Văn học so sánh (Comparative Literature) là một lãnh vực học thuật liên quan đến việc nghiên cứu văn học và biểu hiện văn hóa qua các ranh giới ngôn ngữ, quốc gia. Văn học so sánh "thực hiện một vai trò tương tự như nghiên cứu về quan hệ quốc tế, nhưng hoạt động với ngôn ngữ và truyền thống nghệ thuật, để hiểu văn hóa 'từ bên trong" ('from the inside"). Mặc dù các tác phẩm viết với nhiều ngôn ngữ khác nhau, văn học so sánh cũng có thể được thực hiện trên các tác phẩm có cùng ngôn ngữ nếu tác phẩm đó có nguồn gốc từ các quốc gia hoặc nền văn hóa khác nhau nhưng sử dụng chung một ngôn ngữ.
Lãnh vực liên văn hóa và xuyên quốc gia đặc trưng của văn học so sánh liên quan đến mối quan hệ giữa văn học và các lãnh vực hoạt động khác của con người, bao gồm lịch sử, chính trị, triết học, nghệ thuật và khoa học. Không giống như các hình thức nghiên cứu văn học khác, văn học so sánh nhấn mạnh vào phân tích liên ngành về sản xuất văn hóa xã hội trong "nền kinh tế, động lực chính trị, phong trào văn hóa, sự thay đổi lịch sử, sự khác biệt tôn giáo, môi trường đô thị, quan hệ quốc tế, chính sách công, và khoa học ".
Biểu tượng đa ngôn ngữ của Văn Học So Sánh
Những người hoạt động trong lãnh vực nầy thường được gọi là những "nhà so sánh" (comparatists). Họ là những người đã thành thạo một số ngôn ngữ và làm quen với các truyền thống văn học, phê bình văn học, và các văn bản chính của các ngôn ngữ họ đã biết. Các nhà so sánh thường thể hiện sự quen thuộc với xã hội học, lịch sử, nhân chủng học, nghiên cứu dịch thuật, lý thuyết phê bình, nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu tôn giáo. Do đó, các chương trình văn học so sánh trong các trường đại học có thể được thiết kế bởi các học giả rút ra từ một số khoa liên hệ. Chủ nghĩa chiết trung này đã khiến các nhà phê bình (từ bên trong và bên ngoài) cho rằng văn học so sánh không được xác định rõ ràng, hoặc các nhà so sánh rất dễ rơi vào chủ nghĩa tùy tiện, bởi vì phạm vi công việc của họ quá rộng và cần thiết. Một số câu hỏi liệu chiều kích rộng lớn này có ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm của các vị tiến sĩ (Ph.Ds) trong môi trường chuyên môn cao của thị trường học thuật và thị trường nghề nghiệp hay không, mặc dù những lo ngại đó dường như không được đưa ra ,bởi dữ liệu vị trí cho thấy sinh viên tốt nghiệp văn học so sánh được tuyển dụng với tỷ lệ tương tự hoặc cao hơn so với các đồng nghiệp của họ bằng tiếng Anh.
Các thuật ngữ "văn học so sánh" và "văn học thế giới" thường được sử dụng để chỉ định một khóa học hoặc một loại học bổng. Nhiều trường đại học ở Mỹ có khoa Văn học so sánh hoặc chương trình Văn học so sánh.Đó là một lãnh vực liên ngành mà các học viên nghiên cứu văn học xuyên biên giới quốc gia, qua các khoảng thời gian, qua các ngôn ngữ, qua các thể loại, qua ranh giới giữa văn học và nghệ thuật khác (âm nhạc, hội họa, khiêu vũ, phim, v.v.), qua các ngành (văn học và tâm lý học, triết học, khoa học, lịch sử, kiến trúc, xã hội học, chính trị, v.v.). Được định nghĩa rộng nhất, văn học so sánh là nghiên cứu về "văn học không biên giới". Học bổng về văn học so sánh bao gồm, ví dụ, nghiên cứu văn học và địa vị xã hội ở châu Mỹ, nghiên cứu sử thi và lãng mạn thời trung cổ, nghiên cứu mối liên hệ của văn học với văn hóa dân gian và thần thoại, nghiên cứu các tác phẩm thuộc địa và hậu thuộc địa ở các khu vực khác nhau trên thế giới, đặt câu hỏi cơ bản về các vấn đề cơ bản trên thế giới. Điều mà các học giả trong văn học so sánh chia xẻ là mong muốn nghiên cứu văn học vượt ra khỏi biên giới quốc gia và quan tâm đến ngôn ngữ để họ có thể đọc các văn bản nước ngoài ở dạng ban đầu. Nhiều nhà so sánh cũng chia xẻ mong muốn tích hợp kinh nghiệm văn học với các hiện tượng văn hóa khác như thay đổi lịch sử, khái niệm triết học và các phong trào xã hội.
H. M. Posnett (1855-1927) Người đầu tiên xử dụng
thuật ngữ Văn Học So Sánh(Photo : Internet)
Bộ môn văn học so sánh có các hiệp hội học thuật như Hiệp hội văn học so sánh quốc tế (ICLA : International Comparative Literature Association ) và hiệp hội văn học so sánh tồn tại ở nhiều quốc gia. Có nhiều tạp chí đã cấp học bổng cho ngánh văn học so sánh.
Người tiên phong trong lãnh vực văn học so sánh là Hutcheson Macaulay Posnett (1855 - 1927). Ông sinh tại Dublin, Ireland ,là một luật sư kiêm học giả nghiên cứu văn học. Từ năm 1885 đến năm 1890, Posnett giữ chức Chủ tịch Kinh điển và Văn học Anh tại Đại học Auckland, New Zealand. Các tác phẩm của ông bao gồm nhiều lãnh vực, nhưng đáng chú ý nhất là cuốn Văn Học So Sánh năm 1886, "ngày nay tác phẩm nầy được nhiều học giả coi là nền tảng cho các nghiên cứu về văn học so sánh ". Nó giải thích lịch sử văn học xảy ra đồng thời với sự tiến hóa xã hội, từ đơn giản đến phức tạp. Posnett là học giả đầu tiên sử dụng thuật ngữ văn học so sánh trong tiếng Anh. Posnett chịu ảnh hưởng nhiều từ khái niệm Weltliteratur ("văn học thế giới") của Johann Wolfgang von Goethe, hay nói cách khác, khái niệm Weltliteratur của Johann Wolfgang von Goethe là tiền đề cho văn học so sánh của Posnett. Sau H.M Posnett, người được chú ý trong lịch sử văn học so sánh là Hugo Meltzl ,người Hungary, cũng là biên tập viên sáng lập của tạp chí Acta soationis Litterarum Universarum (1877).
Nhưng học giới Nga lại tin rằng Alexander Veselovsky là người đặt nền móng cho ngành học nầy. Chẳng hạn, Viktor Zhirmunsky gọi Veselovsky là "đại diện đáng chú ý nhất của nghiên cứu văn học so sánh trong học giới Nga và châu Âu của thế kỷ XIX" . Mặc dù nhiều tác phẩm so sánh của thời kỳ này được đánh giá theo chủ nghĩa sô-vanh,xem văn hóa châu Âu là ưu việt (Eurocentric) hoặc thậm chí phân biệt chủng tộc theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng ý định của hầu hết các học giả trong thời kỳ này là mong muốn tăng sự hiểu biết giữa các nền văn hóa khác nhau.
Tại nước Pháp, từ đầu thế kỷ 20 đến Thế chiến thứ hai, lãnh vực này được gọi là "trường phái Pháp" (French School), trong đó các học giả như Paul Van Tiegham đã kiểm tra các công trình, tìm kiếm bằng chứng về "nguồn gốc" và " ảnh hưởng "giữa các tác phẩm từ các quốc gia khác nhau thường được gọi là" rapport des faits " (báo cáo sự thật). Do đó, một học giả có thể tìm hiểu bằng cách nào mà một ý tưởng văn học hoặc mô típ cụ thể di chuyển từ nước nầy qua nước khác .Trong trường phái văn học so sánh của Pháp, nghiên cứu về ảnh hưởng và tinh thần chiếm ưu thế. Ngày nay, trường phái Pháp thực hành phương pháp tiếp cận quốc gia của ngành học mặc dù nó cũng thúc đẩy cách tiếp cận của "Văn học so sánh châu Âu". Các ấn phẩm từ trường phái này bao gồm : La Littérature soée (1967) của C. Pichois và A.M. Rousseau; La Critique Littéraire (1969) của J.-C. Carloni và Jean Filloux ; La Littérature soée (1989) của Yves Cheverel, được dịch sang tiếng Anh là Văn học so sánh ngày nay: Phương pháp & quan điểm (1995)
Tại nước Đức, cũng giống trường phái Pháp, văn học so sánh Đức có nguồn gốc từ cuối thế kỷ 19. Sau Thế chiến II, ngành học đã phát triển đến một mức độ lớn do học giả Peter Szondi (1929 - 1971), một người Hungary giảng dạy tại Đại học Tự do Berlin. Tác phẩm của Szondi trong Allgemeine und Vergleichende Literaturwissenschaft (tiếng Đức nghĩa là "Nghiên cứu văn học đại cương và so sánh") bao gồm thể loại kịch, thơ trữ tình . Người ta mời các diễn giả quốc tế đến Berlin và giới thiệu về buổi nói chuyện của họ. Szondi hoan nghênh những học giả như Jacques Derrida (trước khi ông được công nhận trên toàn thế giới), Pierre Bourdieu và Lucien Goldman từ Pháp, Paul de Man từ Zürich, Gershom Sholem từ Jerusalem, Theodor W Adorno từ Frankfurt, Hans Robert Jauss từ Đại học trẻ Konstanz và từ Hoa Kỳ có René Wellek, Geoffrey Hartman và Peter Demetz (tất cả tại Đại học Yale), cùng với nhà báo tự do Lionel Trilling. hình thành một nhóm nghiên cứu riêng và một giáo trình phương pháp luận, làm tiêu biểu cho quan niệm của Szondi về văn học so sánh.Những học giả làm việc ở Đông Đức không được mời dự, cũng không được công nhận là đồng nghiệp từ Pháp hoặc Hà Lan. Tuy nhiên, trong khi Szondi hướng về phương Tây và các đồng minh mới của Tây Đức và ít chú ý đến các nhà so sánh ở Đông Âu, quan niệm của ông về một nền văn học so sánh xuyên quốc gia (và xuyên Đại Tây Dương) vẫn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các nhà lý luận văn học Đông Âu của Nga và Prague . Các trường phái của chủ nghĩa cấu trúc, từ tác phẩm của René Wellek cũng vậy, đã rút ra nhiều khái niệm. Và những khái niệm nầy tiếp tục có ý nghĩa sâu sắc đối với lý thuyết văn học so sánh ngày nay... Một cuốn sách hướng dẫn được xuất bản bởi khoa văn học so sánh tại LMU Munich liệt kê 31 Khoa tiếng Đức cung cấp văn bằng tốt nghiệp về văn học so sánh ở Đức. Đó là: Augsburg, Bayreuth, Đại học Tự do Berlin, Đại học Kỹ thuật Berlin, Bochum, Bon, Chemnitz-Zwickau, Erfurt, Erlangen-Nürnberg, Essen , Frankfurt am Main, Frankfurt an der Oder, Gießen, Göttingen, Jena, Karlsruhe, Kassel, Konstanz, Leipzig, Mainz, München, Münster, Osnabrück, Paderborn, P otsdam, Rostock, Saarbrücken, Siegen, Stuttgart, Tübingen, Wuppertal. (Der kleine Komparatist [2003]). Hiện trạng này đang thay đổi, vì nhiều trường đại học đang thích nghi với các yêu cầu mới của Cử nhân và Thạc sĩ Nghệ thuật được giới thiệu gần đây. Văn học so sánh Đức đang bị siết chặt bởi các triết học truyền thống một mặt và mặt khác do nhiều chương trình học nghề tìm cách cung cấp cho sinh viên kiến thức thực tế để sinh viên dễ tìm việc làm (ví dụ, 'Văn học ứng dụng').Đại học Đức ngày nay không còn giáo dục sinh viên của họ chủ yếu đi vào lãnh vực học thuật mà nghiêng về các phương pháp dạy nghề thực tế hơn.
Tại Hoa Kỳ, sau thế chiến thứ hai, trường phái Mỹ phản ứng lại với trường phái Pháp, đã tìm cách trả lại lãnh vực này cho các vấn đề liên quan trực tiếp hơn với phê bình văn học.Trường phái Mỹ liên kết chặt chẽ hơn với tầm nhìn quốc tế theo quan điểm của Goethe và Posnett (được cho là phản ánh mong muốn hợp tác quốc tế sau chiến tranh), tìm kiếm các ví dụ về "sự thật" của con người dựa trên các nguyên mẫu văn học xuất hiện trong mọi thời đại.Trước khi xuất hiện trường phái Mỹ, phạm vi của văn học so sánh ở phương Tây thường bị giới hạn trong văn học của Tây Âu và Anh-Mỹ. Một tượng đài cho cách tiếp cận của thời kỳ này là cuốn sách "Mimesis : Đại diện của hiện thực trong văn học phương Tây" (Mimesis : The Representation of Reality in Western Literature) của Erich Auerbach. Nội dung cuốn Mimesis là cuộc khảo sát về các kỹ thuật của chủ nghĩa hiện thực trong các văn bản có nguồn gốc cổ xưa từ vài ba ngàn năm trước và từng xuất hiện trên nhiều lục địa.
Cách tiếp cận của trường phái Mỹ trở nên quen thuộc với nhiều nhà nghiên cứu văn hóa hiện nay và thậm chí còn được một số người tuyên bố là tiền thân của sự bùng nổ Nghiên cứu Văn hóa tại các trường đại học trong những năm 1970 và 1980. Lãnh vực nghiên cứu hiện nay rất đa dạng: ví dụ, các nhà so sánh thường xuyên nghiên cứu văn học Trung Quốc, văn học Ả Rập và văn học của hầu hết các ngôn ngữ và khu vực chính khác trên thế giới cũng như văn học Anh và lục địa châu Âu...
Hiện tình văn học so sánh, với những phát triển trong các nghiên cứu về toàn cầu hóa và liên văn hóa, phạm vi nghiên cứu của nó rộng lớn hơn so với cách tiếp cận quốc gia đơn ngữ. Xu hướng hiện nay trong các nghiên cứu xuyên quốc gia cũng phản ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của các nhân vật văn học hậu thuộc địa như Giannina Braschi, J. M. Coetzee, Maryse Condé, Earl Lovelace, V. S. Naipaul, Michael Ondaatje, Wole Soyinka, Derek Walcott, và Lasana M. Sekou. Muốn tìm hiểu các nghiên cứu hậu thuộc địa gần đây ở Bắc Mỹ, xem George Elliott Clarke. Các hướng dẫn tìm hiểu khác : Phương pháp tiếp cận Văn học Canada gốc Phi. (Nhà xuất bản Đại học Toronto, 2011). Học giả người Canada Joseph Pivato đang thực hiện một chiến dịch nhằm hồi sinh nghiên cứu so sánh với cuốn sách của ông là " Văn học so sánh cho thế kỷ mới"... Văn học So sánh vẫn còn là một kho tàng cần nghiên cứu của giới học thuật Việt Nam...
MƯỜI NGUYÊN LÝ CỦA
VĂN HỌC SO SÁNH
NGUYÊN LÝ 1 : Văn học So Sánh (VHSS) có tầm mức quan trọng hàng đầu trong nghiên cứu và phê bình văn học và văn hóa nói chung.
NGUYÊN LÝ 2 : Lý thuyết cũng như phương pháp luận của VHSS phải có khả năng trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa, ngôn ngữ, văn học và các ngành học khác.
NGUYÊN LÝ 3 : Là các nhà so sánh (comparatists)trước hết phải có nền tảng chuyên sâu trong một số ngôn ngữ và văn học cũng như các ngành học khác trước khi nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết và phương pháp luận của VHSS.
NGUYÊN LÝ 4 : Nhấn mạnh đến việc nghiên cứu văn học liên quan đến các hình thức biểu hiện nghệ thuật (như nghệ thuật quan sát,âm nhạc,phim ảnh v..v..)và liên quan đến các ngành khác trong khoa học xã hội và nhân văn(lịch sử, xã hội học, tâm lý v..v..)
NGUYÊN LÝ 5: VHSS công nhận việc dùng tiếng Anh để nghiên cứu song song với các ngôn ngữ khác và văn học đơn lẻ trong cách tiếp cận các khái niệm so sánh khi nghiên cứu.vì đặc tính phổ cập rộng lớn của Anh ngữ.
NGUYÊN LÝ 6 : VHSS chủ trương khi nghiên cứu nền văn học nào thì nền văn học (literature) đó phải tập trung vào bối cảnh của nền văn hóa (culture) liên quan.
NGUYÊN LÝ 7 : Cách tiếp cận của VHSS bao gồm cả lý thuyết và phương pháp cũng như tư tưởng và chính trị.
NGUYÊN LÝ 8 : Phương pháp luận trong nghiên cứu liên ngành của VHSS cần hội đủ ba đặc tính : CHÍNH XÁC (khi phân tích và nghiên cứu trong các ngành học nhân văn) ; ĐA NGÀNH (khi một học giả phân tích và nghiên cứu về bất cứ ngành học nào trong đa ngành nhân văn); và TÍNH KỶ LUẬT (phân tích và nghiên cứu bằng cách làm việc theo nhóm với nhiều người tham gia từ các ngành học khác nhau)
NGUYÊN LÝ 9 : Nội dung của VHSS không chấp nhận nghịch lý đương đại của toàn cầu hóa đối với nội địa hóa.
NGUYÊN LÝ 10 : VHSS yêu cầu các thành viên phải cam kết nghề nghiệp khi làm việc trong ngành VHSS, có nghĩa là phải học tập và làm việc trong ngành VHSS như thế nào ? Lý do là giá trị trí tuệ cũng như phương pháp sư phạm và kỷ luật của VHSS để ra phải được người khác công nhận và tuân thủ. Do đó, môn học VHSS như một đề xuất nâng cao kiến thức của chúng ta bằng cách tiếp cận đa diện dựa trên sự nghiêm khắc học thuật và kiến thức đa tầng với phương pháp chính xác...
Oct 2019