(Tập Nhật ký - Tùy bút dành cho con gái)
Vào sách
Hai chục năm qua, những lúc không làm phim, Tuấn cận tôi thường “ngứa tay” viết nhật ký, tản văn, tạp bút, tùy bút – mà động lực chính yếu là cần trò chuyện với đứa con gái đầu lòng từ lúc sinh ra đến khi bước vào đời sinh viên, để nó sẽ có điều kiện hiểu thêm về thời nó đã sinh ra, lớn lên, và trưởng thành như một Công dân xứ Đông Lào đầy ngổn ngang; đồng thời cảm thông với ông bố vào tuổi làm lễ “Khao” cổ truyền mà suốt ngày lầm lụi viết thuê, làm các loại phim thượng vàng hạ cám để nuôi sống một gia đình nhỏ và mong nói được điều gì đó với Cuộc đời – điều mong mỏi nhỏ nhoi vô hại nhưng khiến nó từng hờn dỗi phát khóc: “Bố thôi kiểu “phản biện” ấy đi, tránh “mồm chó vó ngựa” cho con nhờ, con được yên thân học hết đại học và kiếm được cái nghề…” Tôi buộc phải nghe lời, chỉ vì thương nó, nếu lỡ bị liên lụy bởi dính phải cái tội “yêu thư yêu ngôn” do ông bố dở hơi từ thời ngây dại trót ảnh hưởng cái ý tưởng cao siêu “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ”, thì tôi thực có tội và đáng ân hận lắm…
Vậy thì đành nhét những suy tư ẩn ức vào trang viết dành riêng cho nó, không phải lo tìm cách né tránh các điều “nhạy cảm” chẳng thể xuất bản công khai hiện giờ, và không rơi vào cái cảnh ngộ bị buộc phải “thiến” đến 1/3 bộ phim đã làm xong bởi “phạm húy” rồi sau đó không dám xem lại “con đẻ tinh thần” của mình…
Tôi bắt đầu sưu tầm, tập hợp lại những đoạn nhật ký - tùy bút nặng cảm ngôn này từ lúc “Bà Hoàng nhóc” nhà tôi bước vào giảng đường Đại học; chúng là những lát cắt tự sự riêng tư, thuộc loại Non Fiction (Không hư cấu, kể cả những cái tạm gọi là “Truyện ngắn” cho an toàn), song cũng hy vọng tìm được - bằng cách nào đó tôi chưa biết - sự đồng cảm của các bậc phụ huynh học sinh, các thầy cô giáo thật sự yêu trẻ, và đặc biệt dành cho các cô bé cậu bé bằng tuổi con gái tôi đang ngơ ngác thậm chí sắp/ đã ngộ độc trước bao giá trị Thật – Giả lẫn lộn và cái Ác bắt đầu lên ngôi khi Tình thương bị xua đuổi và lòng Tham vô đáy thống trị tâm hồn xã hội… Giữa khi con gái tôi thức dậy trong nôi bởi tiếng chim hót đầu đời khiến tôi nhớ lại thời trai trẻ Tây Bắc thì cũng là lúc những kẻ đồng giới con tôi - những mụ Ác người Việt dữ dằn hơn cả quỷ Médura cùng đồng bọn ác độc như Tần Cối xưa kia tàn phá tận gốc kinh tế - đạo lý xã hội đang bị đòi ra trước Ánh sáng Công lý…
Tập sách chứa đựng các nội dung liên quan tới Tuổi thơ của con, Gia đình, Giáo dục, Văn hóa Nghệ thuật, Chính trị, Tôn giáo, Chiến tranh, Chủ quyền Biển Đảo, Tình yêu, Thần tượng, v.v, học theo cách thức từ “Julie ou la nouvelle Héloise” (Juyli hay nàng Êlôidơ mới), “Émile ou de l'éducation” (Émile hay là về giáo dục) của nhà văn Pháp thế kỷ Ánh sáng jean-Jacque Roussau, mà các nhà giáo dục, các bậc phụ huynh hôm nay rất cần đọc… Và đặc biệt, những bước chân của vị hành giả thời hiện đại đang tiến về quê hương Phật mà từ suốt mấy tháng nay kẻ từng làm “Phật tử nhí” phải xôn xao lại rất cần tới sự trợ giúp về kiến thức Phật học & văn hóa ở ông bố nhà báo quèn - nhà làm phim dưới đáy làng nghề… Những quan sát, nhận xét, cảm nhận mang đậm chủ quan ở đây có thể làm chiếc La Bàn nhỏ, mà có lẽ cái gốc là TÌNH THƯƠNG và HỌC VẤN – mong giúp cô sinh viên ngành Khoa học Xã hội & Nhân văn đỡ hoang mang lạc lối thủa ban đầu trên con đường tìm ý nghĩa đời mình… Và biết đâu, may ra, những người có trách nhiệm và quyền hạn giàu lương tri trong giới cầm quyền sẽ tìm được ở các dòng tâm sự riêng tư này đôi gợi ý cần thiết để bổ sung gấp vào các chính sách về Văn hóa - Nghệ thuật - Giáo dục cần được cải tổ nhằm tạo ra một tương lai sáng sủa cho thế hệ trẻ - trong đó có các con gái tôi…
Bài mới nhất trên vanviet.info có đoạn này khuyến kích việc hoàn thành tập sách dành cho con gái tôi và các bạn của nó: “Với những phát biểu về tầm nhìn và điểm nghẽn của quốc gia, ông Tô Lâm đang được sự đồng thuận từ nhiều người. Mong sao sắp tới việc triển khai thực những dự án cải tổ lớn làm nức lòng người dân hơn, đẩy mạnh hơn hy vọng của họ, loại bỏ khỏi hàng ngũ có trách nhiệm những kẻ “giá áo túi cơm”, mời gọi được nhiều nhân tài có lòng cùng góp sức…” (“Giá áo túi cơm” - https://vanviet.info/van-de-hom-nay/gia-ao-tui-com/).
Tập sách này học đòi kiểu viết của người bạn văn hải ngoại Đỗ Quyên (và một phần của nhà văn Đặng Thân) – kiểu “liên văn bản”, có điều vì bản lĩnh văn chương kém cỏi nên chỉ “liên văn bản” của chính tác giả là chủ yếu! Và tác giả biết ơn các trang mạng Vanchuongviet.ogr, Vanviet.info, Vietvanmoi.fr, Hopluu.net, Vandanviet.com, Dotchuoinon.com, Trieuxuan.info, Vanhoavadoisong.vn…, các tạp chí Văn Hiến VN, Thế giới Di sản… đã trân trọng lưu giữ hộ tôi các chất liệu cảm xúc-suy tưởng cho hoạt động “liên văn bản” vụng về này.
Những đoạn Nhật ký – Tùy bút – Ghi chép ở đây cố gắng bớt đi chất riêng tư Cha - Con, và đã phá bỏ trình tự thời gian để sắp xếp lại theo các chủ đề - một cách tương đối không tránh khỏi gượng ép, song có thể cần thiết - giúp những ai không may trót vớ phải mớ cảm xúc lộn xộn này đỡ mệt mỏi:
I. “BÀ HOÀNG” NHÓC VÀ CUỘC CHIẾN THẢM KHỐC THẾ KỶ
II. NGÔI NHÀ TUỔI THƠ VÀ “LÂU ĐÀI” ĐIỆN ẢNH TRONG “HỐ THẲM”
III. XÃ HỘI “CUA BẤY” ĐANG TRÊN ĐÀ CẢI TỔ TOÀN DIỆN
IV. NỀN BÁO CHÍ - VĂN NGHỆ RỤT CỔ
V. THÁO GỠ “VÒNG KIM CÔ”…
VI. NỀN GIÁO DỤC HƯ HỎNG TẬN GỐC ĐANG ĐƯỢC LÀM LẠI
VII. NỀN PHẬT GIÁO SA ĐỌA & HIỆN TƯỢNG HÀNH GIẢ MINH TUỆ
VIII. BÍ QUYẾT CỦA SỰ CỨU RỖI: TÌNH THƯƠNG & HỌC VẤN
IX. NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU CỦA CON
Xin trích một chương đầu:
I. “BÀ HOÀNG” NHÓC VÀ CUỘC CHIẾN THẢM KHỐC THẾ KỶ
Ngày…
Năm con gái bước vào tuổi mà nhà văn người Nga A. Tolstoy bảo "Khi người ta mười chín tuổi người ta là bà hoàng" thì "Bà Hoàng" nhóc chẳng hiểu lôi ra từ đâu con búp bê mà bố mua cho từ 18 năm trước ngắm nghía rồi hỏi "Nó có giống con hồi ấy không hở bố?"...
Hôm ấy bố lang thang trong gian hàng thú bông và thấy hoang mang, không biết chọn cho con gái thứ đồ chơi đầu tiên nào đây? Thú bông hình thỏ, hình gấu, hình vịt, hình gấu, hình chú lùn… Chúng nhiều màu sắc, nhiều dáng vẻ, nhưng đều có chung một điểm giống nhau: đôi mắt to tròn, giống mắt con lần đầu tiên nhìn thế giới chào đón con; đôi mắt vô tư, trong trẻo, không vướng chút tham vọng và hận thù - cái tham vọng và hận thù đang thiêu đốt trẻ thơ, người vô tội, biến con người thành thú vật, biến tình yêu đồng loại thành đối tượng bị truy đuổi… Bố run người xúc động trước sự hồn nhiên câm lặng của những con thú bông và muốn đem cho con tất cả sự bình yên vĩnh cửu mà chúng chứa đựng trong khoảnh khắc hữu hạn giữa thế gian này…
Bố liền chọn một con búp bê chú lùn có đôi mắt giống con nhất, đôi mắt lần đầu nhìn thấy những người thân yêu đang ghé sát môi lên vầng trán con thơm lừng mùi sữa mẹ. Búp bê đầu tiên của con sẽ dẫn con vào thế giới của tình yêu thương…
Bố nhớ lại đôi dòng của mấy chục năm trước, khi đang là anh “giáo khổ” Tây Bắc:
NĂM CON GÁI CHÚNG MÌNH MƯỜI CHÍN TUỔI
(Khi người ta mười chín tuổi, người ta là bà hoàng - A. Tolstoy )
Những năm tháng buồn, anh đi lang thang
Trên những nẻo đường rừng quanh co thăm thẳm
Nương lúa khô khan, cỏ tranh cháy xạm
Gốc ban già cô đơn trong nắng mưa
Những năm ấy anh đã viết cho con gái chúng ta
Năm con mười chín tuổi
Bằng tuổi em khi em đến với anh
Mối tình vụng dại chân thành
Của cô học trò phố huyện…
Những năm tháng mai sau khi buồn đau đã thành dĩ vãng
Anh sẽ nói với con những gì từng làm hồn anh nhức bỏng
Những cô bé cậu bé cởi trần da cháy như hun
Lớn lên như rừng hoang, cỏ dại
Chúng đang ngơ ngác nhìn anh
Bên một hủm suối
Còn anh, một người trai Hà Nội
Đứng nhìn chúng hoài, lòng rưng rưng…
Mộng lãng du đưa anh đi qua bao nẻo rừng,
Bao con suối, bao dòng sông, bao khoảng trời xa lạ
Đâu cũng là Đất Nước nghèo trong câu ca và rơm rạ
Lán nứa mái tranh che tạm nỗi cơ hàn
Những mái đình chùa cong trĩu nặng kiếp nhân gian
Những cơn đói của anh nối tiếp những cơn đói của ông cha hàng thế kỷ
Và nỗi buồn vui của anh có muối mặn gừng cay của bao đời thường không đếm xuể
Có những khi anh ngẩn ngơ trước một điệu dân ca đồng bằng
Giữa trưa nắng chói chang, trên vùng quê mới
Núi lại núi, mây giăng vời vợi
Giờ em ở đâu, sau núi và thời gian ?
Anh đã viết cho con gái chúng ta năm con mười chín tuổi
Bằng tuổi em khi em đến với anh
Mặc dù không biết đến khi nào con mới ra đời
Anh không hình dung nổi ra con
Song những gì anh yêu, anh buồn và mong mỏi
Sẽ in dấu trong tâm hồn con
Năm con mười chín tuổi…
“Khi người ta 19 tuổi, người ta là bà hoàng” – đó là một câu trong bộ tiểu thuyết sử thi “Con đường đau khổ” của nhà văn Nga A. Tolstoy mà bố từng lấy làm đề từ cho bài cảm ngôn trên, từ những năm bố còn là một chàng trai mơ mộng lang thang trên những nẻo rừng Tây Bắc. Vài chục năm sau, vào lúc con đọc những dòng này của bố, khi con chuẩn bị bước vào năm thứ hai đại học, cũng là lúc cả xã hội ta đang trong một cơn xáo động kinh hoàng với bao giá trị đảo lộn quay cuồng khiến những cô cậu sinh viên quen sống trong vòng tay gia đình che chở như con phải hoang mang, ngơ ngác, hoảng sợ…
Và bố cùng nhiều bậc phụ huynh lương thiện cũng phải hoang mang, ngơ ngác, hoảng sợ chẳng kém, bởi những tấm gương, những nguyên mẫu đời sống-lịch sử mà các con cần noi theo như các bậc nữ anh hùng Bà Trưng, Bà Triệu, Zoya… thời trước, Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý, Phạm Thị Đoan Trang… thời nay đã bị chìm đi, bị nuốt chửng trước những “tấm gương” đen ngòm mà bố từng miêu tả trong bài viết “Sắc đẹp và trái tim chứa đầy nọc độc” (vanviet.info): những “mẫu hậu”, “nữ hoàng”, “hoa hậu”, “đại sứ văn hóa-tình yêu”, v.v. mang cái vỏ mỹ miều đã/ đang/ sẽ liên kết với những “thế lực đen”, “quyền lực nhóm” đủ mọi cấp đương góp phần tàn phá mọi giá trị nhân văn tốt đẹp mà bao thế hệ đã phải đổ máu xương để tạo ra và gìn giữ…
Khái niệm “Bà hoàng” bố mượn ở trên khác rất xa, đúng hơn là đối lập với cái mà người ta vẫn vỗ ngực rêu rao về tính chất “Quý tộc”, “Tinh hoa” của những kẻ ở tầng lớp thượng lưu thối nát, hư hỏng hiện nay đương tìm cách đục khoét ngân khố quốc gia, hút máu dân lành, chiếm dụng đất rừng để sống ngập ngụa xa hoa, để ngang nhiên hưởng thụ “những bữa ăn láo xược” (Lưu Trọng Lư) – kệ thây và trâng tráo dẫm đạp lên nỗi khổ đau đói nghèo đã tới tận đáy của đồng bào họ!
“Bà hoàng” mà bố nói đây chính là một Tư cách sống đàng hoàng, tử tế, khi con hiểu rõ về giá trị cùng trách nhiệm của bản thân mình trước Tổ quốc và Nhân dân – dù là một “Nhân dân” từng được nhà văn Vũ Thư Hiên khái quát: “Thế hệ chúng tôi bất hạnh: chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí” (Hồi ký Đêm giữa ban ngày). Con sẽ là một “Bà hoàng” đáng tự hào như vậy, không phải để được tuyên dương trên báo chí, truyền hình mà để những “thế hệ bất hạnh” như các bác Nguyễn Hữu Đang, Trần Độ, Trần Dần, Vũ Thư Hiên, Phùng Quán, Bùi Minh Quốc, Hoàng Hưng… cũng phải ấm lòng, được an ủi, và thêm tin rằng: cái Dân tộc khốn khổ đau thương này dù có bị cố tình hay vô tình đưa vào quỹ đạo hủy diệt, song vẫn có những thế hệ kế tiếp xứng đáng đương hàng ngày lặng lẽ vượt qua muôn trùng sự đểu cáng, lừa đảo, cướp bóc, tìm cách lấy lại danh dự Quốc gia lâu nay đã bị đánh mất một cách đau xót và oan uổng!
Và con sẽ là một “Bà hoàng” đúng nghĩa và cao quý nhất của khái niệm này một khi con mang được trong trái tim con Tình thương lớn của Dân tộc, cái Tình thương mà Đại thi hào Nguyễn Du đã mang cả cuộc đời vất vưởng “nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương” cùng “cuốn kinh của Tình thương” – kiệt tác Truyện Kiều của ông để minh chứng: “Thương thay cũng một kiếp người!”. Chính cái tình thương bản năng hồn hậu của con hồi mới lớp năm, khi bố đưa con tới thăm một khuôn viên tuyệt đẹp từng là Dinh thự Toàn quyền ở miền Trung đã cho bố ý tưởng để viết thành truyện “Bí mật về ông Nguyễn Thái Học” – như một sản phẩm chung của bố con mình: “Hai bố con đang ngồi trên ghế đá ngắm cảnh, có một người đàn bà lớn tuổi thọt chân bưng thúng bánh lá tới chào hàng. Hắn nhìn qua vào lòng thúng, rồi lắc đầu. Con gái hắn, một lúc sau lay vai hắn, nước mắt lưng tròng. “Bố ơi, mua cho bà ấy đi, bố”. Nó kéo tay hắn tới chỗ bà bán rong, ngồi sụp xuống chọn nhanh mấy chiếc bánh, rồi chủ động lục ví hắn để trả tiền. Thì ra, trong lúc hắn mải mê ngắm cảnh thơ mộng, đứa con gái mười một tuổi lại chăm chú theo dõi nỗi vất vả của bà bán rong. Một nỗi bàng hoàng chợt xông lên làm nhòa mắt hắn. Lúc đó, hắn lờ mờ hiểu ra cái bí mật sâu thẳm đang điều hành cơ chế tâm hồn con gái lâu nay, như muốn biến thành bí mật chung của hai bố con và làm hành trang còi cọc song chưa có gì thay thế nổi để phân biệt những giá trị Thật – Giả trong cõi đời phù du này…” (https://vietvanmoi.fr/index3.9395.html).
Vậy đó con, nếu không có thứ Tình thương này, con người ta dẫu xinh đẹp lộng lẫy tựa tiên giáng trần cũng chỉ có thể thành một Bà Chúa Tuyết lạnh giá nguy hiểm, thù địch với đời sống! Nhưng để có được Tình thương ấy, trước hết con cần có lòng Dũng cảm. 15 năm trước, bằng quãng thời gian lưu lạc của nàng Kiều, bố đã viết cho con bài cảm ngôn: “Dũng cảm lên con”, nhắc lại con đoạn kết:
“Dũng cảm lên con, để mai sau nếu có khóc bên thảm án Lệ Chi Viên, con còn có nụ cười sáng lệ trước ngọn đèn xanh hoà mưa đêm… Con sẽ cần tới lòng dũng cảm không chỉ để cõng nổi chiếc cặp sách quá tải trên lưng hay chịu đựng được ánh mắt của cô giáo khi chẳng chịu học thêm mà còn để có sức dùng được ngọn trúc của Ức Trai dò lòng suối tìm đến cánh rừng Mai nguyên thuỷ của Tình người…
Con cần đủ lòng dũng cảm để có thể hiểu thực chất hai chữ "đồng bào" chính là sự dâng hiến cao cả cho phần máu mủ ruột rà của con đang chịu bao khổ đau bất hạnh trong cuộc mưu sinh rủi ro và để biết căm giận những kẻ tham lam độc ác chà đạp lên đồng bào mình.
Lòng dũng cảm giúp con bớt nghĩ về bản thân để cảm thương cho số phận cô con gái bé bỏng bị bão cuốn trôi giữa khi người cha lấn biển gian nan và khi đó con đã vô tình mang tâm hồn của Đức Mẹ Maria hay Đức Quán Âm Tống Tử khiến bố nghiêng mình trước con đúng hơn là trước cái lý do bố tồn tại trên cõi đời này.
Lòng dũng cảm cũng chính là tình yêu của con trước mọi điều trong lành chỉ có trong thần thoại cổ tích giúp bố vượt qua cái thời buổi mà sự đểu giả đốn mạt thường không bị trừng trị nhưng lòng dũng cảm nhỏ bé của con sẽ là đốm lửa nhỏ góp vào đống lửa của Lương tri đang phẫn uất cần được thổi bùng.
Sau này nếu con hỏi: con tiếp tục lấy đâu ra lòng dũng cảm? Con có cả cuộc đời trước mặt cộng với nỗi buồn và sự phẫn nộ của bố trước những gì đểu cáng để tìm câu trả lời!”
15 năm sau, bố lại lại chúc con Lòng Dũng cảm này, trong dịp Sinh nhật con vào tuổi làm “Bà hoàng”!
Đó cũng vào thời kỳ từng có hàng mấy tuần đỏ rực mạng xã hội những hình ảnh & bình luận về nhiều người trong một giới nhân sinh mà những nhan sắc diễm lệ, xinh đẹp như mộng chỉ là cái vỏ che đậy của phần nhân tính khiến thiên hạ thở dài ngán ngẩm, bố buộc nhớ tới thơ Nguyễn Du, và xót đau trước sự tương phản trớ trêu giữa “Sắc đẹp” và “Trái tim chứa đầy nọc độc” mà Cụ cảnh báo, lên án từ hai trăm năm trước! “Trái tim chứa đầy nọc độc” là ý trong một bài thơ vịnh sử của đại thi hào viết bên tượng sắt quỳ của đôi vợ chồng độc ác Tần Cối và Vương Thị tại đền thờ Nhạc Phi ở Giang Nam – Trung Quốc. Nguyễn Du đã dành cho mỗi đứa hai bài thơ tựa những nhát búa tạ giáng không thương tiếc xuống đầu sắt ô nhục của chúng, và đã khái quát bản chất thực của hai kẻ cả khi sống lẫn khi chết bị thiên hạ ngàn đời phỉ nhổ, bằng hai câu vào loại “đỉnh” của thơ chữ Hán Việt Nam: Nhất thể tử tâm hoài đại độc, Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan. Suốt đời trái tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ! Khi sống, trái tim của nó mang đầy chất độc đã đành, nhưng chết đi, nó vẫn mang đầy chất độc đó trong trái tim chết (tử tâm). Cùng với chồng, sức mạnh của Vương Thị là sức mạnh phá hoại, thiêu hủy kết quả của lòng dũng cảm, sự hy sinh, hàng đống xương máu của những người ái quốc trung quân trong thời kỳ ấy, và ảnh hưởng của thị chắc cũng không phải là ít trong sự phá hoại luân thường đạo lý xã hội nhiều thời đại sau. Vì thế, thị cần được/ bị bêu để “làm gương” cho bọn nữ “loạn thần” trước công luận bằng bức tượng mộ ô nhục kia! Thị có tội lớn ngang với chồng mình trước lịch sử và sự phán xét của lương tri, nhưng chắc hẳn thị còn đáng trách hơn đối với Nguyễn Du bởi thị nằm trong cái giới nhân sinh mà bản thân ông bao giờ cũng trân trọng và dành cho những tình cảm thắm thiết trĩu nặng: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! (Truyện Kiều), Đau đớn thay phận đàn bà/ Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân! (Văn chiêu hồn)…
Sắc đẹp phụ nữ là vưu vật của thế gian, trời ban cho, văn học nghệ thuật Cổ – Kim Đông – Tây đã dành bao sự ngợi ca thấm thía tuyệt mỹ. Tuy Sắc đẹp cũng là nguyên nhân của bao cuộc chiến tranh, của sự đổ vỡ điêu tàn một quốc gia, song Sắc đẹp lý tưởng của phụ nữ mang trong sứ mệnh tồn tại của mình vẫn là cái đích mà nhân loại vươn tới… Bố nhớ nhà văn K. Pautovski có lần đứng trước những tranh, tượng khỏa thân nữ ở một Bảo tàng nghệ thuật và ông thốt lên trong nước mắt: Trời ơi, Con người ta vốn đẹp đẽ nhường kia, vậy mà sao ý nghĩ & hành động của họ trong đời lại xấu xa nhơ nhuốc đến thế!
Nhưng, góp phần làm nhơ nhuốc vẻ đẹp thần thánh kia cũng do chính không ít kẻ được may mắn mang Sắc đẹp trời ban! Bố nhớ đến những nhân vật nữ quý tộc xinh đẹp đài các song tâm hồn giá lạnh như bà chúa Tuyết và mang bao âm mưu rắn rết trong trái tim đồi trụy mà nhiều nhà văn Phương Tây và Nga từng miêu tả, khi được nghe, được chứng kiến hành xử của những Sắc đẹp Việt Nam thời kinh tế thị trường dị dạng này – những Sắc đẹp chứa nọc độc góp phần tàn phá lương tâm, nhân tính, cả tính mệnh của đồng bào họ!
Đồng tiền – không kể là Sạch hay Bẩn – và một cuộc sống vật chất lộng lẫy đã trở thành lý tưởng sống cao cả nhất đối với họ, thống trị tâm tư họ, và họ đã không từ bất kỳ thủ đoạn gì để có được thật nhiều tiền! Trước họ, bên trên họ, là những “tấm gương rực rỡ” luôn cổ vũ họ – những “Vương Phi”, Mẫu Hậu”, “Nữ Quý Tộc” đời mới nảy nòi từ hàng ngũ “Cha Mẹ Dân” cao chót vót hàng ngày đục khoét tài nguyên và ngân khố Quốc gia, vơ vét mồ hôi xương máu của hàng chục triệu dân lành! Họ đang sống trong những ngôi nhà dát vàng dát bạc mà tâm hồn đen kịt như địa phủ, trái tim đã chứa đầy nọc độc chết người như mụ Vương Thị xưa, sắc đẹp của họ trở thành biểu tượng cho nỗi sợ hãi của người lương thiện, sự đáng căm ghét, đáng khinh bỉ cho cả thế gian!
Buồn quá, đau quá con ơi!
Ngày…
Vào đêm Noel, sắp qua một phần tư thế kỷ XXI.
Đêm nay, khi con sống trong ngôi nhà ấm áp, như biết bao người trên thế gian đón chờ giây phút Giáng sinh yên bình, thì tại Ukraine, biết bao đứa trẻ đang chìm trong giá lạnh và không còn tâm trí hơi sức đâu để mong quà của Ông già Noel như mọi năm, trước sự đe dọa của tên lửa, đạn pháo thù địch…
Con đã qua tuổi háo hức chờ đón Giáng sinh với quà của Ông già Noel như nhiều năm qua – một truyền thống đáng yêu của bên Thiên chúa giáo đã trở thành một tập quán chung của toàn thể cộng đồng xã hội bởi cái giá trị Tình thương to lớn nằm trong các khái niệm Phục sinh, Ơn Cứu rỗi, Sứ vụ Bác ái… mà nhạc sĩ Vũ Thành An đã từng ví chúng như là những ngọn đèn để soi giúp con người đi trong bóng tối cuộc đời…
Năm nay, con bước vào con đường lớn của học vấn – tri thức nhân loại, rồi sẽ bắt đầu được làm quen với kho tàng sách vở kinh điển – trong đó có Kinh Thánh, Kinh Phật, mà cái cốt lõi trong các kho tàng tri thức đó, bên cạnh việc ráo riết lý giải bản chất của sự Tồn tại là ẩn sâu lời kêu gọi thống thiết: Con người cần sống sao cho đáng là Con người, và xứng đáng với nỗi Khổ đau lẫn Kỳ vọng của Đấng Sáng tạo khi làm nên Thế gian và Sự sống muôn loài. Bố có lần nhắc đến một bộ phim đoạt giải Cành Cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes 2011: “Đại dịch hôm nay cũng có thể coi là một dịp hiếm có để không ít người trên khắp thế giới Sống Chậm lại để tỉnh ngộ đôi điều – ít nhất là tỉnh ngộ về Cái ác do mình hay người khác đã gây ra cho đồng bào, đồng loại. Ví thử, những kẻ vu oan giá họa cho gia đình nàng Kiều mà được xem bộ phim The Tree of Life (Cây đời) của đạo diễn Mỹ Terrence Malick, nếu được sững sờ kinh ngạc trước sự sinh thành của một con người, chậm rãi, linh thiêng và vĩ đại, sánh với sự sinh thành của vũ trụ mà các nhà làm phim kiên nhẫn miêu tả, chắc chúng sẽ rụt bớt sự tham tàn độc ác bởi nghĩ tới cha mẹ đã vất vả để chúng được thành người ra sao…”. Vậy đó con à, nếu không có thứ Tình Thương mà các vĩ nhân kim cổ – Đông Tây như Thánh Gandhi, văn hào L. Tolstoy, Vua Phật Trần Nhân Tông, v.v., từng bao lần kêu gọi trong máu mắt, thì mọi chủ trương – khẩu hiệu “Hòa Hợp Hòa Giải Hòa Đàm” sẽ chỉ là những lời nói cho vui, là kế hoãn binh, thậm chí chỉ là sự lừa dối đáng hổ thẹn! “Voici le temps des assasins” (Đây là thời của những kẻ giết người) – câu thơ ấy như một lời tiên tri dữ dội của nhà thơ Pháp Jean Arthur Rimbaud (1854-1891), ông cảnh báo rằng: trong thế kỷ 20, nhiều kẻ giết người khét tiếng đã xuất hiện! Nhà văn Mỹ Henry Miller (1891-1980), người tự nhận là "hậu thân của Rimbaud" đã kết thúc chuyên luận về Rimbaud “The Time of the Assassins” (Thời của những kẻ giết người), tác phẩm của “một thiên tài viết về một thiên tài”, như sau: “Không có gì ngoài khủng hoảng, suy đồi, ảo ảnh và viễn ảnh. Nền tảng của chính trị, luân lý, kinh tế và nghệ thuật rung chuyển. Không khí đầy những dấu báo nguy và tiên tri về sự băng hoại sắp tới – và nó tới trong thế kỷ 20!… Sự khủng hoảng tinh thần của thế kỷ 19 chỉ mở đường cho sự phá sản của thế kỷ 20. Đó là, “Thời của những kẻ giết người” không còn lầm lẫn được. Chính trị đã trở thành công việc của bọn côn đồ sát nhân!” (Nguyễn Hữu Hiệu dịch).
“Thời của những kẻ giết người” không ngờ tái diễn trong thế kỷ 21 này, những kẻ giết người đó vẫn đang xuất hiện, bọn phát xít mới, Sa hoàng mới – trong dạng thú tính và hung bạo không kém “đồng đạo” ở thế kỷ trước! Khi bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược ở đất nước Ukraine xinh đẹp, bố đã chảy nước trước bức hình bé gái Nga đẫm lệ chắp tay, và bức hình bé trai Ukraine giơ khẩu hiệu: “Cháu không muốn chiến tranh”.
Bố đã viết: “Không phải gửi cho các Ngài!”: “Bức hình bé gái chắp tay cầu xin Ngài và những hung thần Chiến tranh kia, không phải gửi tới cho Ngài đâu, dù chính Ngài là người đầu tiên cần được nhìn thấy nó để nhắc Ngài nhớ về hai người con gái của ngài từng làm nguyên mẫu “các con gái Tổng thống” cho một bộ phim về cuộc khủng bố bắt con tin trong nhà hát*… Bởi Ngài sẽ cười khẩy, bản lĩnh chính khách mang màu phát xít của ngài sẽ coi đó chỉ là trò đa cảm của giới nghệ sĩ chuyên giải trí cho dân no đủ sặc rượu bia, bởi Ngài đã quá xa cách các đồng hương vĩ đại của Ngài là Pushkin, Gogol, Turgenev, Tsékhov, L. Tolstoy…
Tôi chỉ gửi cho chính tôi và những người đồng suy nghĩ với tôi, để tìm trong ánh mắt đau đớn cầu xin bình yên hạnh phúc của bé gái nọ một cách ứng xử đối với Ngài – một tên đồ tể khát máu của thế kỷ 21, hay vẫn là một Con Người như định nghĩa và lời kêu gọi của M. Gorki, cũng là một đồng hương vĩ đại của Ngài: “Con Người – hai tiếng vang lên kiêu hãnh biết bao”!
Và tôi như nghe thấy tiếng thét của biết bao người lương thiện – trước những giọt nước mắt của em bé Ukraine đang cầm biển chữ tự viết kêu gọi lương tri nhân loại: “Cháu không muốn chiến tranh” – tiếng thét căm giận đối với những kẻ tiến hành chiến tranh và bênh vực chiến tranh!
Một nhà văn Nga từng kể số phận của một người lính sau cuộc chiến chống phát xít, trở về nhà mình bên hố bom, trước đứa bé mồ côi và đơn độc như ông, ông đã chảy nước mắt… Người đàn ông khi rơi vào tận đáy nỗi khổ đau, từng trải qua bao cảnh “địa ngục trần gian”, làm gì còn nước mắt nữa, thế mà vẫn phải khóc cho nỗi khổ đau của đồng loại – và nhà văn viết: “Điều quan trọng là đừng để trẻ con nhìn thấy nước mắt đàn ông phải chảy” (Số phận một con người. M. Sholokhov).
Còn nước mắt của một đứa trẻ, chưa hiểu lý do vì sao mình và người thân đau khổ, ở cái tuổi nếu có khóc thì chỉ là hờn dỗi, nũng nịu cha mẹ anh chị. Đôi mắt trẻ thơ, thời đại nào cũng thế, ở đất nước nào cũng thế, đều chứa trong đáy mắt chúng "bài hát của mẹ – bài hát giúp con nhìn xuyên suốt vạn vật ở trên đời” – như thi hào Tagore từng ca ngợi. Thế nhưng, nhưng đôi mắt trẻ thơ ngây được bao thi nhân, họa sĩ, nhạc sĩ hàng chục thế kỷ nâng niu đó hiện đang là nạn nhân trực tiếp của của những tham vọng, tranh chấp chính trị quyền lợi của người lớn, thì giọt nước mắt trẻ thơ sẽ là lời lên án mạnh mẽ nhất, đau đớn nhất!
Những kẻ trong phòng máy lạnh ôm chó săn và hôn hít người tình đã bấm nút kích hoạt chiến tranh và những kẻ ngu xuẩn bênh vực họ, ai mà chẳng có con, có cháu nhỏ; nếu họ còn chút lương tri của con người, của một người cha, người ông tử tế và lương thiện, hãy mở to mắt mà nhìn nước mắt của em bé Ukraine kia! Mọi lý lẽ, lập luận, học thuyết, chiến lược… đều trở thành vô nghĩa hết, đáng phỉ nhổ, nếu tuổi thơ con trẻ biến thành bia đỡ đạn cho các ngài! Các ngài hãy mau chóng tìm cách chấm dứt nỗi đau khổ trẻ thơ, hãy lau sạch nước mắt cho các em, nếu các ngài còn có chút tình người!”.
Nhưng con gái à, tình hữu ái giữa Con người may thay đã không bị mất đi trong thế giới bạo tàn này! Con có nhớ bố đã gửi vào di động của con ngày chuẩn bị ôn thi cuối cấp hình ảnh những chiếc xe nôi dành cho các bà mẹ trẻ Ukraine chạy nạn cùng bài viết nhỏ bố phỏng vấn sinh viên, nói về lòng Nhân hậu Ba Lan - Đất nước từng bị bọn phát xít đày đọa, dựng lên bao trại tập trung rùng rợn, lò thiêu người, đất nước đã cùng các binh đoàn Hồng quân Xô Viết sát cánh tiêu diệt từng tên lính dã thú đeo thập ngoặc… Bố đã chảy nước mắt xúc động, và bởi niềm vui nữa, trước lòng Nhân hậu cao cả của người dân Ba Lan được nhân lên trong những cơn “Đại hồng thủy” (tên một tác phẩm của Sienkiewicz), được duy trì cho tới hôm nay, để vô tư, hết lòng cưu mang người dân lành của nước bạn đang lâm nguy, trong một thời đại sắt máu, trống vắng tình người, khi mà tham vọng của những kẻ độc tài đang là mối đe dọa khủng khiếp của Hòa Bình. Bố còn nhắc con cần nghĩ tới những điểm sửa xe miễn phí, điểm nấu hàng trăm suất ăn, những chốt phát tiền cho bà con về quê trong cuộc tháo chạy khỏi Sài Gòn trong đại dịch năm ngoái…
Và con gái à, không có hình ảnh nào khiến bố phải xúc động và suy ngẫm nhiều bằng hai hình ảnh tràn ngập trên mạng xã hội suốt năm qua: một cô gái Miến Điện bị giết chết và một bé gái Miến Điện xuất hiện trên mặt đường đang nhuốm máu người lương thiện, để “đòi TÌNH YÊU” (như cách nói của một nhà giáo-nhà thơ trẻ Việt Nam) – Tình yêu Tự Do, Tình Yêu đối với quyền sống làm Người, những thứ mà trong các Mục tiêu thiên niên kỷ của nhiều Quốc gia có nói đến song chưa thực hiện được bao nhiêu, thậm chí có nơi chỉ lấy đó làm bình phong che chắn cho tham nhũng, độc quyền, sự trâng tráo chà đạp lên Quyền Sống… May thay, giữa sự giả dối lừa bịp và bạo quyền, vẫn có những cô gái, những em bé gái tâm hồn trong sáng đứng lên trước họng súng đòi những điều tốt đẹp cho Nhân dân mình, Tổ quốc mình. Họ mang trong trái tim mình Tình Thương lớn mà Con người đang cần, đang đòi hỏi…
“Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Đó là câu tựa châm ngôn của F. Dostoievsky mà không ít người cầm bút đã lấy làm cảm hứng, làm đề từ cho mình. Hình ảnh cô gái Miến Điện người đầy máu và bị xích trói như một con vật nhưng vẫn ngẩng đầu thách thức kiêu hãnh làm chấn động lương tri nhân loại mấy ngày qua chợt quay về lay động tâm hồn bố, và bố chợt giải mã được câu “châm ngôn” thấm máu trên: Khát vọng TỰ DO - QUYỀN SỐNG mới là nội dung cơ bản, là động lực của CÁI ĐẸP, chính nó mới cứu rỗi được thế giới!
Đêm nay, bố nghĩ đến Gia Đình Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu bên dòng Hương Giang do thầy Phó tế – nhạc sĩ Vũ Thành An sáng lập mà bố may mắn được tiếp xúc, tìm hiểu tháng trước ở Huế – một cộng đồng chắc giờ này đang bận rộn với sinh hoạt mùa Vọng Giáng sinh bằng những nụ cười rạng rỡ thường trực trên môi và những món quà nhỏ kịp thời đến với những số phận hẩm hiu bất hạnh, cũng như họ đã từng vượt đèo Khe Tre đến với bà con vùng cao mỗi kỳ giáp Tết – những người già nằm co ro bên bếp lửa, những em bé thiếu sữa thiếu chăn áo giữa mùa đông giá rét… Chính Tình thương sâu xa lớn rộng mà người sáng lập nên Gia Đình đặc biệt này cùng các cộng sự của ông đã giúp bố có thêm nguồn cảm xúc để xây dựng bộ phim Điện ảnh NHỮNG TÌNH KHÚC CHƯA ĐẶT TÊN. Nhạc sĩ – thầy Phó tế Vũ Thành An nhiều năm tạm dừng lại việc sáng tác những Tình Khúc Không Tên để chuyển sang nhạc Thánh. Khi trở lại Việt Nam, trước hiện thực mới mẻ và ngổn ngang của cuộc mưu sinh – nhất là mưu sinh của người dân nghèo, cơ nhỡ, bất hạnh, ông đã quyết tâm xây dựng hệ thống Nhà Tình thương Teresa tại Tổ quốc – mở đầu là ở Huế; đồng thời, ông tìm lại được mạch nguồn sáng tác mới của mình, hàng loạt bài Tình Khúc Không Tên mới lại ra đời – mà nội dung chủ yếu, nguồn cảm hứng cơ bản chính là Tình Thương. Ông Vũ Thành An có lần từng nói: “Cuộc đời như đại lộ không đèn”, thì ông đã cùng Cộng đoàn Teresa và Hội thánh Dismas thắp lên những ngọn đuốc của Tình yêu từ trái tim, nhằm góp phần xoa dịu những nỗi đau nhân thế và âm thầm thực hiện cái sứ mệnh trăn trở với bao thế hệ người Việt Nam là Hòa hợp - Hòa giải dân tộc thực sự…
Bắt đầu từ Giáng sinh này, con hãy coi đêm Noel là một lần cả Nhân loại được nhắc nhở và cảnh báo về Tình Thương – Tình Thương cần thiết ra sao và đang bị truy lùng, bị đe dọa giết chết thế nào…
Đêm nay, đọc hộ con mấy câu tình cờ bố đọc được trong KINH THÁNH:
“Hỡi các người, Danh dự của ta sẽ bị sỉ nhục cho đến bao giờ
Các người ưa thích chuyện hư không và tìm kiếm điều dối trá cho đến chừng nào?”
“Kẻ ác kiêu căng săn đuổi người khốn cùng
Nguyện họ sa vào mưu chước chúng bày ra”.
“Các dân đã sa xuống hố mà chúng đã đào;
Chân của họ mắc vào lưới mà chúng đã giăng
Kẻ ác bị mắc bẫy do chính tay chúng đã gài”.
(THI THIÊN)
“Khi xứ sở loạn lạc
Thì có nhiều lãnh tụ
Nhưng nhờ một người hiểu biết, sáng suốt
Đất nước sẽ bền vững lâu dài”.
“Người công chính biết quyền lợi của người nghèo khổ
Còn kẻ ác không hiểu điều tri thức ấy”.
“Khi kẻ ác tăng thêm thì tội lỗi cũng gia tăng
Nhưng người công chính sẽ thấy sự sụp đổ của chúng”.
(CHÂM NGÔN)
(Kinh Thánh – Cựu ước và Tân ước, Bản truyền thống hiệu đính – NXB Tôn Giáo 2011).
(*Bộ phim Âu – Mỹ hợp tác sản xuất: "Command Performance" của đạo diễn Dolph Lundgren - sang Việt Nam có tên: “ Buổi hòa nhạc đẫm máu”) kể về một buổi hòa nhạc từ thiện ở Nga trở nên đẫm máu khi bọn cướp có vũ trang bắt những ngôi sao nhạc pop hàng đầu của Mỹ và Tổng thống Nga cùng với gia đình ông ta để làm con tin…)
Ngày…
Trong những ngày tên Sa Hoàng mới cho tàn phá đất nước Ukrraine xinh đẹp, bố bỗng nhớ đến kiệt tác kỳ lạ “Những linh hồn chết” của N. Gogol - văn hào người Ukraine, một bậc thầy của văn học Nga nửa đầu thế kỷ thứ 19, lát nữa sẽ tìm ngay cho con đọc. “Những linh hồn chết” đã mô tả một cách xác thực xã hội Nga thời nông nô với tầng lớp thống trị đáng ghê tởm, với “những linh hồn chết” giữa địa ngục trộn lẫn dương gian - nơi con người chỉ là nô lệ, những thân xác không có linh hồn, nơi lương tri và tự do bị tước đoạt tàn tệ. Tsitsikov, nhân vật chính của tác phẩm với những chuyến phiêu lưu đầy phi lý khắp nước Nga để mua những tá điền, những nô lệ đã chết nhưng chủ đất chưa khai báo, chưa xoá tên trong sổ với mục đích cầm cố, vay tiền nhà nước và bịp người khác, thông qua các địa chủ tham lam, nhàn rỗi, bóc lột nông dân một cách dã man… Cuốn tiểu thuyết trên mang tính cảnh báo sâu sắc, mạnh mẽ đối với những ai đã/ đang đánh mất lòng Nhân đạo, nhắc người ta nghĩ tới một nhân vật lịch sử hiện đại đang tạo ra những binh đoàn của “những linh hồn chết” kiểu mới gieo rắc sự tang thương cho con người…
Nhiều người lớn hôm nay trên thế giới, và ở nước ta cần/ có thể tim thấy lời cảnh báo đó của Gogol trong tác phẩm này: “Làm sao mà con người lại có thể sa đọa đến thế, trở thành hèn hạ đến thế, đê tiện đến thế?… Người thanh niên hăng hái hôm nay trông thấy ông lão là hình ảnh của nó một ngày kia, mà ghê sợ. Khi từ giã những năm tháng đáng yêu của tuổi trẻ, bạn bước vào con con đường gay go của thời trung niên, bạn hãy mang theo, làm tiền ăn đường, những tình cảm nhân đạo đầu tiên của bạn; nếu không, bạn sẽ chẳng tìm thấy được những tình cảm ấy nữa. Tuổi già đe dọa bạn, cái tuổi già khốc liệt không để cho ta lấy lại bất cứ cái gì ta đã trót bỏ đi. Nấm mồ còn rộng lượng hơn, vì trên mộ người ta còn đọc được mấy chữ: “Ở đây an nghỉ một người”, còn trên những nét ảm đạm và lạnh ngắt của tuổi già vô nhân đạo, ta chẳng đọc được gì cả” (Những linh hồn chết - Hoàng Thiếu Sơn dịch, NXB Văn học, 2001, tr.199).
Ngày…
Con hỏi bố: NƯỚC NGA ĐANG XÂM LƯỢC UKRAINE LÀ NƯỚC NGA NÀO?
Thì đây, câu trả lời tốt nhất là do chính những nhà điện ảnh Nga trung thực, từ gần chục năm trước - qua một số bộ phim dòng “hiện thực ám ảnh”, tiêu biểu là phim “Quái vật Leviathan” ( sản xuất năm 2014), bộ phim được sự hỗ trợ tài chính của Bộ Văn hóa Liên bang Nga, đã đoạt giải kịch bản phim xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes 2014, và sau đó đoạt hàng chục giải thưởng danh giá tại các Festival Film khác.
Đó là nước Nga đang nuôi dưỡng bọn cầm quyền địa phương với quyền lực vô hạn, không có đối thủ, và có khả năng điều khiển cả Trung tâm: trong bộ phim, những kẻ như viên Thị trưởng Vadim và đồng bọn “mafia”, đã bằng mọi thủ đoạn nhằm hạ gục anh thợ Kolia và người vợ trẻ Lilia để chiếm đoạt đất đai và thao túng xã hội… Nhưng trong một bài viết dài và uyên bác, một nhà phê bình phim tên tuổi Nga đã cố tình lờ đi cái biểu tượng Quái vật Leviathan chính là ám chỉ một chính thể xa rời các mục tiêu nhân đạo mà họ vẫn rêu rao (Rất vui là sau đó, chính nhà phê bình phim này đã chạy trốn khỏi nước Nga và những lời đe dọa của ông Tổng thống đòi trừng phạt những ai nói lên sự thật!).
Leviathan là gì? Trong Kinh Cựu ước, Leviathan được nhắc tới nhiều lần, là tên của loài thủy quái điển hình của các sức mạnh chống lại Chúa. Trong các chuyên luận về triết học chính trị (tiêu biểu là tiểu luận ‘‘Leviathan’’của nhà triết học Thomas Hobbes), Leviathan thường tượng trưng cho Nhà nước – cái Nhà nước tự ban cho mình quyền lực tối cao tuyệt đối, sánh ngang Chúa trời, tựa một con quái vật độc đoán, tàn ác, chuyên quyền, mặc sức hoành hành không chút từ tâm. Trong phim, bên cạnh hình tượng Thủy quái khổng lồ luôn ám ảnh số phận các nhân vật, là bọn mặc áo thầy tu hiện đại có vẻ mặt đạo mạo, trang trọng, nhưng tâm hồn đã bán đứt cho quỷ sứ! “Quái vật Leviathan” hiện đại ấy đã thâm nhập vào đời sống – trong gian phòng làm việc của Thị trưởng Vadim tàn ác, ở phía sau hắn là ảnh Lãnh tụ nhà nước như một thứ “bùa hộ mệnh”, như “bảo kê” cho những lời lẽ đe dọa của Thị trưởng với cấp dưới-đồng bọn và với người hắn sẽ đè bẹp bằng mọi giá khi đụng chạm tới quyền lợi và quyền lực của hắn.
Trong Wiki Nga giới thiệu về bộ phim “Leviathan” có dẫn nhận định của nhà nghiên cứu văn hoá Nga Boris Paramonov về sự liên hệ giữa Leviathan trong phim và cuốn sách của triết gia Hobbes: hình tượng bộ xương cá voi trên bờ biển phản ảnh thực tế khắc nghiệt: nhà nước (chính quyền, thần quyền và xã hội dân sự) với chức năng cao cả là hướng dẫn và bảo vệ con người nơi trần thế ĐÃ CHẾT trong xã hội Nga hiện đại, nơi chỉ có sự lộng quyền của những kẻ tội phạm đang ngự trị!
(Con gái xem toàn bộ bài viết về phim “Leviathan” của bố: http://vanviet.info/.../tu-anh-hng-ilia-muromet-toi-qui.../)
Ngày…
Con hỏi bố: “Hôm qua bố có nói về một nhà phê bình điện ảnh Nga nào đó đã chạy trốn khỏi nước Nga đang xâm lược đất nước Ukkraine. Vì sao? Ông ta là ai thế ạ?” Con đọc bài này của bố:
QUYẾT ĐỊNH CỦA MỘT NHÀ PHÊ BÌNH PHIM DŨNG CẢM
Cái tin: nhà phê bình điện ảnh, tổng biên tập Tạp chí “Nghệ thuật điện ảnh” của LB Nga Anton Dolin quyết định rời khỏi nước Nga sau 10 ngày nước Nga xâm lược Ukraine, tôi được biết đồng thời với tin: “Chính quyền Nga hôm thứ Sáu 04/03, đã thông qua một đạo luật mới ngăn chặn "thông tin sai lệch", “tin giả” về cuộc chiến ở Ukraine, mà người bị kết tội có thể bị xử phạt tối đa 15 năm tù”.
Trong bài viết “Tôi không còn ở đây” (nhà văn Trần Hậu cung cấp), nhà phê bình Nga thổ lộ nguyên nhân rời Tổ quốc: “Không thể sống trên một đất nước, thậm chí là thân thuộc và yêu dấu, nơi bạn bị khóa miệng. Đặc biệt là đối với một người chỉ có công cụ duy nhất là ngôn từ”.
Thế là tôi chợt nhớ lại các bài phê bình phim của Anton Dolin đối với hai bộ phim “Leviathan” và "Thiếu tình yêu" trên Fb Khoảng lặng nước Nga. Tôi có tâm sự với người dịch là chị Phan Bạch Yến và một số bạn đồng nghiệp: người trong nghề lẫn ngoài nghề đều phải kính nể trước sự uyên bác, tinh tế của nhà phê bình này trong các bài viết; song nếu ai có dịp xem kỹ hai phim trên, sẽ thấy nhà phê bình đã cố tình né tránh những điều có liên quan tới bản chất thật sự của chính quyền - sự thật khủng khiếp về những kẻ điều hành quốc gia đang dung túng, nuôi dưỡng những “quái vật Leviathan đời mới”…
Tôi đã viết hai bài về hai bộ phim Nga trên cùng bức xúc của mình về thái độ lảng tránh của nhà phê bình danh tiếng nọ: “Từ anh hùng “Ilia Muromet” tới quái vật khổng lồ “Leviathan” (Xem bộ phim Nga “Leviathan” 2014) và “Sự tiếp nối của “Leviathan”: Thời đại trống vắng tình người (Xem bộ phim Nga "Нелюбовь", 2017). Kết luận của tôi về phim “Leviathan” cũng có thể nói về xã hội Nga hiện đại trong hàng loạt phim Nga khác, như: Yarik, Aika, Thiếu tá, Xạ thủ Vorosinhov, Cửa hàng thực phẩm số 1, Thằng điên, v.v: “Mặc dù chính quyền trong phim “Leviathan” vẫn nhân danh chính quyền dân chủ, có luật pháp, song người xem thấy rõ đó là chính quyền sẵn sàng đạp lên luật pháp, và ngang nhiên tự vỗ ngực: “Chính tao là luật pháp, và được Chúa che chở”! Đó là thứ quyền lực của kẻ cầm quyền trong xã hội hiện đại mang chất man rợ nguyên thủy, giống Leviathan – biểu tượng của địa ngục trong Kinh Thánh, dường như bất khả xâm phạm, có lẽ chỉ bị tiêu diệt trong ngày Tận thế… Chính quyền đó, đại diện là viên Thị trưởng – kẻ với bản tính khôn ngoan như sói và hung dữ như quái vật trong truyền thuyết, sẵn sàng bóp chết mọi sự chống đối mà vẫn tồn tại trong lòng dân chúng mê muội như một nhà lãnh đạo Kính Chúa – Thương Dân! Hắn cùng với quyền lực như “Chúa Trời” đó mới là hiện thân của Leviathan, mà nhà phê bình Nga danh tiếng nọ đã không dám vạch ra!
Và thế là tôi hiểu: vì sao nhà phê bình đáng kính Anton Dolin đã buộc phải né tránh, tảng lờ những sự thật kinh khủng nằm trong các hình tượng nghệ thuật; và giờ đây càng thêm kính nể ông, khi ông đã tìm cách “ly khai” khỏi cái thế lực đã “bịt miệng” ông và những ngòi bút trung thực, để ít nhất là cho những người xem phim bình thường như tôi khỏi áy náy, băn khoăn về thái độ cần có mà không thực hiện được của nhà văn - nhà phê bình trước sự thật trong một xã hội toàn trị độc tài…
Không dám vạch ra sự thật, song sau đó nhà phê bình phim đã có một quyết định sáng suốt và dũng cảm! Hoan nghênh ông!
Ngày…
Quanh sự kiện “Chiếc xe nôi Ukraine” bố nói hôm nọ, là câu chuyện giữa bố và một sinh viên đạo diễn cũ, giờ là phó giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình một tỉnh miền núi, “hạ sơn” về Thủ đô - con cũng biết anh ấy trong một lần đến nhà mình để bố hướng dẫn làm phim Tốt nghiệp, và con cũng tham góp vào cuộc trò chuyện này (dù chỉ bằng ánh mắt mở to và cái gật đầu tán thưởng). Giờ bố miêu tả lại, như kiểu xi-nê mồm quen thuộc của bố: Quanh quẩn một lúc những chuyện chỉ thầy trò mới biết, lại nhảy ngay sang chuyện nóng chiến sự Nga - Ukraine. Bố nói vui: “Chẳng mấy khi bản Đài “xuất tướng”, em vốn là một đạo diễn - phóng viên giỏi, hành nghề đi thôi, thầy có sẵn máy quay và mic chuyên dụng đây!” Chẳng ngờ anh ấy hào hứng: “Hay quá thầy, em cũng đang muốn thực hiện một phóng sự về dư luận - phản ứng của dân ta về cuộc chiến này cho khán giả miền núi… Thầy sẽ là nhân vật đầu tiên của chúng em! Đồ nghề lúc nào em cũng mang theo!”. Bố biết mình đã trót dại, song chẳng còn cách nào khác, đành chỉnh sửa qua loa cổ áo nhàu nát sau những ngày nằm bẹp đọc sách và gõ kịch bản - trong khi cậu ta xăng xái chuẩn bị…
Bố bảo: “Nhưng này em, có những vấn đề nhạy cảm lắm, lại liên quan tới “nhóm lợi ích chính trị” trong cách nhìn nhận về Nga và Ukraine. Hôm trước, thầy chỉ mới đưa lên hình ảnh bé gái Nga chắp tay khóc như cầu xin các vị “đầu têu” chiến tranh, cùng mấy lời cảm ngôn, thế mà đã có những lời hằn học, chửi rủa cay độc, như: “Diễn vậy đủ rồi, mồ cha không khóc đi khóc đống mối” – “Cái bác nhà thơ này. Bác nghĩ bác là thiên thần đầy nhân ái còn người ta là ác quỷ thích hút máu người thì phải. Chính phủ nào mà chuyện gì cũng phải tâm sự mặn với từng người dân được, phải ghé tai với từng ông văn nghệ sĩ mộng mơ như bác để giải trình cái việc người ta phải làm? Bác nghĩ người ta điên hay tâm thần hoặc rảnh quá lại phải điều quân đội đi cả đống con người vất vả, dù biết thừa là sẽ phải đau đầu đối phó với cả đống lệnh cấm vận? Bao người sẽ phải chết? Chiến tranh là trò đùa à? Rồi nghe đến cả triệu thằng dân đen chẳng biết đầu cua tai nheo ra sao chửi bới rủa xả, cộng thêm một đống những ông nhà văn nhà thơ cám hấp lẻn chửi kháy người ta nữa?” - “Trước hết cháu nên gửi cho thằng này và chính phủ của nó cùng bầy đàn đang hùa theo. Sau nữa là gửi cho thằng tác giả. Khi trẻ em các nước Nam Tư, Afgan, Lybia, Syria, Iraq bị dội bom lên đầu thì thằng chó đó nó ở đâu. Bọn đạo đức giả chó hùa!” - “Hôm qua Putin có nói rằng: mạng sống của 14000-15000 người dân và trẻ em Donbass bị Ukr. giết, họ là chó hoang à mà các người im lặng”. Vậy, có ai từng thương khóc cho những đứa trẻ ở đấy không? Từng gào lên đòi công lý cho họ không? Hay mạng của người này là vàng còn mạng của người khác là rác?”, v.v. Đó là nhóm FB “Matxcơva-tình yêu của chúng ta” (Москва-наша любовь) – chắc hầu hết là những người từng học hay làm việc ở Liên Xô, đại diện cho số đông người ủng hộ Putin và cuộc xâm lược của Nga hiện nay. Chẳng trách họ, bởi ngay cả một số vị tướng tá nhà ta, kiến thức và bản lĩnh chính trị đầy mình mà cũng có não trạng như thế - cái não trạng bị nhồi sọ, chất đầy thói tự kiêu tự mãn đáng phì cười, thậm chí còn vô tình ảnh hưởng cả chủ nghĩa sô vanh và chủ nghĩa phát xít mới của người ta mà không tự biết…
Nhưng thôi, thầy trò ta hẵng tạm quên cái đám đông “cuồng Pu” và cả cái ông Tổng thống “cuồng chiến tranh” kia, để trò chuyện về nghề nghiệp cho vui. Mà vẫn không xa rời thời sự, như chức năng nhiệm vụ của các Đài địa phương và Đài Trung ương. Như thế, thầy và em sẽ đỡ bị “ném đá” thảm khốc, thầy đỡ bị vu là “nhà thơ nhà thẩn”, còn công sức lao động của em sẽ dễ được duyệt để phát sóng… Ví dụ, lấy cái hình ảnh này làm chi tiết trung tâm: những chiếc xe nôi tại nhà ga của những bà mẹ trẻ ở Ba Lan để sẵn dành cho phụ nữ trẻ tị nạn có con nhỏ từ Ukraine tới…”
NGƯỜI PHỎNG VẤN:
Tuyệt lắm thầy! Trên trang của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn mới đưa bài báo của nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế Nguyễn Văn Vĩnh, phàn nàn: “Nga đánh vào Ukraine mà nhóm phóng viên đang thường trú tại Moscow của VTV lại không hề có một thông tin nào đặc biệt "tại chỗ" cả. Có chăng là cứ ngày vài lần một chị phóng viên hiện hình, với sự xào xáo tin tức từ các bản tin quốc tế của nước khác…” Nếu là em… với tư cách là phóng viên mặt trận…
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN (Ngắt lời):
Nếu là tôi, tôi cũng vứt máy quay và bút để cầm lấy khẩu súng cùng đàn ông đàn bà Ukraine bảo vệ đất nước của họ…
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Ôi, máu thế, thầy! Nhưng khi chưa tìm được súng, và chưa được người có trách nhiệm quân sự đồng ý, với máy quay trong tay cũng là một thứ vũ khí, em sẽ ghi lại thật nhiều hình ảnh về sự ngoan cường của người dân - cả trẻ em nữa, trong việc ngăn chặn những bước chân xâm lược…
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Thế nhà báo - đạo diễn trẻ quên mất quy ước giữa chúng ta là chỉ xoay quanh những chiếc xe nôi à? Cũng lỗi tại tôi trước…
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Em bỗng nhớ tới bộ phim kinh điển "Chiến hạm Potemkin" mà thầy bắt chúng em phải xem học tập ở năm đầu, có cảnh người mẹ trẻ bị đạn bắn trúng bụng, chị ta ngã xuống và sau đó chiếc xe nôi có một em bé liền tự lăn xuống các bậc đá của Cung điện, qua các xác người cùng những bước chân lính Sa hoàng dẫm lên xác người…
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Được đấy, liên tưởng khá hay, và nhất là nhắc khéo người ta sự trùng hợp giữa Sa hoàng xưa với Sa hoàng nay... Nhưng một đằng là biểu tượng của sự chà đạp - bỏ rơi quyền sống của trẻ thơ, một đằng lại là biểu tượng của tình hữu ái giữa Con người hiện đang mất dần đi trong thế giới bạo tàn này… Nếu cảnh những con sư tử đá trong phim “Chiến hạm Potemkin” như chồm lên được dựng theo lối montage độc đáo của Eisenstein, thì cảnh chiếc xe nôi đơn độc trôi đi, nhảy xuống từng bậc đá là cảnh thực - có điều, nó đã được phát hiện bởi một trái tim nghệ sĩ lớn, và được miêu tả không phải bằng ống kính khách quan lạnh lùng… Và thầy hy vọng là em sẽ liên tưởng tới cả những điểm sửa xe miễn phí, điểm nấu hàng trăm suất ăn, những chốt phát tiền cho bà con về quê trong cuộc tháo chạy khỏi Sài Gòn trong đại dịch năm ngoái…
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Thú thực, em tới thăm thầy lần này một phần cũng bởi đọc được một stt. của thầy hôm trước viết về những Tấm lòng nhân hậu Ba Lan: “Đó là Đất nước của nhạc sĩ thiên tài F. Chopin, của nhà thơ vĩ đại Adam Mickiewicz, của văn hào đoạt giải Nobel Henryk Sienkiewicz… Đất nước từng bị bọn phát xít đày đọa, dựng lên bao trại tập trung rùng rợn, lò thiêu người, đất nước đã cùng các binh đoàn Hồng quân Xô Viết sát cánh tiêu diệt từng tên lính dã thú đeo thập ngoặc… Lòng Nhân hậu Ba Lan được nhân lên trong những cơn “Đại hồng thủy” – như tên một tác phẩm của Sienkiewicz, duy trì cho tới hôm nay, để vô tư, hết lòng cưu mang người dân lành của nước bạn đang lâm nguy… Tôi đã chảy nước mắt xúc động, và bởi niềm vui nữa, trước lòng Nhân hậu cao cả của người dân Ba Lan - trong một thời đại sắt máu, trống vắng tình người, khi mà tham vọng của những kẻ độc tài đang là mối đe dọa khủng khiếp của Hòa Bình”. Và hôm nay lại nghe thầy nói về những chiếc xe nôi Ba Lan cụ thể dành cho các bà mẹ trẻ Ukraine chạy nạn…
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Hiện tại, thầy chỉ là dân làm phim viết báo tự do, đã ở “Dưới đáy” (tên một tác phẩm của M.Gorki) của giới báo chí - nghệ thuật, còn em dù là lãnh đạo của một Đài thì cũng chỉ là tỉnh lẻ; và tiếng nói của báo chí – nghệ thuật nói chung ở nước ta xét cho cùng chỉ là tiếng nói cần phải được “định hướng cho mục tiêu chính trị”, vì vậy em đừng có tham vọng gì quá sức mà để thất vọng… Có điều, chúng ta có một thứ “vũ khí” riêng, đó là sức mạnh của hình tượng nghệ thuật để nói về nỗi khổ đau chất chồng và nghị lực sống phi thường của dân tộc mình. Hơn thế, các vị lãnh đạo lớn của ta chẳng đã khuyến khích nhà văn ta phấn đấu đoạt giải Nobel trong văn học (và dĩ nhiên là cả giải Oscar hay Canne trong điện ảnh) là gì! Các ông ấy có lý đấy, bởi bao lâu nay cứ tự hào chiến thắng hết giặc này đến giặc nọ (kể cả thắng «thế lực thù địch» tưởng tượng), đâm ra cũng hơi bẽ bàng, bởi trên bản đồ Văn học - Điện ảnh - Văn hóa thế giới chẳng thấy Việt Nam đâu cả - ngoài mấy cái đồ mây tre đan, thổ cẩm trong vài cuộc triển lãm vội vàng của các Đại sứ quán nhằm báo cáo thành tích…
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Vâng, em hiểu… Nhưng liên quan gì tới câu chuyện “Những chiếc xe nôi Ba Lan” kia ạ?
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Có đấy em! Nếu một nhà sản xuất phim kiểu “Ông hoàng Hollywood” (tên tác phẩm của F. Scott Fitzgerald) xuất hiện, họ sẽ đưa tấm hình “Những chiếc xe nôi Ba Lan” đang chờ đợi người tới nhận kia như một ý tưởng hay (không phải mua bản quyền) cho các nhà biên kịch & đạo diễn phù hợp để hình thành kịch bản điện ảnh, rồi làm thành phim ăn khách. Cái chất ăn khách của họ thực ra gắn chặt với giá trị nhân bản toàn cầu và tâm lý mong đợi ở khán giả Mỹ và khán giả khắp thế giới… Trong lúc chưa có một nhà sản xuất như vậy (ở Việt Nam ta thì chẳng biết bao giờ có), thầy thử “đặt hàng” em và Đài bên em, sẽ hay hơn đứt tất cả những phim điện ảnh & Truyền hình nước ta đã “ăn theo” kịch bản nước ngoài một cách sống sượng và đáng xấu hổ:
Bối cảnh nhà ga vắng tanh. 7 chiếc xe nôi như “7 võ sĩ đạo” (phim Nhật). 7 người mẹ trẻ Ba Lan, 5 người không hề quen biết nhau, không hẹn mà cùng tới nhà ga chưa có chiến sự nọ - nơi họ đoán chắc sẽ có những người mẹ Ukraine ôm con tới đây để chạy qua biên giới. Trong số đó, có đến 4 người là cháu của các cựu binh đã hy sinh trong tận chiến chống phát xít, họ thấm hiểu nỗi khổ chiến tranh qua bố mẹ, ông bà. Có hai cô, sau khi để lại xe nôi, đã gửi con mình cho bạn gái mới quen, để ra trận cùng chồng chống xâm lược… Rồi những người mẹ trẻ Ukr. ôm con chạy tới đây, mỗi người một số phận, và đã thể hiện sự xúc động, lòng biết ơn của từng người với những chủ chiếc xe nôi không gặp mặt kia ra sao… Một tình tiết này khá thú vị: số người mẹ trẻ Ukr. có con nhỏ là những 10 người, trong đó chỉ có 7 chiếc xe nôi. Sự nhường nhịn tất yếu của họ, nhường nhịn một cách tinh tế, không ra vẻ đàn chị, cũng là một bài ca của lòng nhân hậu – tiếp nối sự nhân hậu của những bà mẹ trẻ Ba Lan…
NGƯỜI PHỎNG VẤN
Thực quá hóc đối với em, và với Đài tỉnh lẻ của em. Chắc ngay cả Đài TW cũng khó mà thực hiện nổi… Nhưng em cũng cám ơn thầy…
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN
Thực ra thầy trò ta phải cám ơn những người dân Ukr. đang đổ máu cho không phải chỉ Đất đai, Tổ quốc của họ, mà còn cho cả nhân loại yêu Hòa Bình… Và Những chiếc xe nôi này không chỉ là một gợi ý đề tài cho những người làm phim, mà còn là lời kêu gọi hữu ích đối với những người tâm hồn đã bắt đầu nguội lạnh với số phận Con người…
Khi trái tim nguội lạnh, nhỡn tiền là sự xuất hiện HỘI CHỨNG SÚC SINH đó, con gái ạ! Hôm qua, những cái tát kinh hoàng trút vào các em học sinh PTCS đáng thương vô tội, sau hàng loạt vụ học sinh TH hành hạ lẫn nhau, các sự bạo hành với trẻ mẫu giáo, v.v, có thể nói chỉ là những nhọt bọc lâu ngày tới lúc vỡ tung mủ, hé toang cho xã hội thấy sự bất ổn, hỗn loạn, sai sót trầm trọng của cả ngành Giáo dục trên các mặt Cơ chế, Tổ chức, Chính sách, Triết lý giáo dục… cần phải thay thế, làm lại tất cả.
Ngày…
Sau khi bố đưa lên đoạn trích của Đài “CNN” Mỹ: “LỜI KHAI TỪ CÁC TÙ BINH CHIẾN TRANH vạch trần hành động phi lý của quân đội Nga”, có một bình luận đáng chú ý: “Tuyền thông phương tây 90% là sai”. Bố trả lời: SỰ THẬT Ở ĐÂU? THẾ NÀO LÀ SỰ THẬT?
Phải, nếu đứng ở góc nhìn của truyền thông Nga đang bịt miệng người dân hiện nay, thì tuyền thông phương Tây sai đến 99% ấy chứ!” Tưởng thế là xong, thì bạn đó tiếp lời: “Họ cấm đưa tin không có thật”. Vì thế, tôi đành “đâm lao phải theo lao”, có đôi dòng mong giúp nhiều người trẻ - trong đó có con gái tôi nhiều nhà báo trẻ hiểu thêm bản chất vấn đề.
Xin thưa trước ngay một điều: các hãng truyền thông phương Tây tồn tại chủ yếu bằng độc giả, khán giả, và không được “nuôi bằng ngân sách Nhà nước” (dĩ nhiên trừ vài ba Hãng truyền thông có chỗ dựa lưng của một tập đoàn tài phiệt nào đó để làm công cụ cho họ), và các nhà báo phương Tây bắt buộc phải chạy đua bằng các tin tức sớm nhất và đúng sự thật nhất. Nếu họ cố tình, hay vô tình đưa tin sai sự thật, thì sự nghiệp của họ đi tong, nồi cơm bị tự mình đập bỏ, Hãng truyền thông bị tẩy chay liền tắp lự! Điều đó cũng gắn liền với danh dự nghề nghiệp, đôi khi bằng cả mạng sống nữa - như trường hợp mới nhất là Brent Renaud, nhà báo kiêm nhà làm phim người Mỹ khi lăn lộn tác nghiệp nơi khói lửa để phản ánh chiến sự Nga - Ukr. một cách trung thực nhất, đã bị bom đạn Nga giết chết!
Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm “Quyền lực thứ tư” cả thế kỷ nay gắn với Truyền thông (presse) như báo chí và truyền thanh, và giờ gồm cả Internet như blog, mạng xã hội - Facebook, Twitter và Youtube… Trong hệ thống chính trị phân chia quyền lực, bên cạnh hành pháp, lập pháp và tư pháp, thế là còn có “quyền lực thứ tư”. Thomas Carlyle mô tả trong cuốn sách ”On Heroes and Hero Worship” (Về các anh hùng và việc sùng bái anh hùng): "Burke nói rằng có ba đẳng cấp tại Quốc hội, nhưng, trong phòng Phóng viên, có ngồi một đẳng cấp thứ tư quan trọng hơn nhiều so với tất cả ". Học giả Pháp, Alexis de Tocqueville, trong tác phẩm “De la démocratie en Amérique” (Từ nền dân chủ Mỹ -1833) xác định bốn quyền lực, và rất coi trọng Quyền lực của báo chí - truyền thông đối với chính quyền và xã hội, trong việc kiểm soát, bổ sung và cải chính những sai sót mà cả hệ thống điều hành- quản trị quốc gia cùng các đảng phái vấp phải.
Còn với những Hãng truyền thông ở các xã hội không có “Tam quyền phân lập”, hay có chỉ là hình thức, việc truyền thông có “định hướng” cao nhất là để làm lợi cho chính thể đó (cùng các cá nhân của nó), thì nói như bạn rằng: “Họ cấm đưa tin không có thật” là một trò đùa, chứng tỏ bạn ngây thơ thật hoặc vờ ngây thơ. Nếu họ quả tôn trọng sự thật với tiêu chí “cấm đưa tin không có thật”, thì nữ nhà báo Nga Marina Ovsyannikova có hai con nhỏ, cầm bảng phản đối chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine ngay trên sóng truyền hình trực tiếp của kênh tin tức quốc gia, dù biết trước lệnh trừng phạt “đưa tin sai sự thật” là 15 năm tù - sẽ được tôn vinh là “Anh hùng” không kém nữ Anh hùng Zoya năm xưa!
Ngày…
Những ngày con ôn thi tốt nghiệp THPT, bố đi làm phim phía Nam ra thì bị nghi dính F0, phải cách ly cả nhà nằm trên gác ba và viết: CÔ ĐỘC TRONG NHÀ VÀ CUỘC TRÒ CHUYỆN VỚI MẸ. Có đoạn này liên quan đến thời sự chiến tranh, con đọc vui:
“…Nhưng điều hắn phấp phỏng lo sợ là những cuộc cãi cọ quanh chiến sự Nga - Ukraine sẽ nổ ra trong ngôi nhà này, ngôi nhà bé nhất trong ngõ song cũng được gọi là “ngôi nhà hạnh phúc” hay “ngôi nhà tạm hạnh phúc”, hay “hạnh phúc trong giờ nhất định”. Tuy vậy, nhờ giời, cuộc cãi cọ bằng điện thoại, bằng lời la hét ném từ tầng trên xuống tầng dưới tới độ mạt sát, lăng mạ nhau về cái vụ thời sự nóng kia - như hắn nghe được từ bên hàng xóm - đã không xảy ra với vợ chồng hắn. Cũng bởi cô ta mệt nhoài với việc nhà, với con cái, với mẹ hắn đang nằm liệt, và cả với hắn nữa, nên chẳng còn hơi sức đâu quan tâm đến thời cuộc. Nhưng nếu cô ta mà biết được hắn đã bị ném cả một “rổ đá” từ hạ cấp bẩn thỉu nhất đến thâm thúy cay độc nhất sau khi đưa lên FB tấm hình bé gái Nga đẫm nước mắt chắp tay cầu xin người lớn đang làm chiến tranh - nghĩa là rất “trung dung” - thì nhất định cô ta sẽ nhảy dựng lên, không phải vì cô ta hay người nhà bên ngoại thuộc phe “gây chiến tranh”, “ủng hộ kẻ đầu têu chiến tranh”, mà là vì - theo “ngôn ngữ kinh điển” của cô ta: “Ông đừng dính đến chuyện phản biện gì gì, đi ngược lại chính thống! Con gái ông sắp thi đại học rồi đấy, ảnh hưởng tới nó, nó oán ông cả đời!”
Ngẫm lại, và nếu thật thà để khai báo với cô ta thì cái “phản biện” cao nhất của hắn chỉ là lên án việc phá rừng, và nói về quá khứ của một số vị Nhân văn giai phẩm là bạn hoặc đối tượng hâm mộ của bố hắn, giờ đã được an ủi hết bằng giải thưởng Nhà nước! Mới có thế mà đã xù lông nhím lên, còn nếu như cô ta đọc được “âm mưu” của hắn trong việc dạy dỗ hai con gái hắn, thì không biết chuyện động trời gì sẽ xảy ra. Hắn phải tìm cách làm ra vẻ “ngoan ngoãn” nghe lời vợ mà không trở thành kẻ dối trá - điều khiến hắn hao tâm tổn sức không ít, trước hết là vì mẹ hắn… (https://vietvanmoi.fr/index3.9202.html)
Ngày…
Hôm qua, một số học trò cũ/ mới của bố có hỏi: Trong rất nhiều bài viết trong nước & nước ngoài gần đây, nhân vật lịch sử Peter Đại đế đã được nhắc đến với tần suất cao, gắn chặt với “Sa Hoàng” Vladimir Putin ngày nay, và khẳng định: Peter Đại đế là người anh hùng của Putin! Vậy Peter Đại đế là ai? Sao lại so sánh với Tổng thống Nga hiện tại?
Bố khuyên các anh chị ấy rằng: có rất nhiều sách vở, tài liệu nói về nhân vật lịch sử này, và để tiết kiệm thời gian đồng thời giải trí nữa, nên đọc tiểu thuyết “Pie Đệ nhất” của A. Tolstoy và cuốn khảo cứu “Pyotr Đại đế - Người Con Vĩ Đại Của Nước Nga” của nhà sử học, nhà văn người Mỹ Robert Kinloch Massie; có thể thêm truyện: “Người Da Đen Của Piốt Đại Đế” của A. Puskin - tất cả đều đã được dịch sang tiếng Việt bởi những dịch giả tin cậy. Riêng cuốn tiểu thuyết “Pie Đệ nhất” thì được tái bản mấy lần – lần cuối mang tên “Piốt Đại đế”. Những sách trên có thể giúp chúng ta hiểu khá đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của một nhân vật lịch sử ngoại hạng: Pyotr I Đại đế (1672-1725), là Pyotr của nước Nga cũ và sau đấy là Hoàng đế của Đế quốc Nga. Là một trong những nhân vật kiệt xuất của lịch sử thế giới và gần đây được nhân dân Nga bình chọn là người Nga được yêu mến nhất mọi thời đại, người đạt thành tựu lớn lao trong công cuộc hiện đại hóa đất nước ông. Ông đã đưa một nước Nga lạc hậu, đi sau Tây Âu dường như hàng trăm năm, trong một thời gian ngắn vượt lên thành một cường quốc khiến cho những nước Châu Âu còn lại phải nể vì. Các cải cách của Pi-e đã hình thành nước Nga trên thực tế và có hiệu lực lớn cho đến năm 1917.
“Pie Đệ Nhất” của A. Tolstoy có một hệ thống nhân vật đồ sộ, nhiều nhân vật được nhà văn miêu tả từ thuở hàn vi, như A. Menshikov – bạn và cận thần thân tín nhất, Anna Mons – người tình Đức của Pie, Ekaterina – hoàng hậu thứ hai và sau trở thành nữ hoàng Ekaterina I, v.v. Nhà văn đã bỏ rất nhiều công sức trong việc nghiên cứu các nguồn sử liệu và các phong tục tập quán, xây dựng sinh động hình tượng vị Sa Hoàng đặc biệt cùng cả xã hội Nga dưới cái nhìn đa chiều - từ điện Kremlin lộng lẫy cho đến túp lều khốn khổ của một gia đình nông dân, từ những người dân Nga hiền lành đến những tên lãnh chúa mất hết nhân tính…
Trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ này có một đoạn rất thú vị về cách tiến hành chiến tranh chớp nhoáng và sự vơ vét binh lính ném vào cuộc chiến giúp chúng ta hôm nay liên tưởng tới quân đội của Sa Hoàng mới tại Ukr :
“Pie: - Ta đã đọc bản bày trận của nhà người, kể thì lý luận đúng đấy… Ta chỉ phản đối một điều: phải chiếm lấy Nacva không phải trong ba tháng mà là trong ba ngày!”
“Đại nguyên soái Oginvư: - … Quả thật tâu bệ hạ, thần có kéo dài thời gian công thành song le cũng vì lý do độc nhất rằng hiện giờ người lính Nga chưa phải là một người lính mà mới chỉ là một tên mujic cầm súng…” (Pie Đệ Nhất - Tập 2, Nguyễn Xuân Thảo & Trịnh Như Lương dịch qua bản dịch Pháp văn, NXB Văn học 1971). Bố sẽ tìm cả hai tập cho con đọc.
Ngày…
Con gái à, qua Tết lục tìm tư liệu, tình cờ bố tìm lại được tấm hình về tượng bé gái Ukraine gầy gò ôm bông lúa giữa một quảng trường – cô bé bằng tuổi em gái con, bố chợt nhớ đến tâm trạng của nhà văn Kertész Imre người Hung trong cuốn sách đau buồn của ông: “Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời”, và hiểu vì sao người từng trải qua địa ngục trần gian khủng khiếp Auschwitz đã quyết định không sinh con, bởi ông thấy rõ rằng ông không có quyền trao tương lai, trao số phận Do Thái cho đứa con chưa ra đời của vợ chồng mình trong một hoàn cảnh phi nhân tính, của xã hội toàn trị phát-xít… Cái hoàn cảnh đó đã lặp lại hôm nay ở nhiều nơi trên trái đất, và khiến không ít người làm cha mẹ ở góc trời Đông Âu khói lửa kia chắc đang trải qua tâm trạng đau đớn của Kertész Imre khi phải thốt lên từ “Không” – quyết định vô sinh đầy tuyệt vọng… Ông nhà văn (được trao giải Nobel văn chương năm 2002) đã viết cuốn sách trên với thôi thúc nội tâm: “tôi không viết để tìm niềm vui, trái lại tôi viết để tìm nỗi đau đớn… có lẽ vì đau đớn là sự thật” (Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời - Giáp Văn Chung dịch, Nxb Lao động 2011, tr.139). Khi con bước vào Đại học, đây là một trong những cuốn sách con cần đọc.
Ngày…
Ngày…
Hôm qua bố về Hạ Long - Quảng Ninh tham dự một Hội thảo về phát triển Du lịch, tình cờ bố được phân ở cùng phòng Khách sạn 5 sao với nhà thơ Bằng Việt. Ông Bằng Việt là bạn học của hai ông Thắng - Khanh của con, là cựu sinh viên luật của tại Liên Xô, nguyên Chủ tịch Hội LHVHNT Hà Nội… Bố có mấy lần được đi theo ông – cố vấn của một Cty văn hóa, đến vài nơi cần tới tiếng nói và uy tín của ông. Nhưng với ông, mọi lần đó, bố chỉ là kẻ “kính nhi viễn chi” – kính mà xa, dù bố đã tự giới thiệu là cháu ruột của bạn ông, và bố đã mê thơ ông từ thời học trò với bài thơ “Bếp lửa” rồi tới các bài “Nói về Pautovsky”, “Trở lại trái tim mình”, “Tình yêu và báo động”... Và dường như, có lẽ bởi vậy mà ông đã coi bố là kẻ cầm bút “vắt mũi chưa sạch” đang tìm cách làm quen với nhân vật nổi tiếng như không ít người ông từng biết. Còn thâm tâm bố vẫn cho rằng ông là “thủ lĩnh” của giới “cuồng Pu”…
Sau khi được chứng kiến một lão thi sĩ - nhà văn hóa ngoài 80 tuổi làm việc cật lực trên Laptop đến gần 12 giờ đêm, tin chắc ở sự minh mẫn của ông, hôm sau bố mới có đủ lòng dũng cảm để rụt rè hỏi ông về thời sự cuộc chiến Nga – Ukraine. Ông đã say sưa nói – với cảm hứng của một thi sĩ lão thành và một người làm công tác quản lý lâu năm, ông lên án cuộc chiến do Tổng thống Nga gây ra là “Tàn ác và vô lý”, ông lấy làm đau xót khi thành phố Kiep mà ông từng sống thời trẻ bị tàn phá bởi giấc mộng Đại Nga điên cuồng ngu xuẩn của Putin! Bố những muốn đọc to lên những câu thơ xưa cũ của ông đã làm tổ trong hồn, bởi chúng gợi trực tiếp và mãnh liệt tới sức mạnh của “lạc thú của văn chương trong những mảnh đất trinh nguyên”* mà M. Proust từng nói – chúng kéo dài qua hai cuộc đại chiến thế giới, qua nhiều biến động lịch sử, cho tới tận hôm nay, giữa mưa bom bão đạn của tên Sa hoàng mới tàn phá các thành phố làng mạc Ukraine; vẫn tiếp tục nguồn cảm hứng vĩ đại của Dostoyeski và các nhà văn Nga thế kỷ XIX: “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”; nguồn cảm hứng văn học đã/ sẽ được nuôi dưỡng bằng cái chết dũng cảm của nữ văn sĩ Iryna Tsvila người Ukraine khi đang ghi chép về những người bảo vệ thủ đô Kyiv và cầm súng cùng họ:
Không ai trở về thời đổ đá
Khi tình yêu tới độ chín đang vừa!
…
Ta quen sống những giờ đột biến
Bỗng sững sờ trước một sớm không đâu:
Thành phố trong mưa. Hoa rắc trên đầu
Hoa mưa nở từng bông trên mái tóc
Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất
Nhưng thuỷ chung như một sắc mai già
Đôi mắt mở to, dịu dàng thấm mát
Sau rất nhiều gian khổ đi qua...
Bây giờ sau tất cả mọi điều
Anh muốn nói một câu gì dữ dội
Nhưng vẫn không tìm ra lời để nói!
Anh chỉ nhìn sắc thắm mùa thu
Thấy hết sự vô duyên và thảm hại của quân thù
Trước tất cả những gì ta sống
Trước một bầu trời, gương xanh lồng lộng
Soi cơn mơ của anh và của em
Của triệu người giao kết một lòng tin.
(Bằng Việt - Tình yêu và báo động 1967)
Bố đã phải cám ơn lão thi sĩ Bằng Việt
(* Dẫn theo: R.M. Albérès. Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu Châu thế kỷ XX (1900-1959). (Vũ Đình Lưu dịch). NXB Văn học, Hà Nội 2017, tr. 27-28).
Ngày…
Con đi thực tập, mấy hôm nay lúc trở về nhà có vẻ mệt mỏi, chán nản. Con cần đọc bài này của bố viết mấy năm trước, giữa những ngày Đại dịch và bà nội con đang đau, may ra giúp con có thêm ý chí:
NGHĨ VỀ SỐNG CHẬM GIỮA NGÀY ĐẠI DỊCH
Sáng sớm, tiếng đàn dương cầm thánh thót vọng tới, như một đôi cánh âm thanh trang trọng đưa tôi ra khỏi giấc mộng nặng nhọc đêm qua… Bản nhạc “Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ” của Mozart mở đầu cho một ngày đầy căng thẳng của cả xã hội trước những diễn biến về đại dịch mỗi lúc một dồn dập trên khắp thế giới… Trong những hợp âm chuyên nghiệp của bà giáo già dạy nhạc hàng xóm, bỗng dưng tôi nhớ đến một bài viết đã rất lâu, của đạo diễn-NSND Đặng Nhật Minh in trên tạp chí “Thông tin UNESCO” viết về Sống Chậm… Triết lý “Sống Chậm” này, thế giới người ta đã nói đến nhiều, nhưng qua một nhà điện ảnh từng trải nghiệm nhiều và sâu về xã hội Việt Nam, nó đã như một lời kêu gọi thống thiết, như một trong những giải pháp hữu hiệu để thanh lọc nội tâm, góp phần chữa lành những vết thương xã hội đang mưng mủ, và mong níu giữ lại cái đạo đức xã hội đang xuống cấp không phanh với tốc độ phi mã! Nhưng phải đến những ngày hôm nay, những điều mà bài báo nói trên nêu ra chắc mới có thể bình thản và chậm rãi lọt vào tai người nghe, như một giai điệu của nhạc buồn Chopin trong đêm vắng…
Chỉ trong mấy ngày vừa qua, cái cuộc sống hối hả, gấp gáp, chen lấn, xô bồ dường như đã trở thành quá khứ xa lắc; người ta vội ra ngoài mua sắm rồi trở về với nỗi lo lắng thành thật cho gia đình mình, cho người dân ở nước Ý, nước Tây Ban Nha… Tốc độ Sống đang chậm lại, giống như một cuốn phim chiếu chậm, đôi khi lại ở dạng Âm bản (négatif), giúp người ta bàng hoàng nhận ra, bằng cả trực giác, những gì là Thật & Giả - mà cái Giả nhiều người thường ngày vẫn đem ra để làm vũ khí tùy thân hoặc ứng xử với nhau… Cái con số hơn triệu người nhiễm dương tính Covid-19 và hàng chục ngàn người đã chết ở toàn cầu, cùng cái không khí đe dọa hơn cả chiến tranh thế giới đang đè nặng lên tâm tư mỗi quốc gia, mỗi con người kia, khiến cho cái tâm lý “tham sống sợ chết thông thường” dần chuyển thành sự tiếc nuối, nhớ thương những gì tốt đẹp của quá khứ mà lắm khi người ta bỏ quên, thậm chí hắt hủi… Tôi nghĩ đó cũng là tâm sự của nhà văn Đức Thomas Mann khi viết cuốn sách “Chết ở Venice” - đã được đưa lên màn ảnh, nhân vật chính Aschenbach cũng đã chết một cách vô nghĩa bởi bệnh dịch trong khi muốn hưởng thụ biết bao vẻ đẹp của thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, con người nước Ý… Cuộc sống của con người thật quý giá, nhất là khi nó đã hiểu và được hưởng Hạnh phúc đích thực, khi nó có dịp sống với hồi ức đau buồn thống khổ để thấm thía cái giá của Hạnh phúc hiện tại… Mà hiểu được những điều đó, đâu phải bằng cách mà các nhân vật trong một phim Mỹ kinh điển: "The Quick and the Dead" (tức là phim "Nhanh thì sống chậm thì chết”), chỉ nhanh hơn nhau tích tắc là lấy đi một mạng người để thành kẻ chiến thắng, có tiền và có người đẹp! Cái thời các nhân vật lưu manh bắn súng lục hai tay nhanh như chớp đó đã qua lâu rồi, nhưng cái thói quen giành giật bằng bạo lực, chỉ huy và thống trị người khác bằng bạo lực đã in sâu trong tập quán của nhiều thế hệ người và nhiều chế độ xã hội! Đại dịch hôm nay cũng có thể coi là một dịp hiếm có để không ít người trên khắp thế giới Sống Chậm lại để tỉnh ngộ đôi điều - ít nhất là tỉnh ngộ về Cái ác do mình hay người khác đã gây ra cho đồng bào, đồng loại. Phải, cần có sự “Chậm rãi” để đạt tới “Bản nguyên”, và sau cùng là “Sự bất tử - như tên ba tác phẩm của nhà văn M. Kundera, người đã thốt lên: “Họ đâu rồi, những con người thong thả của đời xưa”, những con người đã “biến đi cùng với thiên nhiên” ấy là “những con người sung sướng” có khả năng dẫn dắt người ta chạm đến đáy những điều sinh tử của đời sống - dĩ nhiên trên cả bình diện triết học - để sống một cách có ý nghĩa hơn trong cõi đời “sinh ký” này… Đại thi hào Nguyễn Du, trong những ngày bệnh dịch lan tràn khắp Kinh đô Huế, dính bệnh nằm chờ ôn dịch bắt, chắc cũng đã ngẫm nhiều về sự hỗn loạn, bạo liệt của thời thế, về nỗi đau thương đồng bào ông gánh chịu, mà nếu những người cầm quyền chỉ cần tĩnh tâm, hồi tâm đôi lúc thôi chắc sẽ có thêm chút tình thương dân để dân bớt đau khổ; nhưng ông không nói được với ai điều gan ruột này, vì thế đã im lặng ra đi… Tôi thiển nghĩ: trong những mối hận Kim Cổ của ông để lại cho đời, có mối hận đau đáu khôn nguôi là máu và nước mắt của dân lành chưa biết đến khi nào mới ngừng chảy trong những cuộc chém giết huynh đệ tương tàn, tranh cướp quyền lợi và danh vọng của tầng lớp tự xưng là "cha mẹ dân" (dân chi phụ mẫu)… Một nhà nghiên cứu văn học, một nhà Kiều học uy tín đã nói với khán giả, qua ống kính máy quay của tôi : “Thiên tài của Nguyễn Du, trước hết là Tình thương Con người” - theo tôi, đó là một trong những nhận định hay nhất, xứng đáng nhất xưa nay về đại thi hào dân tộc, mà nhờ sự chậm rãi, tỉ mỷ nghiên cứu, vị giáo sư đáng kính đã giúp các học trò và độc giả của ông thấm hiểu một chân lý lớn: cuộc đời Nguyễn Du đã lắng sâu vào mọi kiếp người, cụ nâng niu, trân trọng, xót xa cho mọi biểu hiện nhỏ bé nhất của nỗi khổ đau, kể cả ở số phận một con vật nhỏ bé…
Những ngày này, tôi dần hiểu ra một điều giản dị: Có sự chậm rãi, chuyên tâm, và cả thời gian cần thiết nữa, mới có thể có được sự thẩm thấu, sự lắng đọng, sự chắt lọc tinh túy- như chuyện anh thợ hót rác Samet đã kỳ công nhặt từng bụi vàng để tạo ra “Bông hồng vàng” cho cô bé Suyzan mà K. Pautovski từng rung động kể ở truyện “Bụi quý”… Bố tôi, trong những ngày cuối đời, giữa lúc đau đớn bởi bệnh tật dày vò vẫn kiên nhẫn dạy cháu gái câu ngạn ngữ Latin: “Shi va piano, va sano; shi va sano, va long tano” (Ai đi một cách nhẹ nhàng như tiếng dương cầm, sẽ đi được tốt, ai đi được tốt, sẽ đi được xa).
“Chậm” trong dòng chảy Sống, cũng có nghĩa là Êm đềm, Bình yên, Thanh thản, Tâm tư trong sáng, Trái tim bớt đi những hờn giận, những tham vọng vô nghĩa mà Đạo Phật vẫn gọi là Tham - Sân - Si, còn Đạo Lão thì định nghĩa là “Vô vi”- tức là hãy thuận theo quy luật của tự nhiên, mà cái tự nhiên vốn có dòng chảy êm đềm, hài hòa…
Những ngày Sống Chậm này giúp tôi nhiều lúc dừng lại mạch suy tư trăn trở nghề nghiệp quen thuộc để giật mình, rồi xót xa cho Đồng bằng sông Cửu Long vốn là vựa lúa đáng tự hào của nước ta giờ đang nhiễm mặn một cách kinh hoàng và có nguy cơ trở thành một “Cánh đồng chết” (The Killing Fields, tên một bộ phim Mỹ nói về họa diệt chủng của bọn Kh’mer Đỏ) mà một tác giả VN mới cảnh báo, bởi vì người ta đã vi phạm một cách man rợ những quy luật của Tự nhiên!
Và thốt nhiên tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết “Dịch hạch” (Nguyên tác: La Peste, Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Văn học, 2002) của nhà văn Pháp Albert Camus. Những điều Camus viết về những gì đã diễn ra một thành phố Pháp trên bờ biển Angiêri, trong một nạn dịch hạch hoành hành khủng khiếp vào những năm chủ nghĩa phát-xít đang thống trị toàn châu Âu kia, cũng là những điều tiên báo cho tương lai của nhân loại, buộc con người trong các thời đại, các chính thể xã hội phải suy ngẫm một cách thực sự nghiêm túc về lương tâm, trách nhiệm của mình đối với đồng loại. Những điều tưởng bình thường, xa lạ, bị chìm đi giữa các chương trình giải trí vô bổ và “Tinh thần thể dục”, bỗng hiển hiện về thực tại với mức độ dày đặc, trong tình thế cấp bách. Với sự lan tràn của đại dịch mới, người ta chợt nhận ra rằng: sự hủy hoại môi trường sinh thái đã trở nên nguy hại và cấp bách đến thế nào; người ta đã từng dửng dưng cười cợt trước sự đau khổ của người khác và tình đồng bào đã từng bị dày xéo lăng nhục rồi bị giết chết thê thảm ra sao... Những lò thiêu người bị bệnh dịch hạch ở châu Âu, châu Á, châu Phi trong các thế kỷ trước được nhớ lại khiến người ta rùng mình liên tưởng tới những lò thiêu người Do Thái của bọn Na-zi… Ý thức công dân được thổi bùng lên, tình đồng bào được nhen nhóm lại, một “tâm lý đám đông” mới được khơi dậy một cách vừa theo định hướng vừa tự phát, cứ như một cuộc tỉnh ngộ mới mẻ, tựa câu chuyện trong tác phẩm "Suối thép" của nhà văn Sêraphimôvích (Liên Xô cũ) và đã lên màn ảnh lớn: sau khi đoàn hồng quân đói khát rệu rã được chính ủy cố tình đưa đi qua một đoạn đường thử thách, gian khổ, đầy hy sinh của đồng đội, thì đoàn quân ấy như được tiếp thêm sức mạnh tinh thần ghê gớm, và họ đã trở thành một "suối thép" để có thể chiến thắng quân thù…
Trong những nỗ lực chống dịch hiện tại, đã xuất hiện biết bao câu chuyện cảm động, bao “người anh hùng” kiểu mới mà người dân Việt vốn nhạy cảm với khổ đau và đang thiếu thốn tình thương đã nhận ra và tỏ lòng kính yêu, quý trọng hết mực; đó là những “vị cứu tinh” thời hiện đại, xuất thân từ dân, đứng trước họ là các bệnh nhân, quan điểm chính trị không quan trọng bằng tính mạng và sự an toàn của các cá nhân và các gia đình. Trong cuốn tiểu thuyết “Dịch hạch” mà tôi nhắc ở trên, có các nhân vật “người hùng” như vậy: bác sĩ Riơ, nhà báo Rămbe, linh mục Panơlu, luật sư Taru. Nhưng điều khiến tôi nhắc đến cuốn tiểu thuyết này, chính là suy nghĩ trĩu nặng tình xót thương con người của nhân vật Taru, người mà ngay giữa cao trào của dịch hạch đã nói tới nguyên nhân sâu xa của bệnh dịch, đó là cái ác của con người. Taru, sau khi nghe lời buộc tội độc ác của cha mình và chứng kiến tòa kết tội tử hình một bị cáo, đã rời bỏ cuộc sống nhung lụa và lao vào cuộc chiến đấu chống lại sự giết người. Albert Camus đã nói rõ tư tưởng của các nhân vật tích cực đang chống lại dịch hạch nói riêng và cái ác nói chung: “Cái ác trên đời này hầu như bao giờ cũng bắt nguồn từ sự dốt nát, và thiện chí cũng có thể gây tổn thất như tà dâm nếu không được soi đường… và tính xấu tồi tệ nhất là của những kẻ dốt nát nhưng lại cho là mình biết hết thảy và lúc đó tự cho mình chém giết. Tâm hồn đứa giết người là một tâm hồn mù quáng, và sẽ không có lòng tốt chân chính và tình yêu cao đẹp nếu không có toàn bộ sáng suốt cần thiết”. "Dịch hạch" thực ra là ngụ ngôn ám chỉ "bệnh dịch" của chủ nghĩa phát-xít, con đẻ của tên đồ tể Hitler, kẻ đã tự coi mình có sứ mạng thánh thần sắp xếp lại trật tự thế giới - kết quả của sự ngu xuẩn - để lý giải hành động tàn ác của mình và đồng bọn. Đến hôm nay, những lời cảnh báo của nhà văn vẫn còn nguyên giá trị, cái nhìn tiên tri của ông vào thế giới phi lý của con người dường đã ứng nghiệm, khi toàn cầu hôm nay cũng đang đương đầu với một đại dịch thế kỷ!
Những ngày Sống Chậm, tôi mới có dịp lan man nghĩ nhiều về cái gọi là đạo lý dân tộc mà hệ thống Giáo dục của chúng ta nhiều lúc đã coi nhẹ, để những khẩu hiệu cao siêu nhưng vô bổ lấn át, khiến lũ trẻ đáng yêu đang có nguy cơ dần biến thành những “Người máy” vô cảm - chuyện những bảo vệ trẻ ở cửa hàng nọ đã trói một bé gái ăn trộm hai cuốn truyện tranh mỏng, treo biển “Tôi là ăn trộm” trước ngực bé rồi chụp ảnh quay phim tung lên mạng, là một ví dụ điển hình cho sự giáo dục kiểu ấy - kiểu sẽ chỉ cho ra “lò” những “Kiêu binh” thời mạt Lê -Trịnh, những “Hồng vệ binh” bên Tàu dạo nọ!...
Sống Chậm, không có nghĩa là sự chậm chạp, giết thời giờ, kéo dài thời gian vô ích, đối lập hoàn toàn với kiểu sống vội vã, chụp giựt, buông thả, được chăng hay chớ, tùy tiện, vui đâu chầu đấy… - những tật mà không ít thanh niên thành phố lẫn nông thôn hiện nay đã nhiễm phải và nướng mình trong các chầu bia rượu kéo suốt buổi. Họ “tăng tốc độ” số lần các cuộc kề cà nhâm nhi các thức đặc sản, giọt rượu quý hiếm, trong những chuyện vô bổ quanh các điện thoại đời mới, chiến công về các cuộc “săn bắt” tình yêu, hay chuyện cá cược, những scandal về ca sĩ, người mẫu nổi danh…
Nhà thơ Hy Lạp Ianit Ritsôt – người từng ví Hồ Gươm như một lẵng hoa đẹp giữa lòng Thủ đô Hà Nội, là người có những câu thơ thấm thía về giáo dục & tự giáo dục thế này: Ai cũng một mình đi đến Tình yêu, đến Vinh quang và Cái chết/ Tôi lặp lại thơ tôi/ Thế là/ Sự thèm khát phải có bánh mỳ và cái hôn/ Không làm tôi thấp hèn, sa sút (Đào Xuân Quý dịch). Ông bảo: “Tôi lặp lại thơ tôi”, cũng có nghĩa là ông Sống Chậm lại, trải nghiệm lại những gì mà trường học và cuộc đời đã dạy để có thể sống thì hiện tại như một Con người đúng nghĩa…
Và trong những ngày Sống Chậm này, tôi mới có nhiều thời gian hơn để nghĩ về mẹ tôi. Bà hàng ngày vẫn sống bên tôi, tôi vẫn chăm sóc mẹ với phận sự của người con trai trưởng… Nhưng trong vắng lặng, tôi chợt nhớ da diết tiếng đàn của bà, tiếng đàn đã mấy tháng nay im lặng bởi bà không thể ngồi trên đàn được nữa… Bao năm qua, một cô giáo dạy nhạc bình thường như bà đã là một cành dương kỳ diệu che chở giúp cho một gia đình nhà giáo nghèo vượt qua những cơn bão táp, máu lửa, nghèo đói của Đất nước… Sau những buổi lặn lội chở gạo, thức ăn cho các con tới nơi sơ tán, sau những lúc chen chúc mua từng lít nước mắm, từng chai dầu hỏa bằng tem phiếu, bà lại trở về với việc dạy các con và học trò xướng âm những bản nhạc mới, hoặc lặng lẽ mê mải bên cây đàn, tiếng đàn của bà đã đưa con cháu vào thế giới của âm thanh - cũng là thế giới của Bình yên, của khát vọng làm người tử tế… Đêm nay, qua tiếng đàn nhớ lại của mẹ, tôi càng thấm thế nào là Sống Chậm; những tempo nhanh chậm của bất cứ bản nhạc nào xét cho cùng chỉ là ước lệ, tạm thời, còn trong thẳm sâu của người nhạc sĩ và người thể hiện chính là sự Chậm rãi, Trang nghiêm, hướng tới sự Cao cả của Tâm hồn và cái Thiện của cuộc sống… Cái Thiện đó, chính là cái đích mà tất cả những người lương thiện đang hướng tới, dù phải đối mặt với các thảm họa khủng khiếp như Chiến tranh, Dịch bệnh… Con người đã phải cảnh giác quá nhiều và quá lâu rồi theo lời kêu gọi, cảnh báo của một nhà báo Tiệp Khắc, còn giờ đây, chỉ Tình thương đồng loại mới là “cây đũa thần” hiệu nghiệm cứu giúp nhân loại - “cây đũa thần” mà Thánh Gandhi, văn hào Lev Tolstoy, Vua Phật Trần Nhân Tông, đại thi hào Nguyễn Du… đã nhiều lần gửi gắm và kêu gọi thống thiết trong nước mắt hòa máu…
Trong những ngày này, chắc chắn những lời cảnh báo của hai tác giả Aurelio Peccei (Italia) và Daisaku Ikeda (Nhật) viết những năm cuối thế kỷ trước chợt có sức vang vọng và đồng cảm đáng kể, cũng có tác dụng thức tỉnh nhân loại đang u mê trong vòng xoáy của danh lợi, tuân theo định mệnh và từ chối chiến đấu với cái xấu, cái ác, sự vô luân: “Tình hình toàn cảnh thế giới đang trở nên xấu đi, và một điều rất thực tế là mối nguy hiểm do những cuộc khủng hoảng hiện nay gây ra đang trở nên nghiêm trọng hơn... Thật vô lý nếu chúng ta xao lãng những cơ hội to lớn mà nhân loại có được do kết quả của tri thức cùng những phương tiện khoa học; và cũng thật vô lý nếu chúng ta từ chối trách nhiệm cải thiện số phận của chính chúng ta”. Trong khi cố gắng “thức tỉnh con người”, thực hiện “cuộc cách mạng con người”, hai tác giả đó đã nhấn mạnh yếu tố “con người” như một dạng năng lượng đặc biệt có sức mạnh kỳ diệu: “Chúng tôi cho rằng, rất nhiều vấn đề chủ yếu hiện nay là thuộc về tư tưởng và đạo đức, và không có một sức mạnh khoa học kỹ thuật nào hoặc biện pháp kinh tế nào có thể giải quyết được những vấn đề đó... Khi chúng ta tự hoàn thiện mình từ bên trong, chắc chắn chúng ta không bao giờ bị sụp đổ…” (Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, 1993).
Hy vọng rằng, với công cuộc “tự hoàn thiện mình từ bên trong” bắt đầu từ lâu và đặc biệt trong những ngày thử thách cam go này, Đất nước tôi và đồng bào tôi sẽ không bao giờ bị sụp đổ!
…