Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.124
123.139.865
 
Một chuyến hành hương núi Thị Vải
Phan Anh

                       

            Vốn là người Bắc cho nên núi và chùa Thị Vải từ thủa xa xưa như thế nào tôi chẳng biết được nhiều, ngoài những điều tra cứu trong hai bộ sử “Đại Nam nhất thống chí” và “Gia định thành thông chí”. Theo đó, sách “Đại Nam nhất thống chí” có chép: “Núi Nữ Tăng tục gọi là núi Bà Vãi ở cách huyện Long Thành 42 dặm về phía Đông Nam, đất đá lởm chởm, cây cối to cao, đứng ở tỉnh Gia Định mà trông thấy như hạt ngọc thô đẹp. Mối lợi của núi dồi dào, dân nhờ để sống. Ngày trước có Bà Vãi là Lệ Thị dựng am trên núi để ở, nên gọi tên thế” (Phạm Trọng Điềm dịch); sách “Gia định thành thông chí” lại chép: “Tục danh núi Bà Vãi, ở địa phận huyện Long Thành; xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng bị lỡ thì, sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng, không được bao lâu chồng chết, bà thề không tái giá, lại bị kẻ cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu, bà bèn cạo đầu lập am ở đỉnh núi, tự làm thầy cả, cùng đồng bộc giữ lòng tu trì, sau thành chánh quả, người ta nhân đó đặt làm tên núi. Núi này cách phía đông trấn 200 dặm, đất đá chót vót, cây cối um tùm, ở thành Gia Định trông thấy giống như viên ngọc thượng hoàng phơi bày sắc đẹp. Dân núi  ở núi ấy để cấp dưỡng, như là cây gỗ, dầu thông, than củi và chim muông” (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch).

 

Ngoài ra, khi để ý đến ngọn núi này thì tôi có được đọc thêm câu chuyện “Sự tích núi ông Trịnh và núi Thị Vải”, theo đó nội dung câu chuyện như sau: Ngày xưa có một gia đình phú ông rất giàu nhưng không có con trai, có một cô con gái tên là Thị Vải. Thị Vải nhan sắc mặn mà, dễ coi. Tuy là con gái nhưng Thị Vải lại học võ nghệ nên cử chỉ như con trai. Khi phú ông đã già, Thị Vải cũng đến tuổi phải lấy chồng. Phú ông đem việc chồng con, việc thừa tự nói với con gái. Thị Vải trả lời: nếu chàng trai nào đánh bại được con thì con xin làm vợ người ấy. Chiều con nên phú ông cho lập võ đài để chọn rể nhưng không có chàng trai nào thắng được nàng. Cuối cùng, phú ông không nhắc đến việc chồng con của Thị Vải nữa. Một thời gian sau, phú ông bệnh rồi mất, Thị Vải thay cha quản lý ruộng đất, coi sóc việc nhà. Trong số người ở có anh lực điền tên Trịnh, giỏi giang, siêng năng, rất được chủ tin dùng, những công việc quan trọng đều giao cho anh. Một hôm, Thị Vải cùng Trịnh đi coi ruộng tá điền để định lúa tô. Trên đường đi gặp một dòng suối nhỏ chắn ngang, bình thường đi lại không khó khăn lắm, nhưng do chiều hôm trước mưa quá to nên nước dâng tràn lên bờ suối, chảy xiết. Lội qua thì không được, đi vòng lên phía thượng nguồn thì mất thời gian. Cuối cùng, Thị Vải bảo: “Hay là anh cõng tôi lội qua vậy”. Trịnh còn đang do dự thì Thị Vải nói: “Tôi còn không ngại mà anh lo nỗi gì, ta đi thôi kẻo trưa rồi”. Vậy là Trịnh kề vai cõng Thị Vải lội qua suối. Không biết có phải vì anh mất bình tĩnh hay vì nước chảy xiết mà vấp phải đá dưới chân, ngã sấp xuống nước. Thị Vải bị nước cuốn mạnh, suýt va đầu vào tảng đá. Thấy chủ nguy ngập, Trịnh không còn e dè gì nữa, nhào tới ôm lấy Thị Vải bế sang bờ bên kia. Qua bờ, hai người mặt đỏ bừng không nói với nhau lời nào, rồi tiếp tục lên đường. Ba ngày sau khi về nhà, Trịnh bỏ đi mất. Thị Vải cho người đi tìm cũng không thấy. Sau cùng, đích thân nàng đi tìm, rồi cũng không thấy trở về. Ít lâu sau, người ta tìm thấy xác Trịnh trên một đỉnh núi, còn xác Thị Vải ở một đỉnh núi khác. Có người biết chuyện cho rằng vì hai người có tình ý với nhau nhưng do không “môn đăng hộ đối” nên đành phải hẹn nhau nơi suối vàng. Từ đó, người dân trong vùng gọi núi này là núi Ông Trịnh, núi kia là núi Thị Vải.

 

            Nếu chỉ có vậy thì núi Thị Vải hẳn là không gây được sự chú ý với một người đất Bắc và thôi thúc tôi phải tìm đến một lần để chiêm bái và thăm thú. Ở nước Nam nhiệt đới với địa hình ba phần tư lãnh thổ là đồi núi này thì có biết bao nhiêu núi đẹp và núi đẹp nào chẳng gắn với những sự tích không tiên nữ giáng trần thì cũng là chiến tranh địch họa hay những bi kịch tình yêu đôi lứa để định danh cho núi. Chiếu theo lẽ đó hẳn là núi Thị Vải không nằm ngoài quy luật phổ biến ấy. Tuy nhiên, trong thâm tâm, núi Thị Vải là nơi tôi thầm mong được đến. Tôi đến nơi ấy với một mong muốn được tìm hiểu về nơi ở một thời của một người phụ nữ là mối tình đầu tiên và duy nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người ấy đã sống và tu hành ở đây cho đến khi về bên Bác.

 

            Ai đã đọc “Búp sen xanh” của cố nhà văn Sơn Tùng hẳn sẽ chẳng thể nào quên cô Út Huệ, một cô gái Nam Bộ từng thầm yêu trộm nhớ anh Ba tức Nguyễn Tất Thành; đã từng bịn rịn, lưu luyến đưa tiễn người mình yêu lên tàu Đô đốc Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước vào “sáng ngày Năm tháng Sáu năm Một ngàn chín trăm mười một. Sương sớm phủ nóc nhà Rồng. Dòng sông Sài Gòn cong cong như lưng người già đã trải qua nhiều khúc đường đời khổ ải” với một lời cầu khấn đất trời: “Sông ơi!/ Đừng mọc đá ngầm/ Biển ơi!/ Đừng dựng sóng dữ/ Anh đi thuận gió xuôi buồm/ Hỡi những phương trời xa lạ/ Hãy đón lấy anh/ Một chàng trai nước Việt/ Anh là của Nước của Dân/ Tất cả đợi anh về”. Nhân vật Út Huệ ấy ngoài đời chính là bà Lê Thị Huệ, con gái Kế quan Lê Quang Hưng ở bộ Công trong triều đình Huế và là học trò của cụ Nguyễn Sinh Sắc khi dạy học ở Huế. Cô Huệ và Nguyễn Tất Thành từng quen biết và gắn bó với nhau từ những ngày ở Huế. Trong buổi chia ly sớm hôm ấy Nguyễn Tất Thành đã gửi lại Út Huệ chiếc lược của mẹ mình để thay cho những lời muốn nói. Nhưng chẳng ai ngờ buổi chia tay sớm đó cũng là lần chia ly vĩnh viễn làm thành “một mối tình câm”. Sau buổi chia tay hôm ấy “chàng thì đi cõi xa mưa gió” còn “nàng” ở lại quê nhà thay “chàng” báo hiếu cho cha, cho thầy là cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp rồi lên núi lặng lẽ lên núi Thị Vải xuống tóc đi tu.

 

Mối tình trong sáng, cao cả này nếu không có nhà văn Sơn Tùng cất công tìm kiếm trên dưới ba mươi năm, bất chấp chiến tranh và thương tật thì có lẽ cũng rơi vào cảnh “Nợ tình chưa trả cho ai/ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”. Theo như lời kể của Giáo sư Hoàng Chí Bảo thì quá trình đi tìm cô Huệ của Bác mà nhà văn Sơn Tùng đã trải qua là cả một hành trình đầy gian nan, vất vả. Gian nan bởi không gian và thời gian chiến tranh; gian nan bởi tìm kiếm manh mối; gian nan bởi nhân vật chính đâu có chịu mở lòng ngay bởi bao điều tế nhị khó nói của một nữ tu. Nhưng rồi sự thật cũng được sáng tỏ. Và lần theo bước chân của nhà văn Sơn Tùng đã đi trên hành trình ấy, núi Thị Vải một lần nữa được người đời nhắc đến bởi đây là nơi nhân vật Út Huệ ngoài đời đã sống, tu hành trong những năm cuối đời. Có lẽ, chẳng ai ngờ huyền thoại tên núi Thị Vải lại trùng khớp và ứng nghiệm với mối tình đẹp đẽ và cao thượng nhưng không kém phần bi thương của bà Lê Thị Huệ. Bởi thế, không chỉ với riêng tôi, có lẽ sau này núi Thị Vải sẽ còn rất nhiều người tìm đến để tìm hiểu và chiêm bái.

 

            Chùa Thị Vải là tên gọi nôm na, chính tên của phật giáo gọi là Linh Sơn Biểu Thiền tự. Đây là một ngôi chùa độc đáo ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chùa nằm trên núi Thị Vải thuộc thị xã Phú Mỹ. Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, có tuổi đời hơn hai trăm năm. Tương truyền Ni sư Diệu Thiện (thế danh Lê Thị Nữ) là người đầu tiên lên núi lập am tu hành. Bà có công cứu Nguyễn Ánh khi đi lạc vào núi. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đã cho người quay lại núi tìm Ni sư nhưng bà đã mất. Nhớ ơn bà, vua đã sắc phong làm Linh Sơn Thánh Mẫu, thảo am cũng được sắc tứ Linh Sơn Bửi Thiền tự. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, chùa đã bị tàn phá hư hỏng và được trùng tu nhiều lần. Ngôi chùa hiện nay được xây dựng theo phong cách kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Việt Nam và Nhật Bản, trong đó chất Nhật Bản có phần nổi trội. Cụ thể các khối công trình của chùa gồm có: đầu tiên là cổng chung dẫn lên các chùa và hai tháp Kim Can có hai vị thần trông coi bảo vệ; phía bên trái là Tổ tháp, bên phải là tượng Quan Âm cao khoảng sáu mét; thứ hai là hệ thống chùa, từ chân núi lên đỉnh núi có chùa Liên Trì (ở chân núi), chùa Hồng Phúc (ở giữa núi gọi là chùa Trung), chùa Linh Sơn Bửu Thiền (ở trên đỉnh núi, có các tên gọi khác là chùa Thượng hay chùa Tổ). Tại chùa Tổ có thờ đức Phật Thích Ca, phía trước có tòa Cửu Long và tượng Đản sanh, hai bên có tượng Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền. Phía sau chùa Tổ có thờ Đạt Ma Tổ sư.

 

            Ấn tượng về chùa trên núi Thị Vải trong tôi là khối công trình kiến trúc đẹp, hài hòa với cảnh quan tự nhiên; đặc biệt là chinh phục con đường bậc đá hành hương lên đỉnh núi - chùa Tổ. Khối công trình kiến trúc nơi chùa Tổ tựa như thiên đường trên mây mang đậm nét phong cách Nhật Bản, nơi được ví như cổng trời để mọi người sống ảo. Trước tiên là Tam Quan với ba tầng mái ngói ống đỏ sẫm để thông thoáng với các cột trụ cao vút trên đỉnh núi vừa gợi lên sự linh thiêng vừa gợi lên sự gần gũi với mọi người. Từ Tam Quan chúng ta có thể phóng tầm mắt nhìn xuống chân núi để ngắm nhìn phố phường, làng mạc bát ngát xa trông lấp lánh, hữu tình cùng sông nước mênh mang uốn lượn. Phía sau Tam Quan đi qua gần trăm bậc đá chúng ta lên chùa Tổ. Chùa Tổ có năm gian to với ba tầng mái ngói ống đỏ sẫm với các góc mái uốn cong nhìn rất  duyên dáng, thoáng mát, cổ kính gợi lên sự trang nghiêm, thanh tịnh của chốn thiền môn. Chùa Tổ cũng là một điểm thường được mọi người tìm đến để chụp hình lưu niệm. Hành hương lên chùa Tổ hẳn là ai đã một lần từng qua sẽ nhớ mãi một ngàn ba trăm bốn mươi bậc đá xếp theo kiểu cầu thang, quanh co uốn lượn trên núi, khi thì thoai thoải, lúc lại như thể dựng đứng giữa rừng cổ thụ xanh rợp bóng cây. Con đường hành hương lên chùa Tổ đi giữa rừng xanh khiến cho người lên chùa không chỉ được thả hồn trong sự tĩnh lặng của núi đá mà còn được hít thở sự trong lành, mát mẻ của tự nhiên cây lá nơi chốn rừng thẳm linh thiêng. Những bậc cầu thang quanh co lên đỉnh núi ấy dài khoảng chừng ba cây số chính là đường về “xứ phật” cho nên hàng ngày có rất nhiều phật tử từ khắp mọi nơi tìm đến và thể hiện lòng thành kính của mình với đức phật bằng nghi lễ “tam bộ nhất bái” (đi ba bước lạy một lạy). Từ chân núi các phật tử chủ yếu trong trang phục thanh nhã của nhà phật miệng niệm phật chân bước đi ba lần trên ba bậc đá rồi lại dừng lại bò rạp xuống mặt đất bái lạy một lễ; sau đó lại tiếp tục đứng lên bước đi, cứ như thế, đều đặn cho tới khi lên đến chùa Tổ trên đỉnh núi. Dường như những phật tử đến đây không chỉ thể hiện lòng thành tâm kính phật mà còn cầu mong sự che chở của đức tổ với bản thân và gia đình cũng như mọi chúng sinh với mong ước an bình, mạnh khỏe qua những lần bái lạy.

 

            Chuyến hành hương về đất phật Thị Vải, với tôi không chỉ lễ phật và vãn cảnh. Chúng tôi đã cất công hỏi thăm và tìm kiếm các mộ tháp để lần xem có tìm được nấm mồ của cô Út Huệ đặng thắp một tuần nhang để tỏ lòng thành kính với người phụ nữ vô cùng nhân hậu và cao thượng này. Tuy nhiên tất cả vẫn chìm trong cõi lặng. Các mộ tháp không thấy tên. Không rõ mộ còn hay mất? Có lẽ một người đã kín tiếng, ẩn mình suốt cả đời người; luôn sợ mang tiếng với đời là “thấy sang bắt quàng làm họ” như cô Út Huệ đã từng tâm sự với nhà văn Sơn Tùng thì có lẽ nấm mồ sau thác cũng lại trở về với hư không. Sống đã im lặng và thác lại lặng im.

            Núi Thị Vải “chốn bồng lai tiên cảnh” với những núi ôm mây, mây ấp núi; sớm tối hòa trong những màn khói sương mờ ảo thơ mộng giữa vô vàn cổ thụ vươn cành tỏa bóng xanh mát và rộn tiếng chim ca tựa như cổ tích nhưng chốn Thị Vải cũng là lưu cất một “mối tình câm”. Đất phật ấy mênh mông. Gửi hương trong gió, thắp nén tâm thành.   

 

Tác giả trước bia Linh Sơn Bửu Thiện tự dưới chân núi Thị Vải 

Tam quan chùa Tổ trên đỉnh núi Thị Vải, hướng nhìn từ chùa Tổ

 

Chùa Tổ - Linh Sơn Bửu Thiền tự

Phan Anh
Số lần đọc: 575
Ngày đăng: 07.09.2023
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Pompei, hình ảnh sống trên một thành phố chết - Trương Văn Dân
Tưởng như bâng quơ... - Nguyễn Quốc Lãnh
Ký ức củ mài - Hoàng Xuân
Phú Quốc, âm vang và hào khí phố biển - Nhiều Tác Giả
Cô Hai Sâm - Hoàng Thị Bích Hà
20 năm – nghe thầy kể chuyện trường xưa - Bùi Hoàng Linh
Tản mạn cùng Cô Tô - Phan Anh
Người chạy xe ôm bến Ninh Kiều - Nguyễn Vĩnh Long
“Vui lên Việt Bắc, đèo De núi Hồng” - Phan Anh
Cuộc hội ngộ sau nửa thế kỷ - Nguyễn Đại Duẫn