Đêm, thao thức nghe qua vườn gió thổi. Vườn, úa vàng cuối Thu, bơ thờ lá , khẳng khiu cành trơ trọi. Ừ nhỉ ! giời đã chuyển mùa. Ừ nhỉ ! quá nửa đời người , tuổi ngoài bảy mươi, đã quá “thất tuần” rồi. Thời gian bóng câu tăm cá, bồi hồi nhớ về một thời “Lá đỏ” vời xa… Tôi đã man mác buồn như vậy, khi đọc bài thơ này của Hoàng Quý:
Đêm nghe gió qua vườn
Có thể rồi ta sẽ về thăm lại
Cây gạo quen
Và khúc sông gầy
Và có thể trên lối chìm hoa cỏ
Ta lại tìm bông rụng dưới thân gai
Đêm nghe gió qua vườn
Tiếng cây thở nói rằng thu chắc đã
Thổi tê hơi cho hạc trắng bay về
Đêm nhoi nhói
Nghe đời thay máu
Có bao người nghe gió trong khuya?
Ở phía trước
Con đường chướng gió
Ta đã đi không chút e dè
Những – hy- vọng – rưng – rưng – xác – lá
Chết – tưng – bừng – như – máu – hôm – qua
Ở phía trước
Ở phía trước nữa
Ai như ta?
Ai đã là ta?
Chao ôi! Đời nến sáp
Ta đấy à, hay chưa từng ta!
Thì mùa thu dường thong thả mở lòng
Đêm hé cửa nghe qua vườn gió thổi
Ta hứa về thăm lại
Cây gạo quen
Và khúc sông gầy
Và, có thể lối chìm hoa cỏ ấy
Nhắc những lời hoa rụng một ban mai…
“Đêm nghe gió qua vườn” là một trong nhiều những thi phẩm hay vào bậc nhất của nhà thơ Hoàng Quý đóng góp cho nền văn học nước nhà trong thập niên đầu của thế kỷ 21. Các thế hệ nhà thơ trước ông và cả thế hệ của ông nữa giờ đã lên “cụ”, lên “lão”. Nhiều người đã về với cát bụi. Họ đã rút hết tinh lực của mình cho hai cuộc chiến tranh. Kể từ sau 1975, thi đàn hình như thưa vắng những bài thơ hay, những câu thơ mà dưới chữ còn vô vàn chữ. Ở thế hệ U 60, ông đã trải qua cùng thăng trầm của đất nước thời trận mạc với máu và nước mắt của đồng bào mình – một thời “Lá đỏ”. “Lá đỏ” là tên một bài hát của nhạc sỹ Hoàng Hiệp (phổ thơ Nguyễn Đình Thi) sáng tác năm 1975. Trước đó, vào năm 1951 nhạc sỹ Hoàng Việt cũng đã có bài hát “ Lá xanh”. Các ca khúc “lá” của hai ông “Hoàng” thuộc dòng nhạc tụng ca , minh họa này đã có mặt rất kịp thời trong dàn đại hợp xướng được “tấu” lên suốt thời binh lửa kéo dài tới mấy chục năm. Tôi nhớ không nhầm thì vào cuối 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết “ Lời ai điếu cho một thời văn nghệ tụng ca, minh họa”. Những tưởng cái sự “ai điếu” đó đã như một tiếng hú gọi giữa rừng thẳm, đêm đen : “ tàn canh rồi, hãy về thôi hỡi các chàng thổi kèn…”, nhưng xem ra tiếng hú ấy vẫn còn lẻ loi, vô vọng lắm. Có đáng sợ không, khi đã ngót 30 năm sau lời ai điếu gan ruột của Nguyễn Minh Châu rồi, mà vẫn còn đó thứ môn phái “phê bình chỉ điểm”, “phê bình kiểu mật thám”!?.
Có thể nói, thế hệ U 60 là thế hệ “giao thời” của nhận thức về được, mất, đúng, sai, trí tuệ và ấu trĩ. Cũng là suy nghĩ về nhân tình, thế thái, nhưng giọng thơ Hoàng Quý mới, khác và lạ, không đao to búa lớn, không “múa gậy trong bị”, không đại ngôn. Ngôn từ trong thơ ông bình dị mà triết lý sâu sắc, rằng : “ Ôi ! Nhân dân kiêu dũng của tôi – Người là nước mà luôn thiếu khát – Người như lúa khắp ruộng nương nước Việt – Những hạt lúa dại, vụng – Ấm và xót – Ngoi trên nắng – Dạt trên nước – Xác trắng trên tay chai – Xướp ráp tận ruột – Lấm láp và tinh tươm – Thơm tho sen súng – Giấc mê mẩn người – Thảng như ca dao – Xum xuê như cổ tích …”. Hoặc “ Khi nhân dân tôi đắp lũy Sông Cầu – Vua xuống lũy như dân – Khi nhân dân tôi họp Hội Diên Hồng – Vua ngồi giữa nhân dân – Những rừng cọc Bạch Đằng – Như thế đứng ngàn năm vát nhọn – Bao đạo binh hung hăng – Bao chiến thuyền dữ tợn – Tan chìm và tả tơi…”. Thơ Hoàng Quý còn có sự liên tưởng thật bất ngờ như “ Sẽ hạnh phúc tột vời có một lần hái lượm – Giữa bạt rừng rợp bóng Mẹ Tiên – Thỏa sức với Cha Rồng xuôi bể – Xăm kín mình rồi kéo mặt trời lên – sẽ run rẩy ướm gậy đồng nón sắt – Vùi cát Chử Tiên xem tắm Tiên Dung – Thư thái rước bánh tròn vuông trời đất – Theo Lang Liêu dâng tiến Vua Hùng…”(trong trường ca Đối thoại trắng). Hoặc “Như một cuộc trường chinh vĩ đại – Những ngấn bùn tụ hội ở Giao Châu – Những ngấn bùn thăm thẳm – Rất xưa và rất lâu – Những ngấn bùn bất khuất – Đắp bồi từ đớn đau – Những ngấn bùn kiêu hãnh – Chưa bao giờ cúi đầu”. Và đây nữa “ Xin bạn cứ ruổi rong thỏa thích – Suốt vòng cung đầy nắng nước non tôi – Cùng vỗ chiêng, cồng – Như vỗ những mặt trời nho nhỏ – Sẽ gặp đàn chim cổ tích bay ra – Bạn thử ướm bàn chân tõe ngón – Những bước bùn, bước mẹ, bước em tôi – Bạn sẽ hiểu vết bùn như máu đọng –Trên vai trần, trên tóc khét cha tôi” (trong trường ca Những ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc). Viết về Nhân Dân mình, Tổ quốc mình, trên thi đàn nước ta suốt hơn nửa thế kỷ qua, thật khó tìm ra những câu chữ có sức biểu cảm hay và giỏi đến như vậy.
Với bài “Đêm nghe gió qua vườn” cả “ý” và “tứ” đều rất chỉnh trong một tư duy thơ uyên thâm :
Có thể rồi ta sẽ về thăm lại
Cây gạo quen
Và khúc sông gầy
Và có thể trên lối chìm hoa cỏ
Ta lại tìm bông rụng dưới thân gai
Không phải “có thể” đâu. Trong thực tế và trong tâm tưởng hoài niệm đến da diết, đến đau đớn của mình, nhà thơ đã về với quê, về với những kỷ niệm quá vãng. Về, để thả hồn vào lối chìm hoa cỏ. Về, để “lại tìm bông rụng dưới thân gai…” thôi. Vâng ! bông rụng dưới thân gai hay chính là những thân phận, những kiếp lầm lũi, nổi trôi giữa cõi người dâu bể ? Về gặp lại những “bông rụng dưới thân gai” hay chăng, là về tìm tinh khôi trước lụi tàn, héo úa?
Đêm nhoi nhói
Nghe đời thay máu
Có bao người nghe gió trong khuya ?
“Đời thay máu” khiến người ta nghĩ đến sự tráo trở, lưu manh, phản chắc. Cái điều khốn nạn có thật ấy vô hình, không cầm nắm được, nhưng có thể cảm thấy, “nghe” thấy trong những đêm “nghe gió qua vườn” với biết bao chua chát, để rồi nhói buốt và… đau. Cái đau bởi sự tráo trở trắng trợn, phản trắc, lừa mị dai dẳng, tinh vi đó khiến người ta không chồm trổ, vật vã, nhưng nhoi nhói âm ỉ, gặm nhấm, bòn rút dần sinh lực. Hai từ “nhoi nhói” được tác giả đặt trong văn cảnh này thật đắc địa. Còn “Có bao người nghe gió trong khuya ?”, thì cả nghĩa bóng, nghĩa đen đều đúng, khi lòng trắc ẩn ngày càng hiếm hoi, khi sự vô cảm lại dần trở thành thói quen phổ biến. Phải chăng, đó là thứ bi kịch phổ cập, đáng sợ trong những tháng, năm này ? Và đây, ở đoạn thơ tiếp theo :
Ở phía trước
Con đường chướng gió
Ta đã đi không chút e dè
Những- hy- vọng – rưng – rưng – xác- lá
Chết – tưng – bừng – như – máu – hôm – qua
Lịch sử nhân loại là những thời, những triều đại nối tiếp nhau. Để đi về hướng văn minh, nhân loại đã phải vượt qua biết bao nhiêu chặng gian nan trên những con đường đầy máu, lửa và nước mắt. Nhà văn Sô-viết, Aleksey Nikolayevich Tolstoy (1883 – 1945)
đã dành 1/3 đời mình để viết “ Con đường đau khổ” tràn ngập hy vọng về một thiên đường cho nhân loại. Tiếc thay, ông đã không được thấy sự tiêu vong, sụp đổ tất yếu của thứ bánh vẽ giả dối lừa mị đó ngay trên tổ quốc của mình. Ai cũng biết, gió chướng chỉ thổi theo mùa. Nhưng “con đường chướng gió” mà nhân dân mình đã vật vã bộ hành ngót một thế kỷ qua không chỉ “ở phía trước” như Nhà thơ Hoàng Quý đã nhận diện đâu. Cái thứ “gió chướng” gớm ghiếc và quái đản ấy đã thổi phía trước mặt, phía sau lưng, thổi tứ phía mịt mùng, thổi rỗng cả đất nước này, nhân dân này, thổi đến thân tàn, ma dại những bậc hiền tài muốn dấn thân vì xứ sở. Trớ trêu thay ! cũng ngót một trăm năm rồi, trên “con đường chướng gió” khốn nạn và đầy máu và nước mắt ấy, mấy thế hệ đã vô tư, hồn nhiên “đi không chút e dè”, bởi những hy vọng thánh tín đến “rưng rưng xác lá” dẫu “chết tưng bừng…”cho sùng tín – một niềm tin ngây thơ vào điều không có thật. Nhận diện đó của Hoàng Quý rất chân xác, bởi từng có không ít những ca từ, những câu thơ tụng ca, minh họa, cổ vũ đầy mộng mơ, thi vị , kiểu như : “Đường ra trận mùa này đẹp lắm…, có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác … hái một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi”, rồi thì là “ Có những ngày vui sao cả nước lên đường … từng hồi trống dục…” vân vân và vân vân… Lẽ thường, người ta chỉ nói cái sự tưng bừng trong những hội vui tưng bừng, nhảy múa tưng bừng, hay rợp trời búa liềm tưng bừng một màu cờ đỏ máu v.v… thôi. Cho nên cái sự “chết – tưng – bừng” ấy nó trái lẽ thường lắm, nó khí gây sự, nó chát chua, nó muối xót. Lại nữa, tôi đã giật mình khi đọc đến đoạn thơ :
Ở phía trước
Ở phía trước nữa
Ai như ta?
Ai đã là ta?
Chao ôi! Đời nến sáp
Ta đấy à, hay chưa từng ta!
Không giật mình sao được, khi lụi bấc cạn dầu, “đời nến sáp” lét leo năm, tháng. Không giật mình sao được, khi quá nửa đời người văng vật trên con đường chướng gió kinh niên, nay nhìn lại ta đã không còn nhận ra mình. Không giật mình sao được , khi cái thứ gió quái đản đâu chỉ làm biến dạng một mình “ta” , mà “nó”, đã làm biến dạng cả một đất nước, biến dạng cả một dân tộc, biến dạng bao thế hệ. Ôi! Những câu thơ Hoàng Quý cứ nhói nhức cứa vào lòng. Nhỏ máu !
Ở trên, tôi đã nói đến chuyện lá xanh, lá đỏ, vậy cũng xin được nói cho trọn ý luôn. Hành trình từ xanh đến đỏ, rồi vàng, rồi rụng của cây, cỏ trong thiên nhiên chỉ trọn một vòng quay sinh diệt. Lá rụng rồi, cây lại bát ngát xanh, lại sáng bừng chồi non lộc biếc, ngập tràn mơ ước, hy vọng có thật cho một mùa mới sinh sôi . Còn hành trình của dân tộc mình đến ĐỘC LẬP -TỰ DO – DÂN CHỦ – VĂN MINH, nếu tính từ 1930 đến nay cũng ngót 100 năm, mà xem ra đích đến vẫn còn mờ xa lắm. Chao ôi ! Cái sự “lá xanh”, “lá đỏ” trong văn nghệ minh họa, tụng ca mới nghiệt ngã biết chừng nào. Với “Lá xanh”, Hoàng Việt cho thấy hình ảnh các “anh trai làng” phới phới tuổi thanh xuân hăm hở tòng quân đi chiến dịch. Còn trong “Lá đỏ”, tôi tuyệt nhiên không thể xác định được “ào ào lá đỏ” là vào mùa nào của trời đất ? Thì ra tác giả đã minh họa về cái “mùa chiến dịch” thật là hoành tráng với ào ào lá đỏ, bụi bay mù trời. Tôi bỗng nhớ đến mấy câu thơ : “ Máu và máu trộn vào nước mắt – Cờ với cờ rờm rợp phía trời xa” (*). Để rồi từ đó tôi suy ngẫm mông lung mãi về thông điệp của “Đêm nghe gió qua vườn” đã được Hoàng Quý dụng công dồn vào hai câu kết :
Và, có thể lối chìm hoa cỏ ấy.
Nhắc những lời hoa rụng một ban mai.
Đã có ý kiến cho rằng, từ cái sự “ ly khách” trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm, muốn nghĩ muốn luận đến cái sự “về” của “Đêm nghe gió qua vườn”? Tôi chỉ xin được có vài ý trao đổi thêm như sau: Ai cũng biết, trong bối cảnh đất nước ở thời điểm Thi sỹ Thâm Tâm viết “Tống biệt hành” , một trở ngại lớn nhất khiến các con đường sáng đưa đất nước, dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ do hai Cụ : Phan Châu Trinh – Phan Bội Châu khởi xướng, đều không thể thực hiện được, là vì dân trí nước ta quá thấp. Ngay cả những người cầm bút xuất hiện còn rất thưa thớt lúc bấy giờ thì đa phần có “máu nghệ sĩ” nổi trội, thích phiêu du, lang bạt, chơi bời… Và, nói chung là yếm thế. Ở một khía cạnh nào đó, cái “sự đi” trong Tống biệt hành có vẻ lên gân, có vẻ rất quyết chí đấy, nhưng xem ra nó vô định lắm. Đi đâu ? Đi thế nào? Đâu là đích đến? Cái “chí nhớn” cũng thật mông lung. Tuy nhiên, đó lại là chuyện khác. Chỉ biết, những câu chữ giỏi, giàu hình ảnh, thi điệu tiêu dao được trải ra trong toàn bài thơ về một cuộc ly tao làm lay động lòng người đã khiến “Tống biệt hành” được coi là một tuyệt phẩm suốt hơn nửa thế kỷ qua. Đó là sự may mắn rất hiếm có trong đời cầm bút ngắn ngủi của Thâm Tâm. Thế thì, cái “sự đi” trong Tống Biệt hành không thể và dứt khoát không thể trở thành logic trong cái “sự về” của “Đêm nghe gió qua vườn”. Này nhé, ta đã trở về sau cả một đời “đi” trong ngộ nhận; con đường chướng gió mà ta dấn thân. Sự cả tin mà “ta đã đi không chút e dè…” giữa “Những – hy – vọng – rưng – rưng – xác – lá” ấy ta đã nhãn tiền. Khi hết ấu trĩ , mê lòa, ta chợt tỉnh, cũng có nghĩa là ta nhận diện ta (và không riêng ta):
Ở phía trước
Ở phía trước nữa
Ai như ta?
Ai đã là ta?
Chao ôi! Đời nến sáp
Ta đấy à, hay chưa từng ta ?
Bởi, nếu thời trai trẻ với trái tim cuồng nhiệt cùng biết bao hy vọng đến mức rưng rưng kia, thì nay đã thấy rồi, trần trụi cái sự thật kinh hoàng, khó còn có thể lấp liếm, che đậy, từng lừa mị cả mấy thế hệ.
Và :
“Những – hy – vọng – rưng – rưng – xác – lá
Chết – tưng – bừng – như – máu – hôm – qua”
Có lẽ là trong rất hiếm hoi những câu thơ giỏi và hay vào bậc nhất của văn đàn nước ta chuyển tải được cái thông điệp mà tôi nói ở trên.
Nhìn từ phạm trù thế giới quan, thế giới quan của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” và thế giới quan Hoàng Quý trong “Đêm nghe gió qua vườn” là hai phạm trù hoàn toàn độc lập, thậm chí hoàn toàn khác biệt, khác biệt rành rẽ. Ở Thâm Tâm , cuộc tiễn đưa trong bối cảnh lịch sử là đêm trước của một tiếng nổ lớn, tất yếu. Ở Hoàng Quý là cuộc thức ngộ không dễ dàng mà anh đồng hành, anh chứng nhân, anh thuộc về nó, nó cuốn phăng anh, bắt anh và không riêng anh vần vũ trong cơn bão ấy, rồi đi tới nghiệm chứng. Do vậy, càng có cơ sở để thêm một lần nữa khảng định, cái sự “đi” trong “Tống biệt hành” không, và vĩnh viễn không logic với cái sự “về” trong “Đêm nghe gió qua vườn”.
Ở Trung Quốc trong mấy thập niên sau Đại Cách mạng Văn hóa điên khùng, đã xuất hiện “dòng văn học vết thương”, nhận thức lại những ấu trĩ một thời đã trở thành tội ác. Những nhà văn Trung Quốc chân chính đã và đang làm tất cả những gì thuộc thiên chức mà thượng đế đã ban cho họ. Nếu không làm, họ sẽ mãi còn món nợ lớn với nhân dân của mình.
Tôi nghĩ, sau chừng ấy năm cầm bút, bằng tài năng cùng trái tim nhân hậu, “Đêm nghe gió qua vườn” (và tất nhiên, nhiều thi phẩm khác của Hoàng Quý) đã làm nên tên tuổi ông – một nhà thơ mà cả tư duy và chiều kích tác phẩm mang sức đi xuyên thời gian.
Nha Trang 11/2012
(*) Thơ Nguyễn Chính