Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
975
123.137.245
 
Đẹp Tuyệt Đỉnh Là Phải… Cô Liêu
Nguyễn Hàng Tình

                                                                                           

    “Giống loài mơ mộng nhất sẽ là loài khinh bỉ vật chất, không còn sống quần hôn và bầy đàn tính như cầm thú nữa, ở bất cứ nơi đâu nó sống sót

                           

 

         Khói sương không muốn rời khỏi đây. Nó cứ quần quanh thung lũng, kéo nhau lê thê từ đỉnh cao sườn bắc Trạm Hành vòng theo cánh cung núi xuống đầu đèo Sông Pha, qua suối Cát, vắt lên mấy cánh rừng gần Lạc Lâm, rồi va vào sườn nam Trạm Hành. Dran thành thung lũng chứa sương.

 

 

                                               

                                                     Trú

                                                                             

 

 

          Ngay đỉnh núi mà là một thung lũng, lại mặc chiếc áo làm bằng mù sương. Tạo hóa lạ thật. Và ngay dưới chân đập Danhim kia là một phố thị trộn vào làng vườn. Nghĩa là phố nằm dưới tấm áo trời mù mờ đó.

         Tôi cứ ngồi nhìn khói sương như thế này, như bao năm qua. Dran nghĩa khí, nó không biết có kẻ giang hồ bụi đời đây hay nghiên mình dưới sự mơ hồ đó.

         Tôi cần Dran thanh tẩy, tôi cần Dran dạy dỗ cho rằng trần gian này thơ mộng vẫn chưa kết thúc, cuộc đời luôn đáng sống. Tôi đang tâm thế “Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”.

 

     Rừng núi Dran (Photo: Nguyễn Hàng Tình)

 

          Mười bảy tuổi Dran chào đón tôi bằng đường ống dẫn nước nhuộm vàng bằng ánh sáng điện trong đêm khuya của đường ống dẫn nước dài thê lê năm kilômét nằm ngửa trên sườn núi K’rông Pa (Sông Pha_tiếng phổ thông) của công trình thủy điện Đanhim, với đỉnh núi là thị trấn Dran, khi tôi từ hướng Ninh Thuận nóng cháy lên cao nguyên Langbian lạnh. Ói mửa mặt xanh, kiệt sức, nằm bệt trên chuyến xe tốc hành xa lạ, mà tôi vẫn gắng gượng dậy để thưởng thức cảnh sắc đó. Rồi tôi sống với những mùa Tết đứng chơi vơi trên đỉnh đèo Krông Pa để nhìn xuống Ninh Thuận thân thương. Đến lượt những mùa mưa bão gầm thét, từ Đà Lạt chạy về đây trong đêm khuya để giáp mặt với bão, chứng kiến phong ba cuồng nộ từ biển Đông dội vào núi, tường thuật về thiên tai; nghe thấy cả thị trấn câm nín, chịu trận, nhà bay lả tả còn vườn hồng thì tơi bời xác xanh. Tôi vượt đèo Krông Pa lên với Dran và Đà Lạt, là để kiếm chút tri thức, mưu sinh, chứ không phải vì gió mây sương khói, mộng huyền như ai thi nhân lạc lối đâu đó. Nhưng từ món quà thị giác đầu tiên cho đến thành chốn an trú với những  ngày yên lành có bao “Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”, tôi không hiểu được là duyên hay nợ với Dran.

 

             Nó ra đời trước Đà Lạt, là “trạm”, là điểm đặt nền móng mở đường khám phá, ra đời, và xây dựng nên Đà Lạt, từ tháng năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người Việt sống cùng người Churu. Tất nhiên người Churu ở cuối các con phố, chỗ có rừng. Giờ nó vẫn dăm ba tuyến phố như buổi nào. Nhà cửa vẫn khiêm tốn, không có công trình cao tầng nào, nét xưa vẫn tỏa ra. Những tên tiếng Pháp đó đây vẫn còn gọi, những Osari, Lachaisai, Aviat, Bellevue, Labuye…. Và đôi ba con đường từ hồi Pháp đó vẫn còn dùng, mặt đường trơ ra sỏi đá khi đã sạch nhựa đường từ lâu. “Phố” ở Dran rất thơ dại, nhỏ bé và trong sáng. Ba con phố chính thôi, để từ đó tẻ ra chừng chục hẻm, luồn, mà cuối những hẻm luồn là gặp lơghim, cây hồng_vườn. Còn cư dân cứ hiền hậu, mộc mạc, đơn giản, sâu sắc, vẫn chất dân nông lồng vào chút chút “phố thị”. Chính xác hơn, họ không rõ nông dân mà cũng không rõ thị dân. Xe cộ để an nhiên trước nhà không quá lo về an ninh, trộm cướp như nhiều nơi khác. Ở đây bán buôn không có nói thách, nói sao bán vậy. Ở đây ai cũng có vườn, cho dù buôn bán, trồng Lơghim, hay hồng, dứa.

                                       

                     

                                                            *

 

                        

         Thời gian ở đây như đứng lại. Nó vẫn cổ xưa như lịch sử của nó. Tôi không thể lý giải vì sao nó có thể trong sáng, an lành, chịu đựng, bình tâm gần như tuyệt đối giữa thời buổi nhốn nháo và hiện đại này. Nó cứ như là trường hợp ngoại lệ của lịch sử. Sự tồn tại của nó có gì đó cứ là ngoại cuộc với những xáo động của lịch sử, thời gian,“là chính mình”, vững chãi, hoặc là bên lề, bị “bỏ rơi”, mắc kẹt. Cái vị trí đỉnh đèo, nơi để “bước qua”, nhưng là “chân” của cao nguyên Langbian, nên nó rất chơi vơi, không vai trò_“địa kinh tế”, tự nhiên khiến nó thành thế.

             Nó là nơi đón gió biển, và bão tố từ  biển lên cao nguyên. Nghĩa là nó cũng là nơi đón mây duyên hải. Đứng dưới đồng bằng Ninh Thuận bao la kia  nhìn ngược lên bao giờ cũng thấy mây phủ đỉnh đèo Krông Pa. Dran đúng nghĩa thị trấn nằm trong mây. Bè bạn bảo tôi là kẻ “sống” trên mây, thì xem ra họ không quá đáng. Nhưng chính xác nhất thì tôi chỉ là kẻ tị nạn trong mây. Chính cư dân Dran mới đích thực vẹn toàn với sự trong mây ấy. Sự êm ái, mát lành của Dran có gì đó phiêu lãng, mang hồn của biển cùng lúc hồn của núi, của nước mạch khe sâu, thảo mộc, rừng. Cái duyên hải kia đã bị bản địa hóa, “Dran hóa”. Như thứ tiếng Việt của họ, người Dran, là một thứ giọng riêng, không phải giọng Đà Lạt, Phan Rang, Bảo Lộc, Ninh Sơn, hay Tùng Nghĩa. Giọng của họ hơi nghiên về hướng Ninh Thuận, chừng sáu phần rưỡi Ninh Thuận và ba phần rưỡi Lâm Đồng. Dưới chân đèo Krông Pa, là thị trấn Sông Pha của Ninh Thuận, trên chút là Trạm Hành của Đà Lạt, và Thạnh Mỹ của Đơn Dương, nhưng mọi thứ tinh thần ở Dran không hề thuộc những nơi đó. Lên khỏi đèo Krông Pa, đi chưa hết 10 phút chiều dài, gặp tiếp con đèo khác, đèo Dran_ để lên Đà Lạt. Dran tồn tại ở không gian địa lý như vậy đó. Dran ạ, mi khác biệt, và là chốn xứ  dành riêng cho những người sống bằng tâm hồn, hay bị Thượng đế “lưu đày” vậy.

                  

 

                                                        Mộng

 

 

 

            Nợ nần quá nhiều với nó nên lâu ngày tự dưng tôi hòa vào nó. Còn người chưa hòa vào nó như thầy giáo dạy toán ở thị trấn Tùng Nghĩa Tôn Thất Lê Nguyên cứ tâm tình một ngày nào phải bỏ dạy, đến đó để ngủ một đêm, dù nó cách Tùng Nghĩa ông ở độ hai chục kilômét theo đường chim bay, cùng thuộc Lâm Đồng. Lê Vĩnh Tài, thi sĩ xứ Buôn Ma Thuột, cũng bày tỏ vậy vào một lần tôi đưa ông ngang qua Dran để xuống Phan Rang. Trong lòng người thầy giáo và thi sĩ đương thời kia, “Dran nó nhỏ mà lạ quá!”.

           Đến giờ mà bạn bè tôi còn thế, huống gì ông Trịnh Cung, Đinh Cường,  Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Thụy Mỹ Hạnh, Nguyễn Dương Quang, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Đạt, Lữ Kiều,… Hình như sự lạc loài của Dran lay động được những kẻ đa mang, nhạy cảm, và nông nổi. Nghĩa là khi  tôi được tham dự vào tiệc gió mây của Dran, thì những kẻ lỡ thời, lạc vận, thiếu hiện sinh, hay bóng bẩy hơn gọi là tao nhân mặc khách, đã hòa vào nó từ lâu lắm rồi. Họ là những kẻ phát hiện ra một Dran xứ cầm thi, Dran miền liêu trai. Hay nói đúng hơn họ bị gió mây Dran lưu đày trước kẻ hậu sanh này.

 

 

                                                          *

 

           

             Ông Đinh Cường, cả một thời trẻ trai, giai đoạn quan trọng nhất đời ông, không ai ở Dran biết ông là họa sĩ. Ông Trịnh Cung, họa sĩ, là người giới thiệu cho ông Đinh Cường về cái xứ Đơn Dương Dran quái lạ này. Ông Trịnh Cung từ Nha Trang lên Đà Lạt vẽ, còn ông Đinh Cường bám vào Dran_đi từ Huế. Ở Dran, Đinh Cường tự biết mình. Là kẻ gầy nhom ngoài hai mươi tuổi, ông thường đi trong lòng Dran, tay cầm một can dầu về rửa cọ, và tay kia là nhánh chuối Laba, mớ rau, mớ cá, bịch muối. Cứ thế, thi thoảng kẻ này có những chuyến xe ngựa ra “phố”, ra để  lấy họa liệu gửi từ Sài Gòn lên. Ông lạc đến đây, rồi sống trong một căn chòi gỗ ở  thôn trang Lạc Lâm hút sâu bên trong và trao đổi chất với Dran bằng những lúc ra phố, mà phố kia chính là những dãy “Thị” quê mùa thơ dại đến ngày hôm nay.                          

             Đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước ấy, Dran đã ở tuyệt đỉnh của cô liêu. Ngay tiếng xe ngựa nơi đây cũng ám ảnh văn nhân. Người họa sĩ trẻ cô đơn đã vẽ trong không gian mơ hồ của Dran. Ông vẽ thủng sương mù, vẽ lạc trong mây, vẽ sâu trong cô tịch, vẽ nát nỗi buồn tủi, vẽ rêu phong cái hiện tại, vẽ mòn mỏi mơ mộng, vẽ tanh bành cái nghèo, vẽ tưng bừng cái cô đơn_vẽ như leo núi để tự cứu rỗi cái tuổi trẻ khủng hoảng của mình giữa buổi người ly loạn. Càng vẽ càng chìm sâu trong cái đẹp, ký ức, khói mây, mảnh đất, người đời, bạn hữu, cỏ cây. Và vẽ thế đến giờ, sau năm mươi năm, vẽ vọng về từ nước Mỹ. Đinh Cường bảo tôi thời tươi đẹp nhất của ông là thời lạc loài ở Dran, không tí tiếng tăm. Rồi ông Trịnh Công Sơn cũng thế. Ông nhạc sĩ tài danh của quốc gia này đã viết nhiều ca khúc tuyệt diệu mà ở đó có bóng dáng của khói sương, núi đồi phiêu lãng Dran, rộng hơn chính cái hồn núi rừng Dran đã quyện vào với hồn B’lao trog nhiều ca khúc của ông. Thứ hơi thở “Về trên phố cao nguyên ngồi/ Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi” đó mà. Cũng chính Dran, ông Trịnh Công Sơn đã viết những lá thư yêu đương _mà nay người ta đã công bố và xuất bản thành sách, viết cho mỹ nữ Ngô Vũ Dao Ánh_người con gái đi nhiều vào nhạc ông. Cái bưu cục nhỏ bé kia cũng lặng lẽ, chỉ có điều nó vẫn đưa tới nơi  những bức thư tình tuyệt cảm của người nghệ sĩ lớn ra bên ngoài cuộc đời kia, thoát khỏi vòng hư ảo của chốn xứ. Trong một lá thư cho nàng từ Dran, Trịnh Công Sơn viết: “ Anh còn quà gì quí báu để cho Ánh ngoài những bụi bặm, mùi cỏ hoang, hoa dại suốt những miền anh đã đi qua…”.. Thậm chí tâm hồn trẻ trai kia bay lên mơ ước giản đơn đẹp đến độ: “Có lẽ anh sẽ kiếm một số tiền kha khá để lên đây hùn làm rẫy, và bỏ những ngày công chức ở đó(tức B’lao) đi Anh sẽ sống cho mòn đời anh đi…. Anh sẽ sống tự do nằm rũ và…” . Rồi lần khác: “… Bây giờ rừng núi đã dậy cùng với anh… Có lẽ rồi anh cũng kiếm cách về đây, làm đồn điền… Làm một căn nhà sàn với bàn ghế bằng những gốc thông ghép lại, sống rất gần với gỗ với cây với núi rừng với đất…”. Dran là nơi chứng minh tình bạn tuyệt đẹp, trong trẻo, nghĩa tình của danh họa Đinh Cường và người nhạc sĩ tài ba họ Trịnh này. Những lúc nhớ bạn, Công Sơn đón xe đò để từ B’lao_nơi ông đang dạy tiểu học_lên thăm bạn trên căn chòi gỗ hoang vu. Có hôm khi người nhạc sĩ chui vào căn nhà gỗ thì họa sĩ kia đã theo ngựa xuống “phố”. Cuối năm 2013, ngài Đinh Cường từ Mỹ về VN, trở lại thăm Dran, và lặng người khi đứng trước nó.

            Nhưng ở Dran này, thượng thừa hơn là ông Nguyễn Đức Sơn. Ông ấy thăng hoa thơ phú, lấy luôn bút danh “Sao Trên Rừng” khi sống ở đây. Rồi viết: Buồn sao như là héo hon/ Đồi nghe ú ở hãy còn sơ khai/ Nghe đời đau quặn trong thai/ Tiếng ru chan chứa đêm dài còn mang. Và đáng ghét đến…dễ thương làm sao, khi trong dân gian nơi này còn lưu truyền thực ảo tâm hồn nông nổi thi nhân, mà những năm sống ở đây, lúc lưu trú nhờ nhà người họ hàng bên Má; nhưng bỗng một hôm si tình cô em gái, rồi yêu nàng. Mối tình đã làm bà dì và ông dượng tá hỏa, nổi giận, la mắng. Buồn đời, ông nhà thơ bỏ đi hoang, đi không ngoái đầu, biền biệt từ đó. Không theo đám đông mà ca thổi ông nhà thơ hỗn độn giữa “phàm” và “thi” này lên mây, bất chấp sự thật của ông ở trần gian, tôi chỉ nghĩ sự đa mang, bay bổng của ông thời trẻ là khoảnh khắc đẹp nông nổi trong kiếp nạn tha nhân cõi phàm trần, trước hết với xứ cô tịch bên lề giữa buổi trời đất đuề huề buồn đau như thế này ở Dran.

           Hẳn nhiều người thầm lặng, thường nhân khác nữa cũng dính khói mây Dran, nhưng chỉ vì họ tập trung sống, không ồn ào danh phận nên ta không biết họ.

                       

              

                                                          Đời

           

              

          Toàn bộ phố thị Dran nằm gọn dưới đập thủy điện Da Nhim, ngay cạnh chân đập. Khi khói sương trùm lên phần “thị” của Dran là nó trùm lên hồ nước mênh mông với bên trên là rừng thông che chở đó. Cả thế giới này không có thị trấn nào tồn tại kỳ lạ như thế chứ đừng nói trên lãnh thổ Việt Nam. Ngay sát chân đập, người dân với nhà cửa, vườn tược sinh sống tự nhiên. Họ nhìn lên đập như nhìn một “tác phẩm” nghệ thuật chứ không như một “quả bom nước”. Thủy điện Da Nhim là công trình thủy điện mà Nhật Bản xây dựng như một nghĩa cử hối lỗi, gọi là “bồi thường chiến tranh” cho giai đoạn Nhật Bản chiếm cứ ngắn Việt Nam trước đó. Nó cũng là thủy điện lớn đầu tiên trên lãnh thổ nước tôi. Người Dran còn nhớ những năm cuối 50 đầu 60 thế kỷ trước đó, Dran trở thành công trường lặng lẽ cho một công trình chưa từng thấy, với những cư xá, chợ búa, rạp cinema cho công nhân, chuyên gia thủy điện người Nhật. Hồ thủy điện Đanhim được hình thành từ việc ngăn dòng sông mang tên nước mắt Da Nhim_tiếng Churu bản địa_chảy từ đỉnh Hòn Giao nhìn xuống Khánh Hòa xa tít tụ về cùng dòng sông Labá chảy từ đỉnh Langbian của Đà Lạt ở chỗ nó gặp nhau là núi rừng trên đỉnh đèo Krông Pa này.

             Chính quyền trước di dời dân Dran đi, ở vùng tái định cư trong Ka Đô cách đấy mười tám cây số theo đường chim bay_khi làm thủy điện, để bá tánh được an toàn tuyệt đối. Thế mà nhiều người trong họ vẫn quay về sống ở Dran; số khác sống cả hai nơi, vừa Ka Đô vừa Dran. Họ yêu tha thiết cái ốc đảo trong mây của họ. Thập niên chín mươi, có một kỳ mưa to gió bão, nước về nhiều, người ta xả đập, cả phố thị Dran chìm trong nước. Cư dân vẫn không ngán sợ. Cứ sống. Vì thế mới hiểu sao phố, làng, vườn, bệnh viện, trường học, nhà Chùa, nhà thờ Công giáo, Tin lành, Thánh thất Cao đài, người… vẫn nay vẫn cứ hiện hữu ở Dran. Chính quyền ngày nay cũng từng cưỡng chế họ di dời. Họ cứ ở. Riết rồi thì cũng tự nhiên từ lúc nào chẳng hay, chính quyền chiều theo lòng họ, mà cấp luôn sổ đất, sổ nhà cho hết thảy nhà, vườn sống dưới chân đập kia.

                       

                               

                                                     Đập thủy điện Dà Nhim và thị trấn bé bỏng lạ kỳ (Photo: Nguyễn Hàng Tình)

            

        Có lần, bỏ khói mây, tôi đi gặp người. Không sợ đập nước sao, bà con ơi ?! “Có chỗ nào đáng sống bằng chỗ này đâu mà phải đi. Đi rồi cũng quay vế thôi à !”, cô giáo về hưu Nguyễn Thị Bay bảo thế. Gặp ông Trần Văn Nên, một người từng tham gia xây đập Da Nhim từ ngày đầu cho đến khi hoàn thành, tôi hỏi tương tự ?. “Làm sao vỡ đập được mà lo. Người Nhật mà đã làm là không có cẩu thả. Đến đất xây đập người ta còn nghiên cứu, chọn thứ đất đảm bảo kết cấu nhất để chở về đây đổ xuống”. Điều ông muốn kể là đến đất đổ đắp đập, người ta nhặt từng cây cỏ lẫn trong đất; cào lớp đất mặt đổ đi trước khi lấy những thớ đất sét bên dưới, để đưa về. Ông Nên bày tỏ là người Nhật thi công kỹ đến mức ông thấy khó chịu. Chính ông cũng từng chấp hành việc di dời vào đầu thập niên sáu mươi ấy, rồi 1975 lại quay về ở ngay vị trí cũ, đất và nhà ngay dưới chân đập này. Như bao người dân Dran khác, không ai giàu có của cải, gia đình ông sống giản dị, với một chút vườn lơghim, ít cây hồng ăn trái, thêm tí bán buôn hoặc làm nghề tự do các loại mà sống. Nhưng ông bảo, đời thế cũng được. Trời ạ, sống thì phải bằng năm châu bốn bể, phú quí, cường thịnh, và lên đỉnh của văn minh vật chất chứ.

 

         Ai đó bảo, Dran là nơi Núi đụng trời họ đụng nỗi đìu hiu. Lại có người sinh ra ở đây, nhắc đến nó, gọi tên ngay: Hồn hiu hắt bên sông buồn vắng nước! Ông Nên giờ làm vườn để sống, nhìn đời khác đám văn nghệ phù phiếm, vậy mà về nơi mình sống, nói: Sơn thủy bao quanh làng mạc, phố thị. Suối “đi” trên đầu, và núi thì “đi” bên trên nữa. Còn rừng thông thì nằm phơi mình trên núi đó.  

          Người Dran họ có kiểu hạnh phúc của họ, sống nhẹ tênh, như thơ. Tôi không biết sự thơ mộng của nơi chốn, khói mây, cũng góp phần hình thành nên phẩm chất thanh lành của con người ta không.

         Dran, mi thật mà như  ảo, gần mà xa ngát. Nỗi buồn sang vô tận !/.

 

Nguyễn Hàng Tình
Số lần đọc: 750
Ngày đăng: 20.02.2024
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Về quê ăn tết với cái bụng đói - Phạm Nga
Ghi chép qua một chuyến đi: “Ăn” Dao, “chơi” Mường - Phan Anh
Hành trình “con chữ” Nguyễn Tiến Nên - Hoàng Xuân
Tôi đi buôn và nhọc nhằn mưu sinh (Phần 2: tiếp theo và hết) - Hoàng Thị Bích Hà
Tôi đi buôn (Phần 1) - Hoàng Thị Bích Hà
Tranh hoa giấy – sự sáng tạo không ngừng của họa sĩ – nghệ nhân Thân Văn Huy - Trang Thùy
Chuyện xem phim bãi - Nguyễn Quốc Lãnh
Trải nghiệm xe khách thời nay – chạnh nhớ xe khách thời xưa - Hoàng Thị Bích Hà
Chuyện cậu nhóc đi “giang hồ vặt” gần nhà rồi xa hơn nữa - Phạm Nga
Năm học thứ hai - Nguyễn Quốc Lãnh
Cùng một tác giả