Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.133
123.140.778
 
Hình bóng Hemingway ở Paris (Qua hồi ký A moveable Feast) (Kỳ 5)
Phan Tấn Uẩn

 

***

  Ernest Hemingway là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế giới trong thế kỷ 20. Bức điện tín sau đây do tiến sĩ Anders Osterling của Viện Hàn Lâm Thụy Điển thông báo cho Hemingway biết ông đã được trao giải Nobel Văn Học năm 1954. Bức điện hiện được lưu trữ trong Bảo Tàng Thư Viện Tổng Thống John F. Kennedy.

 

 

*

*     *

 

UNE GÉNÉRATION PERDUE (tiếp theo)

 

Hemingway có thói quen đến nhà Gertrude Stein vào các buổi chiều. Stein “luôn thân thiện” và thích thảo luận về “các nhân vật , những địa điểm, các loại đồ vật và các  thức ăn”. Bà không thích nghe những chuyện tiêu cực. Hemingway chỉ kể “những điều kỳ lạ và khôi hài” cho bà nghe và giữ những chủ đề có ý nghĩa cho bài viết của mình.

            Hemingway cho biết sau khi kết thúc một ngày làm việc mệt nhọc, để thư giản ông tập thể dục hoặc “làm tình với người yêu”. Và hơn thế nữa, là đọc sách để khỏi phải suy nghĩ gì về câu chuyện đang viết nửa chừng. Ông đọc Aldous Huxley, D.H. Lawrence và những cuốn khác trong bộ sưu tập của Sylvia. Stein phản đối việc Hemingway đọc Huxley, cho rằng Huxley là một xác chết (dead man). Bà khuyên Hemingway đọc “những gì hay thực sự hoặc những gì dở nhưng trung thực.” Bà nhấn mạnh tác phẩm của Huxley là thứ “rác rưởi bị thổi phồng” và hỏi Hemingway tại sao lại đọc nó.

 

Aldous Huxley (trái), D.H. Lawrence

 

            Stein còn phê phán D.H. Lawrence là nhà văn “thảm hại và phi lý.” Bà khuyên Hemingway đọc Marie Belloc Lowndes …

 

            "Huxley là một xác chết," Miss Stein nói. " Tại sao cậu muốn đọc một xác chết ? Cậu không thấy y  chết rồi sao?"

            Tôi không nhận ra ông ta là một xác chết. Tôi nói những tác phẩm của ông ấy rất thú vị và giúp tôi khỏi phải suy nghĩ gì khác.

            " Cậu nên đọc những thứ  hay thực sự , hoặc dở nhưng trung thực."

            “ Tôi đã đọc những cuốn thực sự hay suốt mùa đông nầy và mùa đông vừa qua và cả mùa đông sắp tới, và tôi không thích những cuốn dở nhưng trung thực”.

            “ Sao cậu lại đọc thứ rác rưỡi (trash) kia ? Nó là thứ rác rưỡi được thổi phồng đó , Hemingway. Văn chương của một xác chết.”

            “ Tôi thích thấy nhửng gì người ta viết như thế.” Tôi nói. “ Và nhờ đó tôi khỏi phài bận tâm đến những gì đang làm.”

            “ Thế bây giờ cậu đọc ai khác nữa ?”

            " D.H.Lawrence," Tôi nói. " Ông ấy viết mấy truyện ngắn rất hay, như The  Prussian Officer " (Viên sĩ quan Phổ)."

            "Tôi đã thử đọc tiểu thuyết của ông ấy. Không thể như thế. Thật thảm hại và lố bịch. Viết như một tên bệnh hoạn.”

            " Tôi thích (các truyện)  Sons and Lovers và The White Peacock," tôi nói. " Có thể không quá hay. Tôi không thể nào đọc Women in love."

            “ Nếu cậu không muốn đọc những gì dở và muốn đọc những gì được thể hiện một cách hứng thú và tuyệt vời, cậu nên đọc Marie Belloc Lowndes.” (PTU dịch)

 (“Huxley is a dead man,” Miss Stein said. “Why do you want to read a dead man? Can’t you see he is dead?”

I could not see, then, that he was a dead man and I said that his books amused me and kept me from thinking.

            “You should only read what is truly good or what is frankly bad.”

            “I’ve been reading truly good books all winter and all last winter and I’ll read them next winter, and I don’t like frankly bad books.”

            “Why do you read this trash? It is inflated trash, Hemingway. By a dead man.”

            “I like to see what they are writing,” I said. “And it keeps my mind off me doing it.”

            “Who else do you read now?”

            “D. H. Lawrence,” I said. “He wrote some very good short stories, one called ‘The Prussian Officer.’ ”

            “I tried to read his novels. He’s impossible. He’s pathetic and preposterous. He writes like a sick man.”

            “I liked Sons and Lovers and The White Peacock,” I said. “Maybe that not so well. I couldn’t read Women in Love.”

“If you don’t want to read what is bad, and want to read something that will hold your interest and is marvelous in its own way, you should read Marie Belloc Lowndes.”)

                                                                                                                   ( Une génération perdue)

 

            The White Peacock (Con Công Trắng) là tác phẩm đầu tay của D.H Lawrence. Ông đã dốc hết tâm huyết , viết đi viết lại nhiều lần để chứng tỏ bản thân. Tác phẩm Con Công Trắng xuất bản năm 1911. Cuốn sách thể hiện nhiều chủ đề chính. Hemingway cũng thích truyện " Viên Sĩ quan Phổ" của Lawrence kể về một thuyền trưởng và người phục vụ. Lãng phí tuổi trẻ của mình vào cờ bạc, dù có nhiều tình nhân nhưng viên sĩ quan vẫn độc thân. Vì một người đàn bà, cả hai trở thành thù nghịch. Viên sĩ quan bất chấp vai trò của mình, đã hành hung dã man người phục vụ, để lại những vết bầm tím lớn, đau đớn trên đùi nạn nhân. Lợi dụng một buổi diễn tập trong rừng vắng, người phục vụ đã thực hiện cuộc trả thù, giết chết viên thuyền trưởng. Nhưng giết xong, y  thấy mình choáng váng hoảng loạn,cuối cùng suy sụp và chết trong bệnh viện ngay sau đó. Xác của hai người nằm cạnh nhau.

 

     

D.H. Lawrence (1885 –1930) và tác phẩm The White Peacock (Con công trắng)

Về nữ tác giả Marie Belloc Lowndes, Stein cho Hemingway mượn cuốn The Lodger, xuất bản năm 1913. Câu chuyện lấy cảm hứng từ Jack the Ripper (1) và được dựng thành không dưới năm bộ phim, bao gồm cả 'The Lodger: A Story of the London Fog” năm 1927 của Alfred Hitchcock. Cuốn sách rất hấp dẫn khiến sau khi đọc xong, Hemingway đọc bất cứ sách nào của nữ tác giả nầy nếu tìm thấy.

 

   Marie Belloc Lowndes (1868-1947)

   

Và tác phẩm  THE LODGER (Ngưởi ở trọ )

 

            Hemingway cho biết Stein thích nói tiếng Pháp nhưng không thích đọc ngôn ngữ Pháp. Còn Hemingway thì ngưỡng mộ Georges Simenon, một tác giả của văn học Pháp có bút lực kinh hoàng . Theo Wikipedia , Simenon  đã xuất bản khoảng 400 cuốn tiểu thuyết, 21 tập hồi ký và nhiều truyện ngắn, bán được hơn 500 triệu bản. Ông nổi tiếng với bộ tác phẩm trinh thám hư cấu về thanh tra Maigret. L’Ecluse Numéro 1 (Chốt khóa số 1) là cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong bộ truyện nổi tiếng" Maigret",cũng là một trong hai cuốn Hemingway đọc Simenon lần đầu, cuốn kia là  La Maison du Canal . Ngoài tiểu thuyết trinh thám, Simenon còn được giới phê bình hoan nghênh đối với tiểu thuyết văn học của ông. Theo André Gide : “Tôi coi Simenon là một tiểu thuyết gia vĩ đại, có lẽ vĩ đại nhất và chân chính nhất mà chúng ta từng có trong nền văn học Pháp đương đại.” .

Georges Simenon (1903-1989) ảnh năm 1963(Wikipedia)

 

Tác phẩm L’Ecluse 1

Hemingway cho biết chính Janet Flanner cho mượn hai cuốn Simenon nói trên.

 

Janet Flanner (1892 – 1978)

 

Janet Flanner ,nhà văn người Mỹ. từng là phóng viên Paris của tạp chí The New Yorker trong gần nửa thế kỷ. Sau một thời gian lưu trú ở Thành phố New York, bà đi khắp châu Âu, cuối cùng định cư ở Paris vào năm 1922. Bà sống ở đó cho đến năm 1975 .Với bút danh Genêt, Janet Flanner viết các bài báo trên tờ The New Yorker về chính trị, nghệ thuật, sân khấu, văn hóa Pháp .

 

            Ngoại trừ Ronald Firbank, và sau này là Scott Fitzgerald, Hemingway không thấy Stein khen ngợi tác phẩm của bất cứ nhà văn nào nếu như họ không giúp gì cho sự nghiệp của bà.

 

Ronald Firbank (1886–1926)

 

Scott Fitzgerald (1896 – 1940)

Francis Scott Key Fitzgerald là nhà văn Mỹ, nổi tiếng với những tiểu thuyết mô tả sự hào nhoáng và vượt trội của Thời đại nhạc Jazz—một thuật ngữ ông dùng phổ biến trong tuyển tập truyện ngắn Tales of the Jazz Age. Trong suốt đời mình, ông đã xuất bản 4 tiểu thuyết, 4 tuyển tập truyện và 164 truyện ngắn. Mặc dù thành công lớn trong những năm 1920, Fitzgerald chỉ nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình sau khi qua đời và hiện được nhiều người coi là một trong những nhà văn Mỹ vĩ đại nhất thế kỷ 20.

 

            Với James Joyce (2) , Hemingway không muốn đề cập đến, vì “nếu bạn nhắc đến Joyce hai lần, bạn sẽ không được (Stein)mời trở lại."

            Với Sherwood Anderson (3), Hemingway thích một vài truyện ngắn và chỉ trích cuốn tiểu thuyết Dark Laughter của tác giả nầy khiến Stein tức giận vì Anderson là một phần trong bộ sưu tập của bà . Stein có ác cảm với Ezra Pound  vì ông ta  vô tình làm gãy một chiếc ghế ở 27 Rue de Fleurus.

James Joyce (1882 -1941)

 

Sherwood Anderson (1876 – 1941)và Elizabeth Prall (vợ thứ 3 của ông)

và  tác phẩm Dark Laughter (1923)

 

     (Ezra in his Paris studio 1923)

Sử thi The Cantons của Ezra Pound được các nhà văn

nổi tiếng ( E. Hemingway, Ford Madox Ford, T.S Eliot…) vinh danh

 

Ezra Pound là nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ, nhân vật chính trong phong trào thơ hiện đại thời kỳ đầu. Các tác phẩm của ông bao gồm Ripostes (1912), Hugh Selwyn Mauberley (1920), và trường ca sử thi The Cantos (800 trang). The Cantos gồm 117 phân khúc, mỗi phân khúc là một  bài thơ - ca (canto),được viết từ 1915 đến năm 1962. Đây là trường ca được coi là khó hiểu đối với nhiếu người, nhưng là tác phẩm quan trọng nhất của thơ ca hiện đại trong thế kỷ XX. Ông bị kết án là kẻ phản bội quê hương, vì cọng tác với phát xít Ý trong Thế chiến thứ hai …

 

**

 

Chuyện trò với Stein khiến Hemingway nhớ lại những ký ức về chiến tranh khi Stein dùng thuật ngữ Une génération perdue để nói về thế hệ của ông. Đọc lại phần đối đáp về câu chuyện nầy…

 

  Nhắc lại, người thợ máy làm nghĩa vụ quân sự vào năm cuối thế chiến thứ nhất đã không hoàn thành việc sửa chiếc xe Ford Model T của Stein, đã bị chủ garage chê trách là Une génération perdue.

 

            “ Đó cũng là trường hợp của cậu. Các cậu đều như thế,” Miss Stein nói. “Tất cả thanh niên tham gia chiến tranh. Các cậu là một thế hệ không xài được.”

            “ Có thật không ?” Tôi nói.

            “Đúng vậy,” bà nhắc lại “Các cậu không tôn trọng bất cứ thứ gì. Cứ uống cho đến chết,,,”

            “ Anh thợ máy trẻ đó có say không ?” Tôi hỏi.

            " Dĩ nhiên là không."

            “Bà đã bao giờ thấy tôi say chưa?”

            " Chưa . Nhưng bạn của cậu say.”

            “Tôi đã từng say rồi,” tôi nói. “Nhưng tôi không đến đây trong tình trạng say xỉn.”

            "Dĩ nhiên là không. Tôi không nói điều đó.”

            “Lão chủ của anh chàng thợ máy  có lẽ đã say vào lúc 11 giờ sáng,” tôi nói. “Đó là

tại sao ông ta lại nói những câu đáng giá như vậy.”

            “Đừng tranh cãi với tôi, Hemingway,” Miss Stein nói. “Nó chẳng có tác dụng gì. Tất cả các cậu đều là một thế hệ đã mất, đúng như lời người giữ gara đã nói.” (PTU dịch)

(“That’s what you are. That’s what you all are,” Miss Stein said. “All of you young people who served in the war. You are a lost generation.”

“Really?” I said.

“You are,” she insisted. “You have no respect for anything. You drink yourselves to death….”

“Was the young mechanic drunk?” I asked.

“Of course not.”

“Have you ever seen me drunk?”

“No. But your friends are drunk.”

“I’ve been drunk,” I said. “But I don’t come here drunk.”

“Of course not. I didn’t say that.”

“The boy’s patron was probably drunk by eleven o’clock in the morning,” I said. “That’s why he makes such lovely phrases.”

“Don’t argue with me, Hemingway,” Miss Stein said. “It does no good at all. You’re all a lost generation, exactly as the garage keeper said.”)

 

Hemingway trong sân nhà

113 rue Notre Dame des Champs, 1924

 

Nhận xét của Stein khiến Hemingway hết sức khó chịu nếu không nói là tức giận, mặc dù vẫn xem Miss Stein là người bạn tốt. Dường như ông nghĩ Miss Stein dùng thuật ngữ Pháp Une génération perdue để ám chỉ ông và những người cùng  thế hệ là vô vọng, không mục đích và phá hoại. Ông rất nhạy cảm với những từ ngữ của Stein nói , xem đó như những gì thối nát nhất. Và tự hỏi “ai đang gọi ai là thế hệ đã mất ? " và nghĩ về những thế hệ khác “ai cũng bị mất mát bởi một thứ gì đó”,và xem đó là  một tình trạng phổ quát.

            Trở về nhà, Hemingway nói với Hadley rằng Stein “nói rất nhiều chuyện thối nát,” nhưng Hadley trả lời  không biết gì về Stein , vì mình chỉ nói chuyện với Alice (bạn sống chung phòng với Stein) khi đến nhà Stein.

           

            “ Em biết không, dù sao thì Gertrude cũng đáng yêu ”

            “ Dĩ nhiên, Tatie.”

            “ Nhưng đôi khi bà ta nói toàn những điều thối nát “

            “ Em chưa hề nghe bà nói,” vợ tôi nói. “ Em là vợ. Chỉ có bà bạn của bà ấy nói chuyện với em thôi.”

            (“You know, Gertrude is nice, anyway.”

            “ Of course , Tatie. ”

            “ But she does talk a lot of rot sometimes.”         

            “ I never hear er,” my wife said. “ I’m a wife. It’ s her friend that talks to me.”)

 

*

*     *

            Mối quan hệ của Hemingway và Stein rất nghiêm túc và chân thật. Cả hai nhân vật đều rất coi trọng bản thân, công việc riêng cá nhân và nghệ thuật nói chung. Về Stein,lối suy nghĩ khác thường của bà có vẻ lập dị, phù hợp với sở thích chỉ muốn nói về “những điều kỳ lạ và hài hước”. Phần lớn lời khuyên dành cho Hemingway Stein thường cố tình bóp méo sự thật hoặc lật đổ những cách suy nghĩ thông thường (ví dụ, bảo Hemingway đừng đọc Huxley vì tác giả bị gọi là “ một xác chết”). Trong khi đó, Hemingway dường như suy nghĩ theo một cách hợp lý và thực tế hơn, điều này đã được thể hiện rõ ràng qua các quy tắc viết lách của ông.

 

            Rõ ràng Hemingway và Gertrude Stein có nhiều thuộc tính trái ngược nhau. Stein là một cố vấn trung thành và hào phóng của Hemingway, nhưng có thái độ dễ thay đổi và thích cạnh tranh với các nhà văn khác như Joyce và Pound. Bà tự hào về sở thích nghệ thuật và văn học của mình, đôi khi nêu đích danh một cách ngẫu nhiên việc thích hay không thích một số nhà văn. Cần nói thêm, trong khi toàn bộ cuộc sống của Stein xoay quanh việc sản xuất và phê bình nghệ thuật, bà thích thảo luận về các nghệ sĩ với tư cách là con người hơn là thảo luận về công việc của họ…

-------------------------                       

(1)  Jack the Ripper là một kẻ giết người hàng loạt không rõ danh tính hoạt động trong và xung quanh quận Whitechapel nghèo khó của London, Anh, vào năm 1888.

 

(2) James Joyce  là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà phê bình văn học người Ireland. Ông đã đóng góp cho phong trào tiên phong của văn học hiện đại và được coi là một trong những nhà văn có ảnh hưởng và quan trọng nhất của thế kỷ 20. Cuốn tiểu thuyết Ulysses (1922) của Joyce là một bước ngoặt trong đó các tình tiết trong Odyssey của Homer được mô tả với nhiều phong cách văn học khác nhau, đặc biệt là dòng ý thức. Các tác phẩm nổi tiếng khác là tuyển tập truyện ngắn Người Dublin (Dubliners ,1914), Chân dung người nghệ sĩ khi còn trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man ,1916) và Finnegans Wake (1939). Các tác phẩm khác của ông bao gồm ba tập thơ, một vở kịch, những bức thư và các bài báo.

 

(3) Sherwood Anderson  là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm phản ảnh tính cách cá nhân nổi bật của mình. Là một người tự học, Anderson từng là chủ doanh nghiệp thành công ở Cleveland và Elyria, Ohio trước khi trở thành nhà văn năm 1912.

 

Gainesville, Nov 15-2023

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phan Tấn Uẩn
Số lần đọc: 442
Ngày đăng: 28.12.2023
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhà văn Phù Vân! Gió mang niềm nhớ …Và Mây đã bay đi - Trương Văn Dân
Nhà văn Châu La Việt: “Tôi chỉ là một cây vĩ cầm dẫn chuyện” - Minh Tứ
Hình bóng Hemingway ở Paris (Kỳ 4) - Phan Tấn Uẩn
1947 – André Gide (Pháp, 1869 – 1951) - Lê Ký Thương
Hình bóng Hemingway ở Paris (Kỳ 3) - Phan Tấn Uẩn
1946 – Hermann Hesse (Đức, 1877 – 1962) - Lê Ký Thương
Hình bóng Hemingway ở Paris (Kỳ 2) - Phan Tấn Uẩn
‘1945 – Gabriela Mistral (Chi-lê, 1889–1957) - Lê Ký Thương
Hình bóng Hemingway ở Paris (Kỳ 1) - Phan Tấn Uẩn
1944 Johannes V. Jensen (Đan Mạch, 1873 – 1950) - Lê Ký Thương
Cùng một tác giả
Đêm Mù Mộ Địa (truyện ngắn)
Chuyến về quê (truyện ngắn)
Giấc mơ chiếu manh (truyện ngắn)
Trên sợi tóc buồn (truyện ngắn)
Quán về khuya (truyện ngắn)
Phố đỏ (truyện ngắn)