Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.257
123.155.823
 
Văn Miếu- Đền Văn của Bình Định
Mai Thìn

a-Nguồn gốc và vị trí địa lý của Văn Miếu

 

Nằm cách cổng sân bay Phù cát về phía Nam  chừng 800 m,Văn Miếu toạ lạc trên một gò đất quang đãng của thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, Bình Ðịnh. Văn Miếu nối liền với đường Gò Găng- Kiên Mỹ bằng con đường bê tông  rộng rãi, bằng phẳng, khá thuận tiện cho khách tham quan bằng xe ô tô.

 

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, quyển IX, phần tỉnh Bình Định, mục từ Đền miếu có đề cập đến Văn Miếu( người dân thường gọi là Văn Thánh ). Sách cho biết, Văn Miếu được xây dựng  vào năm đầu  niên hiệu Gia Long (1802) tại thôn Vĩnh Lại, nay là thôn Vĩnh Phú, nằm ở phía Tây xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn.

 

Cũng trong năm Gia Long thứ nhất, miếu Hội Đồng    miếu Thành Hoàng  đã được lập tại thôn  này. Miếu Thành Hoàng nằm ở phía Tây Văn Miếu( rất có thể  là ngôi  miếu    ngày nay người dân địa phương gọi là miếu Bà ), còn miếu Hội Đồng nằm ở phía Đông, thuộc xóm Dưới, giờ  đã thành phế tích.

 

Còn theo  như mô tả của nhà thơ Quách Tấn trong quyển " Nước non Bình Định" thì:

            "Văn Miếu có Qui mô rộng lớn, Gồm có 3 toà, Mỗi toà 3 gian hai chái. Cột lớn hơn ôm, kèo  trính tòan danh mộc.

            Toà chính thờ đức Khổng Tử cùng Chư Hiền.

            Toà phía tây thờ đức Khải Thánh ( thân sinh đức Khổng).

            Toà phía đông thờ các tiên Nho.

Miếu xây mặt vào Nam, trước có bình phong, ba biểu và cửa Tam Quan, Chung quanh có thành đá bao bọc.

 

Văn miếu rộng thênh thang và trồng toàn xoài tượng, gốc lớn tàn sum, quang cảnh thật thâm nghiêm u tĩnh. Người đến  viếng cảnh tự nhiên thấy lòng mình trở nên rộng rãi nhẹ nhàng. Cho nên, thời tiền chiến, người bốn phương thường đến cung chiêm, nhất là những ngày lễ và ngày chủ nhật. Mọi người đều tôn xưng là thắng cảnh.

 

Thời kháng chiến chống Pháp, thành  ngoài Văn Miếu  bị phá, cữa miếu và vách miếu bị dỡ, một số xoài bị đốn. Ngót năm bảy năm trời, gió mưa tàn phá thêm nữa, thành cột kèo xiêng trính bị  hư hỏng  rất nhiều. Và toà phía Đông không chịu nổi phong sương  bị đổ nát…".

Như vậy Văn Miếu ở Nhơn Thành, Bình Định là một trong những Văn Miếu được dựng  vào loại sớm nhất của triều Gia Long, sớm hơn cả Văn Miếu Khánh Hoà( dựng năm Gia Long thứ hai, đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Quốc gia ),Văn Miếu Bình Thuận ( dựng năm Minh Mệnh  thứ 7 ), Văn Miếu Hải Dương ( dựng năm Minh Mệnh thứ 4 )…

 

Ngày nay, di  tích còn lại là phía trước cổng, hai bên tả hữu  có nhà bia cao hơn 3m khắc chữ " khuynh cái hạ mã", cách một sân đất rộng hơn hai mẫu có hai con lân cao hơn ba mét đúc bằng vôi ốc án ngự hai bên trông rất bề thế và cổ kính. Kế đến là tấm bình phong đắp nổi hình con nghê đá cõng phong thư và những nền đất  xây đá ong cao gần  nửa mét.

 

Qua các dấu tích còn lại và theo sự chỉ dẫn của các cụ cao niên ở Vĩnh Phú, chúng tôi đã vẽ lại toàn bộ sơ đồ Văn Miếu với ba toà chính và một toà phụ thờ Khải Thánh. Ba toà chính gồm  Tả Vu và Hữu Vu thờ Tứ phối và Thất thập nhị hiền nằm đối  nhau hai bên bằng một sân rộng lát gạch. Cách sâu vào trong là chánh toà thờ Khổng Tử nằm trên một nền đất cao. Ngay vị trí này, đến những năm 8O của thế kỷ trước còn tồn tại một ngôi trường làng với cột kèo, xiên trính được dựng lại từ Văn Miếu cũ đã bị phá dỡ thời chống Pháp. Sau đó ngôi trường cũng bị dời đi nơi khác, chỉ còn lại nền móng với nhiều đá ong .

 

Sau chánh toà là miếu Khải, thờ  ông Công Thúc Lương Ngột và bà Nhan Thị  Trưng Tại- thân phụ và thân mẫu đức Khổng Tử.

Phía đông Văn Miếu là nhà quan cư với giếng nước và  nơi cho  người Tự thừa ở để  cai quản Văn Miếu.

 

Toàn bộ Văn Miếu nằm trên một gò đất cao ráo, bằng phẳng, xoay mặt về phía thành Hoàng Đế theo hướng Tý Ngọ ( trục Bắc Nam ).

 

Trước Văn Miếu là một triền sỏi đất ( giờ um tùm cây lâu niên ) trải dài  xuống cánh đồng  xanh mướt  của thôn Vĩnh Phú.Tiếp giáp với cánh đồng là con sông Quai Vạc chạy ngay dưới chân thành ngoài của thành Hoàng Đế( tương truyền, đây là khúc sông do Nguyễn Nhạc cho đào để bảo vệ thành ngoài) . Dòng Quai Vạc uốn lượn như con rồng chầu quanh Văn Miếu. Từ Văn Miếu đến chân thành Hoàng Đế, đoạn ở thôn Bắc Thuận  theo đường chim bay  không quá 800 m .

 

Từ  cổng Văn Miếu phóng tầm mắt  qua khỏi thành Hoàng Đế còn thấy núi An Tượng ( cao trên 800 thước ) làm tiền án. Núi ở địa phận  xã Nhơn Tân  huyện An Nhơn mang hình con voi  phục, đầu hướng về phía Đông. Đây là ngọn núi khởi phát  nhiều sông suối  và gắn liền với nhiều  chiến tích của nghĩa quân Tây Sơn.

 

Phía Tây Văn Miếu là ngọn đồi Gò Quánh, có hòn núi Đại An án ngữ; phía Đông nhìn thẳng  ngọn Mò O  như một chiếc nghiên khổng lồ giữa ruộng đồng bát ngát.

Xung quanh Văn Miếu  là những vườn xoài  tượng, gốc to 3-4 người ôm không xuể. Thời chống Mỹ, do ảnh hưởng của  chiến tranh bom đạn, các vườn xoài đã tàn lụi hết. Đến nay hầu như không còn nữa. Văn Miếu thời phong kiến do Đốc bộ đường Bình Định quản lý.

 

Thời kháng chiến chống Pháp, Văn Miếu  bị tàn phá rất nặng nề, hầu hết cột kèo đều bị dỡ bỏ, lớp làm hàng rào kháng chiến, lớp làm củi đốt. Người dân Vĩnh Phú  dùng tám cây cột lớn của Văn Miếu  để dựng  lại miếu Hội Đồng ở xóm Dưới, nhưng rồi cũng bị  bom pháo  tàn phá đổ sập. Nhiều bài vị, sắc phong và cả bản khắc tên các cử nhân, tiến sĩ trong tỉnh đã bị mang ném xuống giếng cạnh nhà quan cư. Các cụ ở Vĩnh Phú còn nhớ hồi ấy có người lén gánh một ít mang lên vùng huyện Tây Sơn để thờ phượng, nhưng không biết  cụ thể ở đâu.

 

Trải bao triều đại,Văn Miếu được  nhiều lần trùng tu xây cất, lần  đầu tiên vào năm Minh Mạng thứ 10 ( 1829 ), lần thứ hai vào năm  Quí Dậu (1933 ), tức năm  Bảo Đại thứ 10. Các lần sau và  cụ thể  bao nhiêu thì chưa tìm thấy tài liệu nào cho xác tín.

 

b-Văn Miếu và tế lễ:

 

Cụ Trần Đình Quyền 96 tuổi, hiện ở thôn Tiên Hội, xã Nhơn Thành kể rằng, hồi còn thanh niên, cụ được sung vào ban lính  canh gác và phu dịch Văn Miếu. Ông nội tôi  là Mai Chấn ( 1882-1953 ) và cha của cụ Mai Đức Thanh ở Vĩnh Phú từng là  những người được chọn làm Tự thừa  để cai quản  Văn Miếu.

 

Văn Miếu  luôn có một Tự thừa cai quản thường nhật và 26 lính chia thành 13 ban, mỗi ban hai người thay phiên trực suốt ngày đêm. Nhiệm vụ của ban trực là canh giữ, bảo vệ Văn Miếu, quét dọn, chăm sóc  cây trái và giúp người Tự thừa cúng kính, hương khói thường nhật. Khi  đến ngày  làm lễ, cúng tế  thì tăng cường thêm tráng đinh ở các làng bên sang phục dịch. Những người phục dịch trong Văn Miếu được phát thẻ (miễn diêu, miễn khai, tráng trạo…) để miễn sưu thuế  tuỳ theo  mức độ đóng góp.

 

Mỗi năm có hai kỳ tế lớn tại Văn Miếu vào tháng ba và tháng tám, gọi là " xuân thu nhị kỳ". Các ngày tế lễ thường là từ mùng 10 đến 20 âm lịch.Việc tế lễ ở Văn Miếu  được đưa vào lệ " Quốc lễ ", tức là do  nhà nước lo, ngân sách của tỉnh đài thọ là chính. Chính vì là " Quốc lễ " cho nên các kỳ tế lễ  ở Văn Miếu  thường được tổ chức rất linh đình  và nghiêm cẩn.

Trước ngày tế có trát quan phủ sức dân dọn dẹp đường sá; các làng bên ( Tân Nghi, Bình Đức, Thiết Tràn…) chuẩn bị bò heo để cúng. Mỗi lần cúng phải mất 12 heo, 1 bò, 1 dê, 5 vuông gạo nếp và nhiều thứ  khác.

 

Chiều hôm trước, các vị chức sắc hàng tỉnh trở xuống đã phải đi kiệu, đi ngựa về Văn Miếu, nghỉ ở nhà quan cư được xây cất trong khuôn viên Văn Miếu. Bốn giờ sáng hôm sau làm lễ cúng tế linh đình cho tới trưa.

 

Buổi trưa ngày hôm trước, các quan lại địa phương, thân hào, nhân sĩ, học sinh đã tựu về Văn Miếu chờ chiêm bái và phụ giúp ban tổ chức. Con đường từ  cổng Văn Miếu  đến đoạn  nối với đường Thiên Lý ( Quốc lộ 1 ) được quét dọn sạch sẽ, cờ xí rợp trời.

Các quan phủ, huyện và chức sắc địa phương với đầy đủ nghi vệ  tiến ra  tận đầu đường  để đón các quan  hàng tỉnh.

 

Dẫn đầu đoàn rước  các quan về tế lễ Văn Miếu  là hai bảng " túc tỉnh" ( yên kính ) và " hồi ty " ( tránh một phía ), tiếp  đến là hai hàng gươm giáo và cờ, chiên trống  theo sau. Các quan  tỉnh đi kiệu  có lọng che, các nhạc công y phục áo đỏ, nón dấu tấu những khúc nhạc nhịp nhàng với trống phách điểm hài hoà trang trọng. Hai bên đường và sau hương án của Văn Miếu, dân chúng đứng nghiêm cẩn  chờ bái vọng lệnh vua.

 

Các quan xuống kiệu trước cổng Văn Miếu, nơi có hai nhà bia "     khuynh cái hạ mã " rồi xếp hàng tuần tự  vào nhà Quan cư  nghỉ ngơi để chuẩn bị làm lễ.

 

Lễ tế Văn Miếu được bắt đầu bằng  nghi lễ tế ở  miếu Khải Thánh. Xong lễ, mọi người về lại nhà Quan cư phục mạng và tiến hành lễ chính ở chánh đường. Các quan với áo mão cân đai  triều phục  đứng bất động  rồi hành lễ theo  tiếng xướng to  của người chủ tế, hoà với tiếng nhạc, tiếng trống vang dìu dặt hay khoan nhặt  theo từng trình tiết tế lễ.

 

Lễ hoàn tất khi trời  hửng sáng và  các quan về lại nhà Quan cư  để nghỉ ngơi giây lát rồi tiếp tục tế lễ cho tới trưa.

 

Ngoài các lễ cúng còn có nhiều hoạt động hội hè, thi phú rất sôi động. Tại thôn Phú Thành, xã Nhơn Thành cũng đã hình thành  một đội nhạc  chuyên phục vụ  cho các  hoạt động này của Văn Miếu.

 

c-Văn Miếu và khoa cử Bình Định

 

Ngoài Văn Miếu, ở Bình Định còn có 6 Văn Chỉ được phân bố ở các huyện: Tuy Phước, An Nhơn, Hoài Nhơn, Hoài Ân, Bình Khê và Phù Mỹ. Văn Miếu hay Văn Chỉ đều là nơi  tập hợp các  văn tài  trong xứ, chỉ khác là  Văn Miếu ở Nhơn Thành do cấp tỉnh quản lý ( đền văn ), còn văn chỉ là do cấp huyện quản lý ( chốn văn ). Văn Miếu, Văn Chỉ nào cũng  dành riêng một bàn thờ  với bốn chữ lớn " Vạn thế sư biểu " ( Bậc thầy của muôn đời ) để tôn vinh Đức khổng Tử. Song   thực chất của Văn Miếu  Nhơn Thành, An Nhơn, Bình Định  cũng như Văn Chỉ ở các nơi khác là  nhằm tập hợp các nhà khoa bảng đã thành đạt  có trách nhiệm chăm sóc, khuyến khích, dìu dắt các lớp hậu bối.

 

Khoa thi nào cũng vậy, các thí sinh Bình Định trước khi  bước vào  cổng trường thi hương  đều đã qua sát hạch thử ở các văn Chỉ huyện, cho nên việc đỗ đạt  của các tân khoa   không chỉ là niềm vui riêng  của gia đình mà còn là niềm vui chung của làng nước.

 

Như vậy các Văn Miếu, Văn Chỉ trên đã đóng góp  rất nhiều sĩ tử giỏi cho  Trường Thi Bình Định. Trong 65 năm tồn tại, trường thi  Bình Định  đã tiến hành  22 khoa thi, chọn lọc được  342 vị cử nhân, trong đó Bình Định chiếm  đến 194 vị với 12 thủ khoa và 11 vị đỗ Hoàng Giáp, tiến sĩ, phó bản. Hai huyện có nhiều cử nhân nhất  là Tuy Phước với 63  vị và An Nhơn với 55 vị. Còn học vị tú tài thì  nhiều hơn, không thể thống kê hết được.

Tại Văn Chỉ huyện Tuy Phước ( Nằm ở thị trấn Tuy Phước hiện nay ) còn lưu giữ nhiều di vật, đặc biệt  có bảng khắc tên  và hành trạng đỗ đạt của các nhà khoa bảng tiền bối  từ tiến sĩ, cử nhân,  đến tú tài. Rất có thể tại Văn Miếu ( đền Văn ) ở Nhơn Thành, huyện An Nhơn thời xưa cũng có  lưu giữ tên tuổi và hành trạng đỗ đạt của  các vị khoa bảng trong cả tỉnh, nhưng do thời gian và chiến tranh tàn phá  nên ngày nay đã không còn.

 

d- Văn Miếu và hát bội Bình Định

 

Theo tài liệu của nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn thì hồi ấy, cứ ba năm một lần, ở Bình Định  còn có  lệ 'hát Văn Miếu". Mỗi lần " hát Văn Miếu " là một cuộc  đua tài sôi động của các nghệ sĩ  ở các gánh hát bội trong toàn tỉnh .

 

Chỉ có Văn Miếu     thôn Vĩnh Phú, xã Nhơn Thành mới tổ chức hát bội thành lệ, còn các Văn Chỉ thì không thành lệ mà chỉ tổ chức hát  mừng vào những dịp thuận tiện, như  hát mừng  sĩ tử huyện nhà đỗ đạt cao chẳng hạn.

Lệ hát Văn Miếu  do Hội đồng quản trị  Văn Miếu tiến hành  theo qui định. Các nghệ sĩ hát bội ở các gánh hát căn  cứ vào kịch mục  sẽ diễn mà đăng ký nghệ sĩ thủ vai. Hội đồng quản trị Văn Miếu sẽ  sắp xếp, chỉ định  vai vế vở diễn, ai diễn trước, ai diễn sau.

Mỗi lần " hát Văn Miếu " là một cuộc đua  tài  sôi động của các  nghệ sĩ ở các gánh hát bội trong toàn tỉnh.

 

Kết thúc cuộc thi, tổng đốc Bình Định ký bằng  ban thưởng danh hiệu  Chánh ca hay Phó ca cho các nghệ sĩ đoạt giải cao. Các nghệ sĩ tên tuổi của Bình Định, như  Chánh ca Ghình, Chánh ca Đựng, Phó ca Á, Phó ca Chạng… đều là các tên tuổi được tôn vinh từ " hát Văn Miếu " ở Nhơn Thành.

 

e- Mấy lời khuyến nghị  cho Văn Miếu

 

Trải bao  thăng trầm của thời gian và chiến tranh tàn phá, ngày nay Văn Miếu ở  Nhơn Thành  chỉ còn lại  tấm bình phong  đắp nổi hình con nghê đá cõng phong thư  lỗ chỗ vết đạn, một con Lân cao hơn ba mét và  nhà bia " Khuynh cái hạ mã " ở trước cổng. Toàn bộ Văn Miếu đã bị  đổ nát,người dân Vĩnh Phú  cho xây lại trên nền cũ một ngôi đình nhỏ bé để thờ  cúng vào dịp Thanh Minh, lễ tết…

 

Theo lời kể của nhân dân thôn Vĩnh Phú thì sau 1975, ông Huỳnh Hưng, người trong thôn đã tự tháo dỡ nhà bia ở phía Đông  để lấy gạch làm nhà  thì bỗng dưng phát bệnh nan y mà chết. Các con cháu vội cho dựng lại tấm bia  bằng đá có khắc dòng chữ " Khuynh cái hạ mã " trên nền đất cũ, và từ đó không còn ai dám động đến di tích Văn Miếu nữa.

 

Hiện nay Văn Miếu được làng giao cho cha con ông Mai Đức An coi giữ và cúng tế hàng năm. Trong ý thức của  phần lớn  thế hệ người dân  địa phương  đều không còn  hiểu được giá trị  to lớn của Văn Miếu mà chỉ biết đó như là ngôi đình làng  để thờ cúng thanh minh.

Nhờ  sự trọng thị của người xưa với nền học vấn, với hiền tài của đất nước, Văn Miếu đã trở thành một dấu son đỏ rực trong trang sử địa phương, nó đã  góp một phần to lớn làm nên nguyên khí, làm nên nền Văn Hiến  của tỉnh Bình Định.

 

Với phong trào khuyến học, khuyến tài mà Đảng và chính phủ  đang phát động, thiết nghĩ  tỉnh Bình Định nên khẩn trương khôi phục lại Văn Miếu  để con cháu  thấy được  truyền thống  trọng hiền tài  của ông cha  mà chăm lo sự học, đặc biệt là  ý thức  khuyến học đến từng dòng họ , từng gia đình làng xã nhằm nuôi dưỡng ý chí  ham học hỏi của quê hương./.

 

( Bài trích từ cuốn " Văn hoá dân gian xã Nhơn Thành"của Mai Thìn

- NXB Khoa học xã hội, 2004 )

Mai Thìn
Số lần đọc: 3480
Ngày đăng: 20.04.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Kỷ niệm 135 năm ngày hy sinh của “TỨ KIỆT” (14/2/1871 - 14/2/2006 ): Truyền thuyết dân gian về “Tứ Kiệt” - Võ Phúc Châu
Cơm Hến, - Trần Kiêm Ðoàn
Vị trí truyện BA PHI trong VĂN CHƯƠNG TRÀO PHÚNG VIỆT NAM - Vũ Ngọc Khánh
Nét độc đáo của câu đố dân gian Đồng bằng sông Cửu Long - Hồ Xuân Tuyên
Truyền thuyết dân gian về cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân - Võ Phúc Châu
Nghệ Thuật Gốm Trà Việt Nam - Phan Quốc Sơn
Lễ hội OK-om-Bóc (lễ Hội cúng trăng hay đút cốm dẹt) : - Tô Duy Chiêm
Diện mạo xã hội nam bộ đầu thế kỷ XX qua truyện thơ Sáu Trọng - Trần Dũng
Thử tiếp cận một cách nhìn khoa học hơn - Trần Dũng
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU - Trần Dũng