ bà”, “Hoàng hoa” của Bích Khê, hay bài thơ “Tiêu sầu” của Hàn Mặc Tử

 

Trong một đêm khuya thanh vắng, tiếng nhị hồ réo rắt ai oán gieo vào lòng tôi nỗi u hoài, tôi đã cảm tác bài thơ lục bát “Hồ cầm” hoàn toàn bình thanh:

 

HỒ CẦM    

 

Vang đêm thanh hồ cầm ngân    

Trăng ngà giăng tơ cung trầm buông lơi    

Lâng lâng tình đang lên khơi    

Hồ, xừ, xang… lòng chơi vơi canh dài    

Mơ hồ hồn xưa liêu trai    

Mồ thu hoang vu chừ ai u hoài    

Vương mang chi, đàn ngân dài    

Lưu dư hương… ồ trang đài về đâu    

Tương tư sao, đàn dâng sầu    

Say men nồng hay say màu thời gian    

Vời chân mây, nhòa non ngàn    

Bâng khuâng heo may, mơ màng hơi thu    

Ai phiêu diêu trong sương mù    

Người muôn năm… từ thâm u quay về    

Trần gian kia còn si mê?    

Hồ cầm cao cung, thương hề niềm xưa    

Rơi rưng rưng từng âm thừa    

Sao trời lung linh đường tơ chìm dần

                                                                                                                            

Bài thơ “HỒ CẦM” tôi lấy cảm hứng từ các câu thơ: “Ái thính thu phần quỷ xướng thi” (Vương Ngư Dương), “Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời” (Tản Đà), “Quạnh quẽ thu phần thơ bặt tiếng” (Vũ Hoàng Chương). Tiếng nhị hồ réo rắt, não nuột vừa bặt tiếng thì bài thơ “HỒ CẦM” cũng xong câu cuối…

                                                                                    

 La Thụy Đoàn Minh Phú

 

 

La Thụy
Số lần đọc: 2919
Ngày đăng: 12.01.2022
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc lại“Nhà Văn Hiện Đại” của Vũ Ngọc Phan(1904-1987) - Phan Văn Thạnh
“Níu một đời, giữ một thời” - Ban Mai
Chiến sĩ như bồ tát - Võ Công Liêm
“Chợ Quán, chợ Cầu, chợ Dinh…” trong khúc hát ru vùng Trị Thiên - La Thụy
Lan man về các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Vương Bột…cùng cánh cò hay cánh vịt trời - La Thụy
Thi pháp mảnh vỡ và tâm thức cội nguồn trong thuồng luồng mắt biếc của Nguyễn Minh Nữu - Hoàng Kim Oanh
Thu Vàng, tiếng hát đi tìm kỷ niệm. - Trương Văn Dân
Nguyễn Dương Quang: Thế gian chết hết chỉ còn đêm… - Hoàng Kim Oanh
Khoảng lặng từ những nỗi đau và sứ mệnh của người cầm bút * - Trần Hoài Anh
Lẽ vô thường trong thơ Trang Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu - La Thụy
Cùng một tác giả