Người Nhật rất tự hào về truyền thống võ sĩ đạo và sự gan dạ, trung thành của họ. Người Trung Hoa ngợi ca, truyền tụng gương các bề tôi trung thành, xả thân vì chủ. Lịch sử Việt Nam cũng ghi lại nhiều bậc trung thần quên mình vì chúa, sẵn sàng xả thân cho lý tưởng mình phụng thờ. Những gương ấy sẽ còn mãi mãi lưu truyền hậu thế, như Nguyễn Biểu, Lê Lai,...
Lý Trần Quán và cái chết của ông, một cái chết tôi trung có thể nói khác lạ nhất trong những trường hợp tuẫn tiết vì đạo trung quân ở Việt Nam - ông tự chôn sống mình.
Trịnh Tông là con trai lớn của chúa Trịnh Sâm nhưng không được kế ngôi. Sau vụ kiêu binh, binh lính truất ngôi Trịnh Cán, lập Trịnh Tông (Đoan Nam Vương). Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê kéo quân ra Bắc. Trước sức mạnh như vũ bão của Tây Sơn, quân Trịnh tan vỡ, chúa Trịnh Tông phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Lúc trước Lý Trần Quán là một viên quan nhỏ, được phục mệnh đi chiêu dụ dân binh và đang ngụ tại làng Hạ Lôi. Khi Trịnh Tông qua đây, đã vời Lý Trần Quán, ông yết kiến chúa và nhờ cậy Nguyễn Trang, kẻ từng là học trò của mình, hộ vệ chúa qua vùng ấy. Thật không may, Lý Trần Quán nhờ phải một tên phản thày, phản chủ. Từng có thời theo học chữ Thánh Hiền nhưng Nguyễn Trang không ngượng ngùng nghĩ và nói ra miệng điều: “... Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình...”. Nguyễn Trang nộp Trịnh Tông cho Tây Sơn. Dọc đường Trịnh Tông tự sát. Tây Sơn an táng chúa Trịnh theo lễ nghi vua chúa. Nghĩ mình là người có lỗi trong cái chết của chúa, Lý Trần Quán hết sức ân hận, tự dằn vặt dày vò khôn nguôi. Ông nghĩ: Kẻ bề tôi vì lầm lẫn nhầm người đến hại chúa thì chỉ có cái chết mới tỏ được tấm lòng tôi trung trước trời đất. Lý Trần Quán người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766). Xin trích trong Hoàng Lê nhất thống chí đoạn miêu tả về cái chết bi hùng và hết sức đặc biệt đó:
“ Quán sai người đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở, đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó đội mũ, mặc áo chỉnh tề, hướng về phía Nam lạy hai lạy. Lạy xong lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải khăn trắng chít ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại. Tấm ván vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra: Hãy còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền đọc hai câu rằng: Đạo hiếu ba năm đã trọn. Chữ trung mười phần chưa xong. Rồi Quán bảo với chủ nhà: Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta. Nói xong câu ấy lại tiếp luôn: Đa tạ ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé! Chủ nhà và năm sáu người đầy tớ cùng sụp lạy, chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và lấp đất lên. Hôm ấy là ngày 29 tháng 6 năm Bính Ngọ(1786)... Người đời sau coi ông là một bậc nghĩa khí.”
Phán xét về vai trò lịch sử của Tây Sơn, của dòng chúa Trịnh và nhà Nguyễn là một vấn đề lớn cần có thời gian và những công trình lịch sử nghiên cứu tỉ mỉ. Gần đây đã có những công trình nghiên cứu, đánh giá lại vai trò của các chúa Trịnh hay công cuộc thống nhất đất nước của phong trào Tây Sơn và triều Nguyễn. Đó là công việc của các nhà sử học.
Về trường hợp Lý Trần Quán thì hiển nhiên cái chết của ông là cái chết khí phách, kiên trung, được người đời sau ngưỡng mộ. Chỉ có kẻ phản thày, phản chủ Nguyễn Trang thật đáng phỉ nhổ.
Thời đại nào cũng có tiêu chí về đạo đức và nó mang dấu ấn của thời đại ấy. Việt Nam dưới thời, nước tôn sùng nho giáo, thì đạo bề tôi là phải hết lòng thờ vua, lấy chữ trung làm gốc, chứ kính làm đầu. Một thời có ai đó từng mỉa mai, coi cái chết của Lý Trần Quán là sự trung quân mù quáng. Chính sự giễu cợt, mỉa mai ấy mới là điều phi đạo lý, bôi nhọ lịch sử, ngược với đạo đức truyền thống của người Việt Nam ta. Chẳng lẽ lại có thứ trung thành, tử vì đạo, vì lý tưởng cơ hội chăng? Và thử hỏi như vậy sẽ giáo dục các thế hệ đời sau ra sao đây về lý tưởng, về đạo đức, về sự trung thành, nghĩa vụ của mỗi công dân với quê hương đất nước ?