Nhà thơ Xuyên Trà có câu thơ thật ý vị, vì qua đó tự giới thiệu tuổi tác của mình:
Ta, con ngựa không hay
Sao mỗi ngày mỗi chướng?
Em hiền thục, ta một đời ngang bướng
Tội tình em, từ buổi theo về
(Năm Ngọ, nhớ tuổi đời)
Xuyên Trà cũng có những câu lục bát đọc một lần là nhớ, thuộc vì chạm vào được chỗ sâu kín nhất của tâm hồn con người
Cám ơn, từng tiếng mẹ ru
Cho con thức, giữa mịt mù trăm năm
Dẫu em tát cạn tình đầy
Vẫn nguyên:
một bóng
trăng gầy
long lanh…
Anh ngồi tựa cửa ba sinh
Còn em, như khách vô tình vãng lai…
Thôi rồi!
tôi chẳng là tôi
Cũng như em
đã lần hồi mất, quên
Ba mươi năm bỗng tình cờ
Giữa lòng Phố Hội bây giờ trẻ măng…
Lòng em bờ cát tinh khôi
Ta sông mấy nhánh tình bồi chỗ mô
Đối ngẫu, song đề, cặp bài trùng như từ một nguyên lý sinh đôi bẩm sinh. Đọc thơ Xuyên Trà không nắm được điều đó thì không vào cõi thơ, vũ trụ thơ của ông được (dĩ nhiên là chủ quan).
Mỗi nghệ sĩ đều có một gương mặt tinh thần, ở thơ Xuyên Trà gương mặt ấy hiện ra kiểu nhất quán nghĩa là một bất khả phân ly giữa những cực đối nhau.
Ánh trăng vỡ trên mặt ao xưa
Em tìm chi tháng ngày thơ ấu
Con chim lạ hót trong bờ giậu
Thuở yêu người ngọt giấc liêu trai
Chì cần đọc mới 4 câu, ta đã thấy ở đây sự đồng hiện của cả một thế giới mà trong đó không phải, không chỉ mà là cả cùng lúc quá khứ-hiện tại, thực-mơ, ngoài-trong, ngọt-đắng, tan vỡ-liền lành...và cái chính là người thơ đứng ở bờ nào trước hiện thực giáp ranh - hư ảo đó?
- Ở cả hai.
Khi nào câu thơ đạt đến cái nghịch lý nghệ thuật mê hoặc đó thì thơ cũng đạt được sức cuốn hút lạ kỳ:
Ta thân củi ướt mềm tro cũng lạnh
Không biết tình còn cháy được bao nhiêu
......
Tất nhiên xác định tính song đề - đối ngẫu là xét tính đặc thù, chỉ dấu cho cảm thụ. Phải thấy được cái hình thức có tính nội dung, hình thức tham gia tổ chức nội dung làm nên phong cách thơ.
Đây là chỗ Xuyên Trà vừa gần vừa khác với Tường Linh ở phong cách.
Rất cần,
Những điều không cần thiết
Rất cần thiết, những điều không cần thiết
Ta loài chim, vẫn chọn một phương trời
Cất tiếng hót không hồ nghi bất trắc
Xoải cánh chiều trong gió lộng ngàn khơi
Rất cần thiết, những điều không cần thiết
Đất nơi nào làm tên gọi quê hương
Khi ta chết đầu sẽ quay về núi
Khóc than chi thêm một khúc đoạn trường
Rất cần thiết, những điều không cần thiết
Bởi tình yêu như tia chớp nhiệm mầu
Ta cất giữ những cuồng si trọn kiếp
Trong ngọt ngào có một nửa thương đau
Rất cần thiết, những điều không cần thiết
Vẫn ngàn năm sóng nước vỗ chân cầu
Em sẽ hiểu trái tim điều bí ẩn
Đừng hỏi tình ngọn lửa cháy từ đâu …
Hạt mê
Chân đi lòng cũng ngại ngần
Mai sau cách biệt không gần nhà em
Ăn quen có lúc lại thèm
Mùi hương thạch nhũ những đêm hẹn hò
Tiếc thầm những cái trời cho
Nhớ ai như nhớ cọng ngò vườn quê
Thơm lây một lối đi về
Từ trong lòng đất hạt mê nảy mầm…
Tôi có được may mắn đọc thơ Xuyên Trà lúc thơ anh ở lứa tuổi đôi mươi đến lúc thơ ông ở độ lục tuần, nhất là đọc những bài thơ xuất bản gần đây trong tập THÊM MỘT ĐÓA HỒ NGHI
Tôi nhận ra hồn thơ ấy dần chín, không phải trái sầu từ mầm đắng, hay vị thơm quả cấm mà là cái vị ngoại vị, sắc vô sắc của biện chứng thi thiền. Vị ấy, sắc ấy càng đậm ở bài thơ “Rượu nói giùm ta”:
Rượu nói giùm ta
Rượu đã trắng đâu cần chi cốc bạc
Chén hay ly thù tạc cũng quen rồi
Vá áo phong trần treo tình đỉnh núi
Đợi gió em về gởi cánh mây trôi
Đêm thức trắng ai khóc thầm chuyện kể
Mùa ly tan dâu bể bốn phương trời
Ta quá chén, ngửa mặt cười kiêu bạc
Chút danh hờ trôi tấp bến ngàn khơi
Tóc đã trắng bận lòng chi hồ thỉ
Chén rượu mời nhân nghĩa vỗ về nhau
Cõi nhân sinh chưa một lần luân lạc
Sao biết đời thương cảm những niềm đau
Mây cũng trắng như ngày xưa cố quận
Gió muôn chiều hôm sớm biết về đâu
Sao cứ mãi một đời ta lận đận
Quảy trên vai chung thủy mấy lượng sầu
Tay vẫn trắng không còn gì để mất
Tháng tận năm cùng chẳng ở quê cha
Em đâu biết ta cầm lòng không đậu
Nước mắt trào, chắc rượu nói giùm ta…"
(Rượu Nói Giùm Ta - Xuyên Trà)
Nguyễn Du có hai câu về rượu đọc thấm thía:
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi
(Sống mà rượu chẳng cạn hồ
Thác thời rượu viếng rưới mồ ai chan)
Thấm thía vì lẽ sống chết, tửu ý, tửu đức trong giao tình của người đời.
Bài thơ Rượu Nói Giùm Ta dài 5 khổ tuyền một sắc trắng trải ra lần lượt chuỗi tục lụy như từng uẩn trong ngũ uẩn để rồi đọng lại một sắc hư không.
Hãy đọc bài thơ này ít ra 5 lần. Đọc để nhận ra cái không nhầm lẫn, không tránh đi đâu được (inevitable), để rồi từ ngạc nhiên đi đến lạ lẫm.
Thử đọc bài thơ theo mạch thứ nhất (1), mạch nổi
Hãy đọc như một nhà phê bình dày dạn E. Hirsch khuyến khích: đọc lúc nửa đêm; hãy vặn nhỏ ngọn đèn khi không có ai hoặc ai đó bên cạnh đã ngủ say. Hãy để hết tâm trí lắng nghe, vì chú ý lắng nghe là lời cầu nguyện tự nhiên của linh hồn.
Ta sẽ nhập vào tâm thức của người uống rượu - không phải vì rượu - để “quán tửu” như Phật Quán Thế Âm.
Toàn bộ 5 khổ thơ toát lên một sắc trắng lạ lùng của vô sắc, níu kéo lòng ta qua từng câu chữ. Bởi "không màu" nên "cũng không phai".
Màu trắng là màu của năng lượng, "sức nóng trắng", màu của sáng tạo, lãng mạn, phôi pha như sắc rượu, chất rượu chưng cất từ đất trời.
Màu của thao thức “đêm trắng”; màu của quê nhà “mây trắng”, của sự nghiêp “tay trắng”; của sinh lão “tóc trắng”.
Trắng là xóa, xóa đi tất cả, ngỡ như chẳng còn lại chút gì.
Nâng ly rượu trên tay như chạm vào màu lạnh lẽo trắng bạc, chạm vào tóc trắng hết rồi hồ thỉ, là mây trắng bay đi trời cố quận, là đêm trắng hết câu chuyện đời và cuối cùng hai bàn tay trắng là chút danh hờ.
Năm khổ thơ như một tiếng thở dài đầy tâm sự, có vẻ muốn phủ nhận tất cả.
Nhưng bài thơ không chỉ có thế.
Màu trắng là ký chú có tính nhân loại, từ lâu đời đã trở thành niềm trắc ẩn nhân thế. Nữ thi sĩ Hoa Kỳ thế kỷ XIX Emily Dickinson vận suốt đời chiếc váy trắng, vừa là phục trang vừa như màu điểm trang chiếc thẻ bài riêng mình để đi vào ngôi nhà thi ca dân tộc như một niềm kinh hãi, ám ảnh.
Thi ca Việt ta còn đó một Hàn Mặc Tử với dòng sông trắng nắng chang chang, với áo em trắng quá nhìn không ra. Còn có thể kể không hết với áo trắng của Huy Cận, Nguyên Sa, Kiên Giang, Nguyễn Bính....Hơn thế, văn đàn còn làm dậy lên những cuộc tranh luận triền miên về Hai sắc hoa tigôn
Cho nên cười đáp màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy
(TTKH)
Màu trắng trong thơ, trong những bài thơ đích thực tồn tại như hai cực biên của tướng và tính trong đạo, vừa vô thường-hữu ngã vừa vô thường-vô ngã khuấy động tâm tư người đọc khôn nguôi, cho nên tửu lượng có chừng mà tửu ý chẳng ngừng.
Màu trắng xóa tràng giang làm dậy lên:
Mạch thứ hai (2) của bài thơ, mạch ngầm. Đây mới là màu trắng của tuệ giác. Đây mới là khuôn gương tinh thần đích thực của bài thơ để ta đọc nó - nói như Whitman - giữa khuya, lúc mà dường như nghệ thuật đã cạn, kinh sách đã buông, bài học đã thành, ngày dương đã xóa, bài thơ hoàn nguyên một sắc trắng chân không, là lúc:
Em biết đó ta cầm lòng không đậu
là lúc:
Nước mắt trào rượu nói giùm ta
Ta cầm lòng không đậu nhưng thuyền thơ đã kịp cập bến nhân gian, và kìa: còn nguyên đó một cõi thế để đi về. Chỉ là tâm tưởng chăng?
Nhưng tâm-vật nhất thể kia mà. Mạch ngầm là chân nguyên. Vì còn nguyên đó quê cha với mây "cũng trắng" trời cố quận; còn đó chiếc áo phong trần dẫu "vá ", còn thù tạc bởi đã "quen", còn đó hồ thỉ để "bận lòng"; còn đó nhân nghĩa để "vỗ về " nhau; còn đó nỗi luân lạc thành “thương cảm”, còn đó “mấy lượng sầu” để “quảy trên vai”; còn đó "nước mắt trào" trong tiếng cười “kiêu bạc”.
Tất cả còn vì còn “câu chuyện kể" chưa dứt về một kiếp - làm người, làm người đến tận cùng.
Rốt lại nhận thức có được như một bậc chân tu: người ta không thể mất cái không có: Sắc tức thị Không. Đó cũng là cái nhìn rốt ráo của Phật gia: ta không cảm thấy có - “tay vẫn trắng”- nên ngộ, vô ưu.
Rượu không chỉ là rượu nên trở thành “tri kỷ”, giúp ta tiến tu.
Bài thơ có giọng lạ, chất lạ, phảng phất chút trầm uất thân thế, uống rượu tiêu sầu của Cao Chu Thần, nhưng mạch chính vẫn là tuy tục lụy mà thoát tục, tuy gợn nỗi đau thân thế, thời thế nhưng vẫn đạt đến độ trong trẻo mạch ngầm-nước-giếng-không-sinh-sóng của tấm lòng Chu An:
Ngã đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Mạch nổi - mạch ngầm của bài thơ chảy xoắn xuýt, tuy hai mà một. Nghịch lý nghệ thuật là nghịch lý mê hoặc: Không tức thị Sắc.
Bài thơ bắt đầu bằng sắc trắng của rượu, kết thúc bằng sắc trong nước mắt. Trắng, và Trong, Xốn Xang và Tĩnh Lặng: Nước mắt cứu rỗi, Giọt Lệ-Từ Bi
Viết đến đây, người yêu thơ ông chợt nhớ mấy câu ông viết cũng trong tập Thêm Một Đóa Hồ Nghi.
Ra ngồi giữa nắng chang chang
Thân Tâm định huệ hai hàng sủi tăm
Đã mờ con mắt đăm đăm
Chùa xa vẳng khúc tịnh rằm thọ trai.
Nghệ Thuật cũng chính là Đạo khi con người tự tìm ra lối giải thoát cho mình.
Tháng 9.2016
Bổ sung tháng 4.2020