Con sông Vàm Cỏ Đông khúc này tạo thành một đường cong ôm trọn lấy bến phà có cái tên Cây Ổi. Người ta gọi đây là bến Cây Oi màchẳng thấy có cây ổi nào. Một con phà nhỏ xíu chỉ có thể chở người và vài ba thứ hàng hoá nhẹ qua sông. Bên này sông là đất Hoà An, thuộc Việt nam. Bên kia có thêm dẻo đất nữa của ngừơi Việt Nam nằm áp sát với đất Campuchia..
Bến Cây Ổi không có cây ổi, nhưng lại có một cây me già. Cây me mọc sát ngay cạnh bờ sông. Có lẽ cũng vì nằm sát cạnh bờ sông nên ngay từ lúc mọc cây me đã tự tạo cho mình một thế đứng vững chãi, trụ chắc ngay mép sông.
Có hai người đến bên gốc me già. Trước hết là một người đàn ông lùn đủn. Anh đến bằng một chiếc xe honda đam. Anh dựng xe ngay sát gốc cây me và ngước nhìn lên tán lá xanh. Một lát, anh bước lại, bám tay vào gốc cây lần sờ như tìm một thứ gì trên lớp vỏ xù xì của nó. Một nét đăm chiêu hằn lên trên gương mặt anh.
Người thứ hai xuất hiện sau đó ít phút. Cũng một người không lấy gì làm cao. Anh này có một bên chân bị tật, nên cứ lết lết mỗi khi bước. Anh ta bước lại phía người đến trước:
- Đến hồi nào thế, anh Hai?
- Được một lát rồi. Anh Bảy…
Hai người vừa chào hỏi nhau xong thì người thứ ba cũng đến, đó chính là anh lắc phà trên sông. Họ gật đầu chào nhau. Đã gần giấc trưa rồi.
- Anh Bảy nè, anh có nhớ hồi đó mình làm cái chòi gác ra cả ngoài sông không?
- Giống cái nhà thuỷ tạ chớ gì. Mà này, cái đám ván làm sạp hồi đó đâu rồi hén.
- Làm gì còn. Tôi về không kịp. Họ dỡ sạch trơn từ lâu rồi. Tiếc thực đó. Bao nhiêu cuộc họp chi bộ ở đó. Bao nhiêu anh em thương binh nằm trên đó. Có cả anh em mình hy sinh cũng nằm trên đó. Tôi còn nhớ trên mấy tấm ván ấy có chỗ máu anh em mình thấm vào thành những vết thâm đen.
Cả ba bỗng cùng im lặng. Anh lắc phà chạy về chòi mình. Lát sau, ngay dưới gốc cây me đã có một mâm nhậu đơn giản. Trước khi ly rượu đầu được nâng lên, anh Hai nói:
- Bữa nay tụi tui phải nói với chú Tám một chuyện.
- Chuyện chi vậy các anh
Anh lắc phà nhướng mắt ngạc nhiên nhìn cả hai người.
- Chuyện vợ con của chú. Chú ở vầy là không được rồi. Một mình một chòi thế này… lúc mạnh không sao, lúc đau yếu ai lo cho chú? Hay chú có ai đó để chờ đợi?
Anh lắc phà cười, nụ cười hiền lành:
- Có ai thì các anh biết hết cả rồi. Mà làm gì có ai đâu. Tại kiếp em nghèo phải vậy thôi…
Cả anh Hai và anh Bảy biết đó không phải là lý do chính mà anh Tám không lấy vợ.
Chiến tranh biên giới ập đến xã Hoà An đúng như một cơn lốc. Tin loang ra rất nhanh, ấp Ba Chàm đã bị lính áo đen chiếm hoàn toàn. Một số bà con bên đó tháo chạy sang Hoà An. Không còn kịp biết được ai còn, ai đã bị giết. Lúc đó, trên chiếc chòi nằm chìa ra bờ sông còn một tiểu đội du kích. Anh Hai Chủ tịch xã bật dậy ngay khi nghe tiếng súng đầu tiên. Từ bên ngoài, Tám như nhảy lên các bậc thang vào chòi. Anh Bảy bừng thức giấc. Anh đến xã Hoà An này đã được vài ngày. Phải kiên trì lắm anh mới thuyết phục được cơ quan cho anh đi sáng tác ở mảnh đất biên giới này. Anh là một nhà thơ. Không đơn giản mà anh đến được đây. Đường chưa mở. Trong xã chỉ có những con đường mòn. Phải ngồi mấy tiếng đồng hồ trên còn đò dọc khởi hành từ dưới Bến Sỏi. Anh thực sự thích thú được ngồi trên con đò trôi theo triền sông Vàm Cỏ Đông. Những cánh bèo có những bông tím biếc. Những cánh rừng phủ những tán lá xanh trôi êm êm trên đầu. Những bông trắng mong manh như những cánh bướm hai bên bờ. Tiếng chim ríu rít đuổi theo con đò. Cuối cùng là bến Cây Ổi. Anh leo lên chiếc chòi ven sông và gặp anh Hai. Khách lạ, mà lại là khách thơ, khiến anh Hai vui ra mặt. Anh hy vọng từ một nhà thơ để nay mai cả nước biết đến một vùng quê cách trở đường đò này, biết được con người ở đây. Vì thế mà chỉ vài ngày, anh Hai và anh Bảy đã thân thiết như hai anh em. Khi rục rịch có chiến tranh, anh Hai kêu anh Bảy rút về phía sau, anh Bảy không chịu. " Cứ để tôi ở lại, biết đâu, tôi có thể giúp gì được cho anh. Anh biết đã có thời tôi là bộ đội mà. Nếu không bị thương làm nhúc nhắc một chân, tôi vẫn ở bộ đội đó" . Anh Bảy đã biểu với anh Hai như vậy. Nên đêm ấy, anh Bảy cũng thức giấc vì tiếng súng nổ râm ran. Cuộc chiến tranh trước vừa kết thúc chưa được bao lâu. Yên bình chẳng được mấy ngày, lại nghe súng nổ, ai mà chẳng lo lắng. Dân đã được bố trí cho sơ tán từ nhiều ngày nay.Ở những nơi khác việc sơ tán chắc chẳng mấy khó khăn, còn ở đây, đưa được một gia đình ra khỏi vùng nguy hiểm là cả một thử thách. Cả xã chỉ có vài chiếc xe bò, vài chiếc xe đạp thồ. Chỉ có một chiếc xe máy của ông Năm Kía đã được huy động để phục vụ cho công tác liên lạc. Nhà cửa bỏ lại hết. Các gì chất được lên lưng bò thì chất lên lưng bò. Cái gì vác được lên vai thì khoác lên vai. Lưng còn để cõng những đứa trẻ. Huy động được vài con đò để đưa người xuôi về Bến Sỏi. Còn tất cả đi bộ. Những ngày đầu đoàn người xuôi về hướng Châu Thành còn nhẩn nha mà đi. Những ngày sau đó thì vừa đi vừa chạy. Cho đến hôm nay, khi tiếng súng đã nổ thì trong xã chỉ còn anh em du kích.
Thấy anh Bảy đã thức giấc, anh Hai nói ngay vẻ không được hài lòng:
- Tôi đã nói anh rút đi sớm, anh không chịu rút bây giờ kẹt lại thế này Lỡ có chuyện gì tôi biết ăn nói sao với cấp trên?
- Anh không phải nói gì hết. Ai hỏi cứ biểu tôi tình nguyện ở lại. Anh biên chế tôi vào lực lượng du kích đi. Tay tôi còn cầm súng được mà.
- Thôi được, thế này vậy. Tôi đang thiếu một chính trị viên cho đại đội du kích. Anh giúp tôi, được không?
- Chuyện chi cũng được. Quân số giờ ta có bao nhiêu. Cậu Tám.
- Tất cả thanh niên trong xã ở lại hết. Chừng gần bảy chục người. Giờ thêm anh Bảy nữa. Ngoài ra còn…
- Còn ai nữa?
Anh Hai hỏi.
- Còn hai thày giáo và cô Hương… Họ không muốn rời khỏi đây vào lúc này.
- Chiến tranh chớ bộ dỡn chơi sao mà họ đòi ở lại.
Nghe anh Hai căng thẳng, anh Bảy lên tiếng:
- Thêm người nào hay người ấy, anh Hai. Giống tôi tình nguyện ở lại chớ có ai bắt buộc đâu. Bây giờ bắt họ rời địa phương có khi họ còn giận mình đó anh Hai.
Tám nghe anh Bảy nói, đầu gật gật như đồng tình. Anh chợt nhớ đến Hương.
*
* *
Ngay sau ngày giải phóng, Hoà An đã nghĩ đến việc mở lớp dạy học. Anh Hai khăn gói, gác chiếc xe đạp lên đò xuôi Bến Sỏi. Từ Bến Sỏi, anh đạp xe thêm mấy cây số nữa mới đến cơ quan huyện. Anh đi xin giáo viên. Anh chủ tịch huyện ngạc nhiên nhìn anh Hai. Một xã như Hoà An vội gì nghĩ đến chuyện học hành. Cơm chưa đủ ăn. Ao chưa đủ mặc. Ngay cả lớp học đã có đâu. Anh Hai khăng khăng: cứ cho giáo viên đi rồi xã chúng tôi sẽ lo. Vì thế mà Hoa An có được hai thày và một cô giáo sau đó ít lâu. Đúng như thế thật. Có thày, cô giáo rồi mới tính đến chuyện cho các cháu học ở đâu. Cả xã góp sức. Người vào rừng đốn cây, người đến cất dựng. Bàn của học trò cũng được ghép bằng cây rừng. Rồi cũng đến ngày khai giảng. Vui như hội. Những đứa trẻ đầu tiên đến trường trong những bộ quần áo lành lặn nhất mà cha mẹ chúng lo cho. Những bậc cha mẹ còn mang đến cho các thày cô cả những cái nồi, xoong, dĩa. Họ mang cả đến những hạt lúa, những củ khoai cho thày cô. Dân trong xã chưa thoát ra khỏi cái đói của năm đầu sau chiến tranh, nhưng những thày cô không thể bị đói. Dân chúng ta chưa có chữ. Muốn có chữ phải nuôi thày. Chúng ta phải có bồ lương nuôi chữ. Bà con chúng ta, ai có gì góp nấy, củ mỳ, củ khoai, hạt lúa. Mang cho thày cô giáo giống rau có thể trồng nhanh, thu hoạch nhanh. Mang cho thày cô con gà, con vịt để thày cô nuôi. Anh Hai đã nói như thế khi khai giảng.
Tám ngày ấy còn trẻ, háo hức với những lời nói nhiệt tình của anh Hai mà có mặt ở trường hằng ngày. Sáng sớm, đến gánh cho đầy lu nước của các thày cô. Trưa đến thăm hỏi xem thày cô có cần gì. Chiều, bao giờ cũng là một bó củi thật khô.
Ở đây có Hương. Giữa vùng quê hẻo lánh, toàn nắng gió với những con người da thịt lúc nào cũng khét cháy và đen đúa, Hương như một bông hoa trắng muốt đẹp tinh khôi. Tám năng đến đây có cái lẽ của một người có trách nhiệm, nhưng còn có thêm cái lẽ được nhìn thấy Hương. Nhỏ nhắn, mái tóc buông dài, gương mặt nhẹ nhõm và nụ cười kèm lúm đồng tiền ở một bên má. Không dám hó hé một câu buông thùa. Tám biết thân phận mình. Một anh nông dân làm rẫy rặt, một chữ không biết. Anh vốn sinh ra trên đất Miên. Cha mẹ bị lính Lon Non giết trong một đợi cáp Duồn1. Anh theo dòng người Việt kiều về lập nên cái xã Hoà An này. Chỉ có một thân một mình, ngoài việc làm rẫy ra chỉ còn biết cầm súng tham gia du kích. Khôn ngoan hơn bạn đồng lứa, dám cầm súng sớm hơn bạn đồng lứa nên xã biểu làm xã đội trưởng là làm. Kháng chiến trước mới có được vài lần xuôi sông Vàm cỏ Đông phục kích đánh tàu. Rồi giải phóng. Biên giới không yên, việc của Tám bận rộn hơn. Không còn có ngày lên rẫy nữa. Bám miết cái chòi ngoài bến Cây Ổi. Chính cái chòi ấy trở thành nhà anh trong lúc Hoà An đang bị Khơ me đỏ rình rập phía bên kia. Từ ngày có thêm lớp học, Tám tự giao cho mình một trách nhiệm phải quan tâm đến thày cô giáo ở đây. Nhất là phải bảo vệ họ, nếu có tình huống xấu xẩy ra. Ban đầu thì như vậy, nhưng càng về sau, Tám càng thấy mình không thể vắng mặt tại lớp học này. Vì có Hương. Mỗi ngày anh gặp Hương chí ít một lần. Mỗi ngày chí ít một lần anh nhận được ở Hương một nụ cười sau lời cảm ơn. Trong thâm tâm anh nghĩ: thế là quá đủ rồi. Anh không dám mơ tưởng cao hơn. Người ta có chữ. Người ta là cô giáo. Người ta là con gái nơi tỉnh thành. Ai người ta nhòm ngó đến một con người đen đúa, ăn nói cục mịch khó nghe, quen với súng đạn nhiều hơn quen với công việc đồng áng.. như mình. Có một lần, Tám bắt gặp Hương gội đầu. Mái tóc dài xoà xuống chậu nước. Phơi ra trước mặt Tám ót trắng ngần. Bàn tay thon dài vuốt vuốt trên mái tóc.
Tám đứng ngẩn ngơ. Linh cảm có người đang nhìn mình, Hương ngẩng đầu lên, thấy Tám, cô lại nhoẻn cười. Tám như bị hồn xiêu phách lạc, vội vã đặt bó củi dựa vào vách lớp rồi nhanh chân bước đi. Trước Hương, Tám giống như một con cù lần, ngơ ngơ ngác ngác. Thế mà ngày nào Tám cũng đến đây để được ngơ ngơ, ngác ngác.
Lớp học trò học chưa được bao nhiêu chữ đã phải chạy loạn. Lớp trở nên vắng vẻ. Hôm qua, Tám được anh Hai giao cho việc đến lớp lo việc đưa thày cô giáo về thị xã, chờ yên hàn lại quay lên. Tám thấy hình như chẳng thày cô nào chuẩn bị gì. Tất cả vẫn nguyên vẹn như ngày thường. Tám hớt hơ hớt hải kêu:
- Trời ạ. Sao thày cô không tém dẹp mà rút đi. Ở đây lúc này nguy hiểm lắm.
Người trả lời Tám là Hương:
- Chúng em không thể đi khỏi đây lúc này được, anh Tám ơi.
- Sao thế?
- Hơn một năm nay, chúng em ở đây. Dạy dỗ học trò chưa biết được cái gì chưa. Nhưng chúng em nợ bà con cô bác nhiều quá rồi.
- Thôi, thôi, thôi… các thày cô lên đây với chúng tôi đã là quý lắm rồi. Ai việc người nấy. Bây giờ, ngay lập tức, các thày cô phải rời xã chúng tôi ngay. Nguy cấp lắm rồi…
Hương nhìn Tám. Đôi mắt chứa đầy một câu hỏi và Tám biết chắc là không thể nào trả lời nổi. Tám khoát tay:
- Tôi phải báo cáo chuyện này với anh Hai. Anh Hai quyết thế nào, tôi chịu thế.
Tám quay ra. Hương gọi:
- Anh Tám.
Tám quay lại. Hương đến sát bên anh:
- Cứ để tụi em ở lại đây. Tụi em sẽ không làm cản trở công việc của xã đâu.
Thế rồi Hương thong thả bước theo Tám ra con đường mòn dẫn ra bờ sông Vàm Cỏ Đông. Tiếng Hương thỏ thẻ:
- Ban đầu lên đây, chúng em sợ lắm. Đêm nghe tiếng tắc kè kêu mà giật mình. Thấy những đứa trẻ trố mắt nhìn mà lo. Thấy bà con lam lũ làm vẫn không đủ miếng ăn mà sợ. Thế mà hơn một năm nay, bà con không bỏ chúng em một ngày nào. Em biết trong xã có người ngày giỗ còn phải ăn củ mỳ, cúng cấp người thân cũng bằng củ mỳ thế mà vẫn dành cho chúng em những hạt gạo hiếm hoi kiếm được trên những mảnh rẫy khô cằn. Em còn biết chuyện chị Tám Hoa, chưa chồng, nên chưa con, thế mà tuần nào cũng đội gạo đến cho chúng em. Anh nữa, anh Tám. Chúng em biết nói lời cảm ơn chẳng thể đáp được tấm lòng của anh. Nhưng cũng cứ phải nói. Bây giờ, chúng em biết, tình hình quá căng thẳng rồi. Các anh ở lại được thì chúng em cũng ở lại được. Các anh cứ giao công việc, coi chúng em như ngừơi của xã mình. Nhất định rồi có ngày các em học sinh sẽ quay trở lại. Chúng trở lại ngày nào chúng em dạy ngày ấy.
Hương nói nhiều thế, hay thế. Bảo Tám nói, Tám sẽ chẳng biết nói gì hết. Ngay lúc đó, Tám chỉ còn biết nhìn Hương. Cắp mắt của Tám chắc nói được điều gì khiến Hương đỏ mặt quay đi, không nói nữa. Hương đi như chạy về phía lớp học. Còn Tám, nhìn ra mặt sông, nơi có những chấm sáng lóng lánh của những giọt nắng chiều đã nhạt.
* *
Ông Hai nâng ly rượu lên đưa mời ông Bảy:
- Anh Bảy nè. Sao đến tận bây giờ anh cũng chưa có được một bài thơ nào về xã Hoà An này?
Ông Bảy đón ly rượu, vẻ trầm ngâm:
- Tôi làm thơ không giống người ta, anh Hai. Những ngày ấy tôi ở đây, thấy hết mọi chuyện. Thấy cả những xót xa của xã này. Vậy mà không làm sao tôi có thể viết được một câu thơ. Khi nghỉ hưu, nhất định tôi về đây xin anh đất, cất chòi ở cũng vì ý đó cả. Tôi vẫn cứ đi tìm một cái gì đó long lanh sáng của mảnh đất này. Mà tìm không ra, mới lạ. Thà làm được một bài thôi cho đáng. Còn làm nhiều mà lãng xẹc, tôi không làm anh Hai ạ. Mà thôi, đừng nói chuyện này nữa. Ta bàn lại chuyện cậu Tám đi. Tám nè, cậu năm nay cũng chòm chèm băm mấy rồi há?
- Dạ. Tuổi mụ là ba tư rồi anh Bảy…
- Còn lấy vợ tốt. Chuyện đã qua cả chục năm rồi, cho qua đi.
- Anh nói cho qua chuyện gì kia.
- Chuyện cô giáo Hương ấy…
- Không, anh đừng nhắc đến cổ. Anh đừng bắt em mang tội với cổ…
Chúng tấn công phía Lồ Cồ.
Chúng tấn công phía Ba Chàm.
Chúng tấn công ào ạt đồn Phước Tân.
Tám đang ở hướng Tà Nông. Phía trước là những gò mối. Những gò mối lô nhô. Những viên đạn găm vào những gò mối. Những con mối văng ra, hoảng loạn chạy. Phía sau lưng là những cánh rừng chồi. Những cánh rừng chồi đang nẩy những búp non sau cuộc chiến tranh trước. Tám nghe ai đó kêu lên:
- Chúng chiếm lại được Ba Chàm rồi. Mấy thày cô giáo kẹt lại phía đó rồi…
Tám gào lên với cậu trung đội phó ở phía gò mối bên kia:
- Giữ chắc ở đây nghe. Không được để chúng chiến gò mối phía bờ sông kia kìa. Tôi chạy qua bển.
Tám xách súng vọt đi. Anh chạy tưởng như chân không bén đất. Có tiếng ai gọi thất thanh khi anh vừa chạy ngang qua bến Cây Ổi:
- Tám.
Anh Hai đang đứng ở bậc cầu thang cái chòi ven sông. Tám ùa tới. Anh Hai nói gấp gáp:
- Mình đuổi chúng ra khỏi Ba Chàm rồi. Nhưng cô giáo Hương…
Tám nhảy vượt mấy nấc cầu thang một lên chòi. Trên bộ ván gác chòi, Hương đang nằm đó. Một bên ngực máu vẫn tuôn ra. Mặt cô đã tái nhợt. Mái tóc dài bung ra, xoã xượi trên sàn.
- Cô giáo Hương… Hương ơi…
Hương khó nhọc mở mắt nhìn Tám, rồi bất ngờ, cắp mắt ấy dại đi, bất động. Tám muốn gào lên thật to. Nhưng cổ anh đã nghẹn cứng lại. Nước mắt anh trào ra. Nếu hôm ấy anh kiên quyết bắt Hương rời Hoà An, thì Hương đâu có nằm kia và đang lạnh dần. Đâu có phải đặt bàn tay lên cặp mắt ngây dại kia và vuốt xuống nhẹ nhàng.
- Cậu đang nghĩ về cô giáo Hương, đúng không ?
Tiếng anh Hai rất khẽ nhưng đủ nghe. Tám gật đầu.
Vẫn tiếng anh Hai:
- Cậu thương cô giáo Hương cũng phải thôi. Hôm ấy, tôi cũng có mặt ở cái chòi ven sông này. Tôi hiểu cậu.
Anh Hai bỗng thở dài. Anh bỏ ly rượu xuống bàn, nhìn vóng ra ngoài mặt sông và nói như nói với ai đó:
- Ngày được giải toả ra khỏi vòng vây của Khơ me đỏ, xã mình là một xã thế nào? Có khi nào cậu đọc danh sách liệt sĩ trên đó chưa? Gần một nửa số người trong đó đã chết vì mìn. Chị Lợi thương con đói, vào rừng kiếm củ chụp, vấp mìn chết. Đứa con đầu của anh Lợi thương em lại vào rừng đào của chụp. Lại vấp mìn. Đưa về nhà, cháu chỉ kịp nói với cha mình " Cha ơi đừng ở xứ này nữa". Hôm ấy, tôi cũng đã trào nước mắt như cậu Tám khi ngồi bên cô giáo Hương, bữa cổ hy sinh.
Tiếng anh Hai có lúc bị gió từ mặt sông thổi tạt đi. Có cả tiếng sóng của dòng sông Vàm Cỏ Đông xen vào. Nhưng Tám nghe rất rõ, từng lời, từng lời một.
- Chúng ta còn phải sống. Sống cho những người còn sống và sống cho cả những người đã chết. Hôm nay là ngày giỗ cô giáo Hương phải không, Tám…
Tám gật đầu khi nghe anh Hai hỏi.
* *
Người lắc phà qua sông vẫn là Tám. Bây giờ ta phải gọi là ông Tám. Ông vẫn ốm như gốc cây bằng lăng già cớm nắng. Vẫn lắc phà đưa khách qua sông ở bến Cây Ổi không kể sớm, trưa, chiều, tối. Sáng nay, trước khi lên phà đón khách, ông Tám quay vào nhà gọi:
- Bé Hương đâu rồi…
- Dạ…
- Má đi chợ về, con nói với má chuẩn bị đồ ra gốc me cho ba nghe con. Hôm nay, ngày giỗ cô giáo Hương, Bác Hai, bác Bảy sẽ đến đó.
Ông Tám bước ra bờ sông, tháo sợi sây xích néo phà. Con Hương chạy ra theo phụ ba. Con bé có cái dáng mảnh khảnh và có những bước chân nhanh nhẹn. Gương mặt nó thực sáng sủa. Má nó hẳn phải là một người xinh đẹp. Chớ nó mà giống cha thì…
Chuyến phà buổi sớm mai chỉ có hai người khách. Dù vắng khách, nhưng vẫn cứ phải có con phà. Vẫn cứ còn gốc me. Tất nhiên vẫn cứ còn cái bến Cây Ổi. Vẫn chưa ai biết vì sao người ta cứ gọi đây là bến Cây Ổi khi chẳng có cây ổi nào. Rồi một ngày kia, sau lớp người như ông Tám, ông Hai, ông Bảy, sẽ chẳng biết có phải đã có một cô giáo Hương đã từng hy sinh trên mảnh đất này. Tên cô vẫn ghi trong danh sách trên đài liệt sĩ kia. Người ta đã lấy tên cô đặt cho một ngôi trường. Song rồi sẽ có lúc người ta hỏi: cô giáo Hương là ai? Cuộc sống vẫn cứ tiếp trôi. Con sông Vàm Cỏ Đông vẫn không ngừng chảy, mà nước trên sông không về bến cũ. Có phải vì thế không mà ngay cả khi về sống tại đất này, ông Bảy vẫn không làm được một bài thơ về nơi ông từng sống những ngày khốc liệt. Vùng quê nào mà chẳng thế, có cái có mà như không, lại có những cái không mà như có. Như ở bến sông này, không cây ổi, có cây me, thế mà người ta cứ gọi là bến Cây Ổi mà không gọi bến Cây Me…
Con phà đã tách bến. Bóng ông Tám đổ dài trên mặt sông, lóng lánh những giọt nắng sớm mai. Ngày mới lại bắt đầu.
Trại sáng tác VNQĐ tại Bình Dương 10-2005