Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.241
123.154.613
 
Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử-phần hai và hết
Nguyễn Đức Hiệp

Đồng Nai

 

Từ Sai gon, qua cầu Đồng Nai, về phía trái hướng thành phố Biên Hòa ở giữa sông Đồng Nai là Cù Lao Phố lịch sử rộng lớn với nhiều cây xanh. Đây là nơi định cư đầu tiên trước cả Saigon-Chợ Lớn nhiều năm.  Tại đây vẫn còn Miếu Quan Đế hay gọi là chùa Ông thờ Quan Văn Tr ường (Quan Công) của người Hoa, là ngôi miếu cổ nhất Nam bộ xây dựng vào năm 1684, được trùng tu nhiều lần trong đầu thế kỷ 19 bởi Trịnh Hội, Trịnh Khánh và Trịnh Hoài Đức (7).

 

Về phía Nam nước Việt lúc đó, Cù lao Phố là trung tâm phát triển thương mại, kinh tế ở vùng Đồng Nai trong lúc Saigon, Bến Nghé, Chợ Lớn (gọi là Gia Định sau này) chỉ là rừng rậm. Câu ca dao nổi tiếng

Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân cũng trãi, Đồng Nai cũng từng

nói lên hết vị trí lịch sử của cù lao Phố. Cù Lao Phố hoàn toàn bị phá huỷ khi quân Tây Sơn vào năm 1773, đánh chiếm và triệt hạ người Hoa ở đó. Một số còn sống, chạy đến vùng bến Nghé và Chợ Lớn lập nên cơ ngơi mới, và vùng Saigon Chợ Lớn bắt đầu thành hình. Ngày nay, cù lao Phố nay là xã Hiệp Hòa, đối diện với thành phố Biên Hòa, vẫn còn thưa thớt dân cư.

 

Cũng ở cầu Đồng Nai, về phía tay phải theo dòng nước chảy xuống Cát Lái, ở tả ngạn là Long Bình xưa kia là căn cứ quân sự và kho chứa đạn dược của quân đội Mỹ, nay là khu công nghiệp 2 lớn nhất ở Biên Hòa. Ở hữu ngạn là Long Thành Mỹ, thuộc quận 9 nơi có đất vườn tre, dừa của ông Tư De (Nguyễn Văn De) mà hàng đàn các loài chim cò và bồ nông từ các vùng chung quanh đến trú ngụ, lập tổ từ năm 1980. Không những ông trồng thêm các cây dừa cho chúng đến trú ngụ làm tổ mà ông còn săn sóc các con bị thương, bệnh tật, càng ngày có nhiều chim cò, bồ nông đến vườn ông làm chổ dung thân. Ông không chia cắt đất bán hưởng lợi khi giá đất tăng trong nhiều năm qua khi thành phố Hồ Chí Minh càng ngày càng phát triển ra khu ngoại vi.

 

Sau khi qua cầu Đồng Nai, đi một đoạn ở phía trái là Bình Đa cách đây không lâu tìm thấy được 1 di tích khảo cổ với nhiều hiện vật gồm nhiều đồ gốm, đàn đá và xương động vật, chứng tỏ xưa kia người dân tộc có liên hệ với vùng Tây Nguyên sống ở đây (có thể là dân tộc Êde) và chung quanh đây là vùng rừng rậm có nhiều hoang thú như nai, heo, trâu bò rừng.. Không lạ gì mà có tên gọi Hố Nai ở phía trên gần Bình Đa.

 

Vào năm 1922 thời thuộc Pháp, khi du lịch mới bắt đầu từ Saigon đi các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tạp chí "La Vie technique et Industrielle", tạp chí cho người Pháp ở Việt Nam và các nhà đầu tư đã viết như sau

“.. Tốt hơn là chỉ rời Saigon khoảng 17giờ30 hay sau bữa cơm chiều. Đi đường thẳng, từ Bà Rịa đến Biên Hoà qua Long Thành, ít thắng cảnh nhưng ngắn hơn (125km, 3giờ30) đường đã đi buổi sáng.  Đường này có nhiều điểm lý thú cho người mới đến: đi qua nhiều rừng lớn và các đồn điền cao su nhiều ấn tượng. Đường Biên Hoà-Bà Rịa, đây là vùng rất rất tốt để săn bắn, có rất nhiều nai, heo rừng, công, trĩ, gà rừng và đôi khi cọp và voi.”

 

Điều này cho thấy cách đây không lâu, chung quanh Saigon vẫn còn rừng rậm và có nhiều thú.

 

Đường cái quan từ Saigon đi Biên Hoà đầu thế kỷ 20


 


Từ Biên Hoà đi Xuân Lộc, khu này trước kia có nhiều đồn điền trồng cao su do người Pháp thiết lập trong những năm đầu thập niên 1930, và hiện nay vẫn còn các rừng cao su quốc doanh. Theo sách L'Indochine Moderne, (Percheron et Teston, 1931), buổi đầu của kỷ nghệ trồng cao su ở Đông Nam Bộ đã xảy ra như sau

 

“Năm 1897, một dược sĩ tên Raoul, từ chuyến đi công vụ ở Java, đã tặng các hạt giống cao su cho Thảo cầm viên Saigon mà trước đó vào năm 1891 đã có một số hạt cao su để trồng thử nhưng không có kết quả.

 

Các cây từ hạt giống được phân phối ở các vườn thí nghiệm của Sở canh nông (Services Agricoles) ở Ongiem và ở các vườn đất của các người Pháp thực dân. Cùng thời gian này (1898-1899), ông Belland thiết lập đầu tiên, một đồn điền cao su nhỏ, bằng phương tiện riêng của ông, ở ngoại vi Saigon. Phải mất khoảng 8 năm sau, canh tác trồng cao su mới có kết quả khả quan, mặc dầu có nhiều cố gắng nhiệt tình bỏ ra của các như ông Capus, giám đốc Sở Kinh tế (Services Economiques), ông Josseline, Seligman, bác sĩ Yersin, ông Canavaggio, ông O'Connel, ông Guèry, ông Cazeau, Girard và Haffner.

 

Các đồn điền Suzannah (1907) et de Xatrach (1908) được thành lập. Vào thời điểm này và cho đến 1918, là lúc các vùng đất lớn quan trọng, đất tốt cho cao su, được các công ty lớn làm sở hữu và dùng các phương pháp có hệ thống và vốn đầu tư lớn để phát triển.

 

Chỉ ở các vùng cao, thung lũng và nhiều rừng cây mát ở phía Bắc và Đông Saigon là các dự án mang lại kết quả. Ở đó có hai loại đất được gọi theo màu của chúng: đất nâu và đất đỏ, kết hợp tốt cho trồng cây cao su. Đất đỏ, nhờ sự giữ nước và giàu chất acid posphor và chất sắc, làm cho đất giàu mỡ hơn là đất nâu. Cây cao su phát triển rất tốt ở vùng đất này; chỉ có vấn đề là đồn điền xa và cây cối dầy đặc (như rừng tre), và sự vắng mặt của cơ xưởng tại chổ làm khó khăn khai thác cao su và cần có nhiều vốn.

 

Vào năm 1911, có 4900 hecta dất trồng cao su một nguồn tài nguyên tốt cho đến khi chiến tranh thế chiến thứ nhất. Năm1920-1922 giá cao su thấp nên sự phát triển đồn điền chậm lại. Sự cân bằng được thiết lập lại vào năm 1923 và giá cao su tăng mạnh từ 1925 đến 1928... Vào năm này, sản xuất cao su đạt đến 10330 tấn với diện tích trồng 90225 hecta, mà 60% là trên đất đỏ. Cũng năm này, ở thuộc địa Hoà Lan sản xuất 108000 tấn..

 

Năm 1928, các đồn điền cao su ở Đông Dương dùng hơn 80,000 phu đồn điền bản sứ, được tuyển hơn phân nữa từ miền Bắc (Tonkin). Các xưởng cao su ở Pháp mỗi năm dùng 68000 tấn, nhưng chỉ khoảng 5483 tấn là từ Đông Dương...

 

Một việc làm lớn thời thực dân là để sản xuất cao su ở Nam kỳ (Cochinchine), một phần lớn là nhờ năng lực và sự bền bỉ của người trồng (thực dân Pháp). Chính quyền cũng hoàn thành nhiệm vụ, không những bởi sự giúp đỡ hữu hiệu mà còn cống hiến vào sự nghiên cứu cây, mủ cao su v.v...

 

Đó là một sự tự hào của người Pháp ở Nam kỳ đã gây dựng được những đồn điền cao su lớn, có thể so sánh với các đồn điền ở các đảo thuộc địa Hòa Lan hay ở bán đảo Mã Lai, bởi sự tổ chức tốt và những kết quả gặt hái được."

(Theo “L'Indochine Moderne”, Percheron et Teston, 1931)

 

Có điều sách nói như trên chưa đủ: thiếu hẳn sự mô tả về nổi khổ cực của công nhân Việt Nam bị bắt làm phu đồn điền cho thực dân Pháp. Sự bóc lột này là sự tủi nhục của chế độ thực dân và sau cùng đã đưa chế độ chúng cáo chung khi Việt nam dành được độc lập và sự thảm bại của Pháp trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

 

Có hai giả thuyết về nguồn gốc của từ Đồng Nai. Giả thuyết đầu cho tên Đồng Nai là đọc trại từ tiếng Nông Nại mà người Hoa ở Cù Lao Phố phát âm từ Giản Phố Trại dùng để chỉ Kambuja (trong “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức dùng âm Kambuja dịch thành Giản Phố Trại). Giả Thuyết thứ hai của Bình Nguyên Lộc dựa vào ngôn ngữ học có nhiều cơ sở hơn. Theo ông thì Đồng Nai là từ âm Đồng của tên sông Đa Đung hay Da Dong (tiếng Mạ là Đạ Đồng) hiện nay là tên sông thượng nguồn của sông Đồng Nai phát nguồn từ cao nguyên Liang Bang (Lâm Viên) và vùng này có nhiều nai nên người Việt mới đến gọi là Đồng Nai. Thượng nguồn sông vẫn còn giữ tên Da Dung, tên gọi của người bản sứ. Cũng có thuyết cho rằng Đồng Nai là do cánh đồng có nhiều nai (lộc giã). Bình Nguyên Lộc lấy địa danh Đồng Nai nơi sinh quán của ông làm bút danh.

 

Bình Nguyên Lộc, sinh trưởng ở đất Đồng Nai, thuở thiếu thời ông sống và giao tiếp với các dân tộc Mạ, Stieng, Ede, Gia Rai.. và để ý đến ngôn ngữ và lối sống của họ. Chính những kinh nghiệm này về sau ông mới viết quyển sách nghiên cứu nổi tiếng “nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”.

 

Qua Hố Nai, Trảng Bôm, tới Dầu Giây đường đi có hai ngõ, về phía tay trái là đi Đà Lạt và nếu đi thẳng thì đi Long Khánh-Xuân Lộc và các tỉnh ven biển miền Trung. Xuân Lộc sau chiến tranh đã hoàn toàn đổ nát, Xuân Lộc ngày nay là chủ yếu là Long Khánh ngày xưa phát triển lớn ra từ những dân tản cư đến sau cuộc chiến. Vùng Dầu Giây-Xuân Lộc là nơi có nhiều di tích khảo cổ từ thờ đại đá cũ/mới đến văn hóa Sa Huỳnh. Ở Dầu Giây, đã tìm thấy các mộ chum của văn hóa Sa Huỳnh mà Saurin đã phân tích cho là có cách đây 2000 năm. Gần Xuân Lộc, ở hướng bắc qua ngã ba Tam Phong trên đường đi về hướng Bà Rịa-Vũng Tàu là mộ cổ cự thạch nổi tiếng Hàng Gòn nằm trong nông trường Hàng Gòn của công ty quốc doanh cao su Đồng Nai. Năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng Gòn được xếp vào di tích quốc gia Việt Nam.

 

Gần Gia Ray (bắc Xuân Lộc) là núi Chứa Chan cao 837m có chùa Bửu Quang xây và dựa vào các hang động thiên nhiên. Vào dịp Tết, rất nhiều người về đây để hành hương. Theo Bình Nguyên Lộc thì cả vùng Đồng Nai xưa kia là xứ sở của người Mạ (nay chỉ còn lác đác) và Gia Ray là gốc từ tiếng Mạ (từ Ya gốc Mã Lai Austronesian nghĩa là  sông, nước). Qua khỏi Xuân Lộc, trước là chiến trường lớn trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh vừa qua, là bắt đầu đi vào địa phận của tỉnh Bình Thuận. Ở đây vẫn còn nhiều người dân tộc Chăm sinh sống, có các làng Chăm rãi rác trong tỉnh. Ngày tôi đi Bình Thuận, tôi có may gặp đúng ngày một đền thờ Chăm hồi giáo rất lớn dọc quốc lộ được khánh thành với rất nhiều đồng bào Chăm tề tụ. Người Chăm hiện nay theo hai tôn giáo chính: Ấn độ giáo và Hồi giáo.

 

Bình Thuận

 

Đi quá Hàm Tân (La Gi), trên đường đến Phan Thiết, về phía trái quốc lộ có ngọn núi Tà Cú rất cao (khoảng 580m), nơi đây là khu du lịch có cáp treo lên núi và một tượng Phật nằm lớn nhất nước dài 49m xây từ năm 1962. Khi xưa chung quanh vùng và trên núi còn rừng cây, chỉ có những phật tử kiên trì hành hương mới lặn lội đi lên núi, đường dài và rất khó khăn, phải ngủ lại dọc đường nay thì có cáp treo nên không còn là trở ngại lớn. Thế mới biết xây được tượng phật trên núi là quả một kỳ công lớn. Khu vực quanh núi Tà Cú ở Đồng Nai còn có người Khmer, Tà Cú là 1 trong 4 núi thiêng (Tà Cú, Tà ban, Tà Lễ và Tà Đôn) theo dân nói là thờ thần Chăm nhưng tên núi cho thấy có nguồn gốc Khmer. Dân tộc Khmer thờ thần đá, núi, đất gọi là Tà (ông). Ở lưng chừng núi có ngôi chùa cổ Linh Sơn Trường Thọ, có tháp Hữu Đức được vua Tự Đức sắc phong. Theo chuyện lưu truyền của người Việt thì trên núi Tà Cú có 2 con rắn lớn, một đực một cái, rắn cái có ngậm hạt ngọc lớn. Ai lấy được ngọc này sẽ có nhiều may mắn nhất là thắng bài trong các canh bạc. Nhiều người đã cố gắng dụ hai con rắn ra khỏi hang bằng cách dùng gà nuôi làm mồi nhử chúng. Một ngày kia, chúng ra khỏi hang đến ăn mồi của một ông nông dân, khi rắn mái mở miệng, nhả ngọc ra để ăn mồi thì ông này lấy được ngọc. Lấy được ngọc, ông này bỏ đi. Khi rắn đực biết được ngọc đã mất, cả hai rắn tức giận đi tìm và tàn phá làng mạc và rừng cây trên núi. Nhiều người phải bỏ làng đi vùng khác.

 

Nói đến Bình Thuận, Phan Thiết là phải nói tới thanh long. Cây thanh long được trồng ở khắp nơị Chủ yếu đất ở đây là dùng cho vườn cây trái thanh long, mổi gốc cây thanh long trồng dựa trên các cột trụ đá xi măng. Khí hậu vùng Phan Thiết Bình Thuận nóng khô, gần biển rất thích hợp cho cây thanh long, một loại cây thuộc họ xương rồng. Lúc ban đêm, các vườn cây thanh long đều mở đèn đêm để trái thanh long ra sớm và nhiều đợt, ánh đèn từ các vườn cây thanh long trong đêm tỏa sáng trong đêm rất đẹp. Thanh long ở đây được chở đi bán nhiều vùng trên đất nước và xuất khẩu qua Trung quốc, Đài Loan, Hong Kong. Hiện tượng trồng thanh long chỉ bắt đầu cách đây hơn 10 năm. Thanh Long là giống cây xuất phát từ Trung và Nam Mỹ, được người Pháp mang vào Việt Nam. Nhung chỉ sau này khoảng đầu thập niên 1990, thanh long mới được sản xuất thương mại ở Bình Thuận chủ yếu cho thị trường Đài Loan, Hong Kong và Singapore.

 

Thành phố Phan Thiết thành lập chỉ cách đây hơn 100 năm, vào năm 1898. Hiện nay dân số khoảng 100,000. Đầu năm 2001, cách bờ biển Phan Thiết khoảng 40 hải lý, các ngư phủ một tàu đánh cá bị vướng lưới, lặn xuống để tháo gỡ thì khám phá ra một tàu xưa Trung quốc chở gốm thời Minh bị đắm. Theo sự thẩm định của các nhà nghiên cứu thì đây là tàu bi đắm vào năm 1608 của một thương gia Hoa kiều tên I Sin Ho được công ty Đông Ấn Hoà Lan (VOC) đưa tiền đặt mua gốm nhà Minh chở đến Johore, nam bán đảo Mã Lai để trao cho đại diện công ty Đông Ấn, ông A Van den Broecke, nhưng chẳng may đụng phải san hô và bị đắm. Van den Broeke đã viết báo cáo ngày 21/7/1608 về văn phòng của công ty Đông Ấn ở Banten (Java) là tàu đã bị đắm và mất hết hàng. Sự khám phá ra chiếc tàu cổ bị đắm mang nhiều gốm cổ quý đời Minh được chính quyền tỉnh Bình Thuận ra sức bảo vệ để khỏi mất mát, sau đó giao cho một nhà khảo cổ hải dương người Úc và công ty vớt tàu Mã Lai khai quật lên từ dưới biển vào năm 2002. Một số gốm đã được bán đấu giá qua công ty Christie ở Melbourne vào năm 2004 và số còn lại được giữ ở Viện bảo tàng tỉnh Bình Thuận và bảo tàng Việt Nam. Số tiền từ đấu giá được dùng sửa sang Viện bảo tàng tỉnh và xây bảo tàng mới chứa các hiện vật được khai quật

 

Khu du lịch mủi Né chỉ mới thành hình chưa đến 10 năm nay. Tất cả bắt đầu khi hiện tượng nhật thực xảy ra vào ngày 24 tháng 10 1995, nhiều người trong và ngoài nước đổ đến Phan Thiết và Mủi Né xem nhật thực. Trong số những người nước ngoài đến xem, có một người Pháp, ông  thấy phong cảnh và bải biển Mủi Né rất đẹp. Ông quyết định bỏ tiền đầu tư xây dựng một khu du lịch đầu tiên ở Mủi Né. Khu du lịch này gọi là Victoria Resort. Từ khi khu du lịch Victoria được mở ra, nhiều du khách đã đến Mủi Né và sau đó do sự ưa chuộng và thịnh hành của du khách đến phong cảnh Mủi Né càng ngày càng nhiều, nhất là khách nước ngoài, nhiều khách sạn và khu du lịch khác được xây lên cạnh Victoria Resort. Ngày nay khu du lịch Mủi Né rất sang trọng và đông khách từ mọi nơi đổ đến.

 

Qua khỏi thị xã Phan Thiết trên đường đi Mủi Né, rẽ tay trái đi vào một đoạn ngắn là một di tích tháp Chàm gọi là Tháp Po Sa Nua (hay gọi là tháp Phú Hài), được xếp vào loại di tích lịch sử quốc gia. Tháp đã được trùng tu lại với các viên gạch còn rất mới. Tháp Po Sha Nua, thực sự gồm hai tháp chính và một tháp nhỏ đã hư hại nhiều cạnh tháp lớn nhất, được xây trên một đồi không cao lắm, nhưng từ trên đồi có thể thấy toàn thị xã Phan Thiết. Phía bên phải Po Sha Nua là một ngôi chùa Việt Nam hiện vẫn còn hoạt động. Tháp được xây vào thế kỷ 8, là một trong các tháp cổ nhất của vương quốc Champa và là tháp lớn cuối cùng ở phía nam của Champa. Lể hội Kate của người Cham vẫn còn được tổ chức hàng năm ở tháp Poshanu. Xưa kia cạnh tháp có đền thờ Champa nhung đã bị đổ nát và chôn vùi đã hơn 300 năm.

 

Phú Hài là từ chữ Chăm pagai mà ra, khi nhà khảo cổ Parmentier của trường Viễn Đông bác cổ đến đây, ông nhận thấy ra ngay sự khác lạ của tháp Po Sa nua với các tháp Chăm khác là tháp không có các tháp nhỏ ở trên 4 góc của các tầng tháp và là tháp duy nhất có kiến trúc cột tròn ở cửa giả và các góc tháp. Qua sự giống nhau về kiến trúc với các tháp Khmer thời tiền Angkor, các nhà nghiên cứu cho là tháp có niên đại thế kỷ 8. Tháp Po Sa nua vì thế là tháp cổ nhất trên vương quốc Champa xưa. Mặc dầu không thuộc phong cách kiến trúc nào, tháp được xếp vào loại phong thái Mỹ Sơn E1 theo thời gian (4). Người Chăm nói là tháp thờ tiểu tiên nữ Poh Cah Anaih (Nàng Ca bé) hay Po Sa nu (Tiên Sa bé), con gái của nữ thần xứ sở Po nagar. Còn theo nhà nghiên cứu Cabaton thì khu tháp Phú Hài thờ Po Bia tikuh, tức nàng tiên chuột, cũng là con gái của thần thiên mẫu xứ sở Po Nagar.

 

Tháp Poshanu về kiến trúc và phong thái chịu ảnh hưởng của tháp Khmer thời Chân Lạp, chứng tỏ nghệ thuật Chân Lạp có ảnh hưởng vì cụm tháp Poshanu nằm ở khu vực tiếp giáp Champa và Chân Lạp thuở xưa. Theo Ngô Đăng Doanh thì tháp Poshanua có nhiều điểm giống với những ngôi tháp Bình Thanh và Chót Mạt ở Tây Ninh (2). Ở tháp lớn nhất trong cụm tháp Poshanu thờ thần Shiva qua kiến trúc đá mukhalinga (linh phù linga trên bệ vuông yoni). Bên ngoài tháp phía gần tường rào hướng về lầu ông Hoàng cũng có bệ đá mukhalinga.

 

Cạnh tháp phía bên trái lên cao một chút là Lầu Ông Hoàng, trong chiến tranh kháng chiến chống Pháp là cứ điểm phòng thủ của Pháp với tháp canh, công sự. Trong một trận tập kích căn cứ này đã bị tấn công và cả 1 đại đội Pháp bị tiêu diệt và bắt sống, tượng tưởng niệm ghi công trận này đã được dựng ở phía trước các công sự mà dấu tích vẫn còn để lạị. Tên lầu ông Hoàng là do một nhà nhỏ xây ở đây của một ông hoàng người Pháp, sau đó bị bỏ hoang (1).

 

Vào khoảng đầu năm 1911, một ông công tước người Pháp tên de Montpensier thăm viếng vùng này trong lúc du ngoạn và săn bắn ở các đồi núi gần đó. Ông bị thu hút bởi cảnh quá đẹp, và quyết định mua đất ở đây để xây một toà nhà villa nghĩ mát. Villa của ông hoàng người Pháp này khởi công xây từ tháng 2 1991 và hoàn tất 1 năm sau đó. Villa cách tháp Poshanu khoảng 100m về phía nam, rộng khoảng 536m2 và gồm có 13 phòng. Nhà biệt thự này lúc xây có máy phát điện và hồ chứa nước cung cấp nước cho các phòng. Thời đó biệt thự lớn, đẹp và hiện đai nhất nên dân địa phương gọi là lầu ông Hoạng Tháng 7. 1917 de Montpensier bán biệt thự đó cho 1 người Pháp tên Prasetts. Ông này xây thêm một khách sạn ở mộ ngọn đồi bên cạnh và biến vùng này thành địa điểm du lich. Biệt thự và khách sạn đã bị huỷ diệt trong chiến tranh Việt Pháp.

 

Trong tác phẩm (1908)  "La ville au bois dormant" của ông Hoàng Duc de Montpensier, ông đến Saigon trên tàu du ngoạn “Le Polynesien” vào tháng 2 1908 để thực hiện hành trình thám hiểm đi xe từ Saigon đến Angkor. Khở đầu cuộc hành trình đã bắt đầu không tốt khi chiếc xe hơi “L’Annam” khi mang xuống từ trên tàu, dây cáp bị đứt và xe rơi xuống từ trên cao 10m. Xe được sửa chửa và may thay không bị hư hại nhiều vì sườn xe và máy vẫn tốt. Xe hiệu Díetrich làm tại Mỹ có tiếng là bền.

 

Về cuộc thám hiểm của ông hoàng de Montpensier, nhiều người đều cho rằng đây là một sự phiêu lưu điên rồ. Tuy vậy cuộc hành trình cũng đến đích mặc dù rất vất vả. Đi cùng với ông Hoàng là các bạn ông de Guérin, de Gustave de Bernis và một người hướng dẫn kiêm thông dịch và nấu ăn, người này đã bỏ cuộc trong chuyến hành trình bỏ lại ông Hoàng và mấy bạn của ông khi chưa tới nửa đường...

 

Chính tại khu vực lầu Ông Hoàng cũng là nơi mà dư luận cho rằng thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm đã ra đây tâm sự trong những đêm nhìn xuống thị xã, biển và ông đã mắc bệnh hiểm “phong” (cùi) là do mắc phải uế khí của nơi này.  Trong bài thơ “Phan Thiết!, Phan Thiết” của thi sĩ đa cảm họ Hàn, ta vẫn còn có thể cảm nhận sâu sắc mổi tình đau của ông.

 

Phan Thiết!, Phan Thiết

...

Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng

Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang.

 

Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết

Ôi trời ôi! là Phan Thiết Phan Thiết

Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi

Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi

Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ

Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!

Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng

Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,

Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết

Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!

Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu

Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư .

(Xuân Như Ý)

 

Lầu ông Hoàng nay chỉ là phế tích không còn gì nữa. Tôi đi giữa một buổi trưa mùa xuân rão bộ trong khu vực cạnh tháp chàm mà tưởng tượng cách đây hơn 70 năm, Hàn Mạc Tử cũng nhìn quanh đây cảnh trơ vắng hoang tàn, xa xa dưới kia là thị xã Phan Thiết và biển thì mới cảm được nổi cái tình cảm đau buồn đầy kỷ niệm của ông. Cũng chính từ tháp chàm nơi đây mà Hàn Mạc Tử có bài thơ “Thi sĩ Chàm” đăng trên tạp chí “Nắng Xuân” năm 1936 đề tặng bạn ông là Chế Bồng Hoan (Chế Lan Viên)

 

Thi sĩ Chàm

Ta mới thấy xuân vờn trong ánh sáng

Muôn sắc hình múa giỡn dưới ao khuya

Đôi tháp cao kiêu hãnh với hàng bia

Với lau lách ngã mình trong cảnh vắng

Sợ chừng như tiếng rụng của sao băng

Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo

Hàng muôn năm sống mãi với đêm sương

Mà vì đâu nghe tiếng bật giữa im lìm

Như mơ tiếc những thời hung bạo

Phải ngươi chăng, bên suối uống mây trôi

Phải ngươi chăng đồi cao đương hoảng hốt

Bọc trăng vàng trong áo ngủ quên đi

Để hoàng hôn loang loáng đốt oai nghi

Bao dấu vết thời xưa giờ ủ dột

Phải ngươi chăng thi sĩ của dân Chiêm

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Người lắng nghe lắng nghe trong đáy giếng

Tiếng vàng rơi chìm lỉm xuống hư vô

Tiếng ngọc địch nhớ nhung còn uyển chuyển

Bên cầu sương lưu đọng ánh trăng mơ

Người thổn thức tiếc buồn bao cảnh sắc

Vì luôn đêm sóng bận réo cung Hằng

Người khóc đi khóc đi cho hả nỗi hờn căm.

(Đau Thương)

 

Năm 1987, tôi có gặp Chế Lan Viên và được biết tình bạn của Chế Lan Viên và Hàn Mạc Tử và sự chân trọng của anh đối với Hàn Mạc Tử. Hầu như trong các buổi tiếp xúc với Chế Lan Viên và các bạn bè anh mà tôi có tham dự (tôi đến thăm anh cùng với cụ Võ An Ninh), anh đều nhắc đến nhà thơ Hàn Mạc Tử. Anh Chế Lan Viên cho tôi biết nhiều năm anh đã bỏ công sức và nhất định phải làm cho xong được nhà lưu niệm cho thi sĩ Hàn Mạc Tử như là một chút gì kỷ vật lại cho bạn. Năm 1989, Chế Lan Viên ngã bệnh, tôi có vào thăm anh ở bệnh viện Chợ Rẫy, anh đã yếu và mấy tháng sau thì mất, tôi được biết là nhà lưu niệm thi sĩ Hàn Mạc Tử đã được thành lập ở Qui Nhơn. Anh cũng để lại tập thơ “Di cảo” xuất bản sau khi anh mất. Ở tháp Po Sa Nua và lầu ông Hoàng ngày hôm ấy, tôi đã nhớ đến anh Chế Lan Viên và thi sĩ tài ba nhưng bất hạnh Hàn Mạc Tử, người thi sĩ được yêu mến nhất trong làng thơ Việt Nam.

 

Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn Mặc Tử được truyền lại như sau: Từ Sài Gòn ra Phan Thiết thăm Mộng Cầm, ông được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng. Đến lúc chiều trở về, qua cánh đồng thì gặp cơn mưa. Hai người phải vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa lớn, trời tối đen, từ trong căn chòi, hai người nhìn thấy có những quả cầu lửa đưới đất vùn vụt bay lên, trong tiếng sấm sét rền vang. Hai người rất hoảng sợ, ôm nhau trong căn chòi. Sau khi hết giông tố, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới biết đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Hàn Mặc Tử thấy ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ trên lưng, và bệnh phong từ đó phát tán.

 

 

 

 

Nam Cát Tiên

 

Để kết thúc và hiểu được cách đây nhiều thế kỷ trong thời kỳ cổ sử và cách đây vài thế kỷ phong cảnh và môi trường ở Đông Nam Bộ thế nào, ta vẫn còn một cơ hội là đến thăm khu bảo tồn sinh thái quan trọng nhất vùng Đông Nam Bộ: Rừng quốc gia Nam Cát Tiên.

 

Tôi có được dịp đi cùng với nhóm bạn cựu sinh viên Colombo Úc viếng thăm xã Nam Cát Tiên và rừng quốc gia Nam Cát Tiên ở Lâm Đồng cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 160km. Một số các anh trong nhóm bạn có nhà và đất mới mua ở xã Nam Cát Tiên làm nơi nghĩ mát, nên đây là một dịp tốt để tham quan và tìm hiểu thêm về hệ sinh thái duy nhất còn được bảo tồn ở vùng đông nam bộ. Đầu năm 2006, Bộ Văn hóa và thông tin chính phủ Việt Nam đã đề nghị lên tổ chức UNESCO để công nhận rừng Nam Cát Tiên là một địa điểm của di sản thế giới.

 

Ta có thể tưởng tượng là cách đây hơn 200 năm cả Vùng Đồng Nai Gia Định ngày xưa có môi trường như thế với rừng rậm, thú kể cả cọp, cá sấu, dân số rất thưa thớt ít người ở. Nay thì đâu đâu cũng chỉ là nhà cửa, thành phố, đất trồng trọt, con người tiếp tục lan rộng, động vật, thiên nhiên bị khai thác hủy hại môi trường sống. Nếu không bảo vệ rừng nguyên sinh cuối cùng ở Nam Cát Tiên, chúng ta sẽ mất đi di sản, tài nguyên vô cùng quí giá

 

Để đến Nam Cá t Tiên, ta theo con đường từ Dầu Giây đi Đà Lạt (Lâm Đồng). Vượt qua cửa sông La Ngà đổ ra một hồ lớn gọi là hồ La Ngà và hồ Trị An cung cấp nước cho thuỷ điện ở tháp Trị An, là vào huyện Tân Phú. Cách đây hơn 5 năm, trên thượng nguồn sông La Ngà, ranh giới giữa hai huyện Tân Phú  (Đồng Nai) và Tánh Linh (Bình Thuận), những con voi cuối cùng của miền Đông Nam bộ, vì bị xâm chiếm đất đã phải phá rẫy, làng ở Tánh Linh. Trong gần 1 năm, chính quyền với sự trợ giúp của tổ chức WWF mới chuyển được các con voi này lên Dak Lak. Thiên nhiên phải lùi bước trước sự phát triển lấn chiếm của con người, đây là một mất mát lớn.

 

Qua sông La Ngà (phụ lưu sông Đồng Nai), trên đường từ Định Quán đến Đà Lạt, qua khỏi khu rừng cây do bà Trần Lệ Xuân trồng trước đây, đến ngã ba rẽ trái đi Tà Lại, rồi từ đó trên con đường nhựa mới xây đến xã Nam Cát Tiên. Trước đây rừng quốc gia Nam Cát Tiên là một phần chiến khu D trong thời kỳ chiến tranh. Từ năm 1983 vì sự xâm nhập và phát rẫy của dân nhập cư, Nam Cát Tiên đã được bảo vệ và trở thành rừng quốc gia (trong thời kỳ chiến tranh và sau giải phóng, thịt thú rừng bị săn bắn được mang đi bán, tiêu thụ ở các làng, thị xã, thành phố quanh vùng cho đến tận Saigon). Hiện nay vườn quốc gia Nam Cát Tiên là khu bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng đất thấp (lowland) quan trọng nhất ở phía Nam Việt nam, hiện chỉ còn vài con tê giác Java hiếm tồn tại sót lại ở Đông Dương, chúng có nguy cơ tuyệt chủng. Trên thế giới hiện nay loài tê giác Java chỉ còn lại ở Nam Cát Tiên và vườn quốc gia Ujung Kulon  (Java, Indonesia). Trong vườn quốc gia Nam Cát Tiên hiện nay có 77 loài thú, 326 loài chim, 82 loài cá nướng ngọt, 40 loài bò sát, 14 cá sấu và loài sống dưới nước và trên bờ và hàng trăm côn trùng. Những loài thú hiếm và quí trong Sách Đỏ Việt Nam ở Nam Cát Tiên gồm có 18 loài thú, 20 loài chim, 12 bò sát và 1 loài sống ở nước và bờ.

 

Trên con đường nhựa nhỏ trước khi đến phà để qua khu rừng quốc gia Nam Cát Tiên là trạm quản lý rừng, ở đây mọi du khách phải vào đăng ký mua giấy phép vào rừng. Sông Đồng Nai ở đoạn này bắt đầu rộng lớn thuộc phần hạ lưu vào đồng bằng chảy xuống Biên Hoà qua Trị An.

 

Trong rừng quốc gia Nam Cát Tiên có khu vực nhà nghĩ và chổ cho mướn xe đạp. Tôi đã mướn xe đạp chạy dọc theo ven rừng dọc sông Đồng Nai. Đến thác nước nhỏ Bến Cù với nhiều đá nổi, lúc này là mùa khô nên nước ít và đã rút, dừng xe đạp, tôi đi xuống giừa các ghềnh đá, chung quanh rất thanh tịnh, lòng cảm thấy thanh thản giữa sông nước, núi rừng. Tiếp tục đạp xe giữa buổi trưa rất ít người, trong một thoáng từ xa hiện ra một chú sóc con trên ven đường, khi tôi gần đến thì chú sóc vôi vã nhảy chạy biến vào rừng.

 

Cây bằng lăng ở rừng Nam Cát Tiên

 

Trên đường đạp xe, có bảng chỉ dẫn đi bộ vào đoạn rừng khoảng vài cây số, có 1 vài du khách nước ngoài và hướng dẫn viên sửa soạn đi vào, họ có mang máy ghi âm để thâu các tiếng chim rừng kêu, chắc đây là 1 đoàn đi khảo sát sinh thái các loài chim. Tôi đi bộ vào rừng theo họ, trong rừng tối, mát nhưng ẩm thấp, cây cối chằng chịt cao ngất. Đến một ngã rẽ, tôi nghe anh hướng dẫn viên chỉ tôi đi đến xem một cây bằng lăng to lớn với thân rộng khổng lồ đến hơn chục người ôm cũng được. Rừng Cát Tiên vẫn còn các cây bằng lăng, cây kơ nia - đặc trưng của núi rừng Tây nguyên, cây thiêng của người dân tộc. Theo Bình Nguyên Lộc, thì ở Đông Nam Bộ, ta gọi là cây bằng lăng trong khi từ Mỹ Tho đến Cà Mau gọi danh mộc ấy bằng từ Khmer là cây thau lau, chứng tỏ vùng Đồng Nai chưa thuộc Khmer mà là của người Mạ.

 

Ở rừng quốc gia nam Cát Tiên, du khách có thể ở lại vài ngày trong nhà nghĩ, tối đến có thể mướn xe jeep đi vào rừng sâu ban đêm xem thú. Nếu vào sâu hơn nữa gần gần khu đất ngập nước (wetlands), nếu may mắn có thể thấy tê giác. Nằm ở phía bắc rừng Nam Cát Tiên là bầu Sấu, một hồ lớn có nhiều cá sấu. Rừng có nhiều giống chim quí và hiếm.

 

Trong rừng Nam Cát Tiên còn có di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hoá Óc Eo, Thủy Chân Lạp. Vào tháng 10,11/1985, ở phía tây bắc Đa The (huyện Đa Huoai) đã phát hiện một khu di tích khảo cổ lớn gồm nhiều gò mang vết tích kiến trúc bằng gạch với nhiều phiến đá có chạm đường viền, có bệ tượng thờ linga, yoni, hình thần Shiva dập nổi trên tấm bạt linga, các cột đá tròn, chân tán đá vuông có hoa văn, một số tượng thần Uma thắng quỷ trâu, rìu đá mài, vòng đồng và gốm cổ. Di chỉ này có thể liên hệ đến văn hóa Óc Eo hoặc Khmer tiền Angkor và văn hóa Champa mang tín ngưỡng thờ thần Shiva (9). Tuy vậy qua vị trí của di chỉ gần địa bàn cư trú của người Chu Ru và Chăm, ta có thể cho rằng có nhiều khả năng đây là di chỉ văn hóa Champa. Người Chu Ru có ngôn ngữ rất gần tiếng Chăm và được coi là người Chăm miền núi. Họ là tàn tích của người Chăm chạy lên núi sau khi Đại Việt thắng Champa (10).

 

Lời kết

 

Mặc dầu tác giả chưa thăm viếng và mô tả địa danh và lịch sử các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương (Sông Bé), và Bà Rịa-Vũng Tàu, nhưng những nét phát họa trên một số vùng trên miền Đông Nam Bộ đủ cho thấy đây là vùng có bề dầy lịch sử và là nơi hột tụ của các nền văn minh, các dân tộc đến vùng đất có môi trường thiên nhiên sông núi phong phú, đa dạng, với nhiều tài nguyên thực vật, động vật. Hiện nay người Stieng, Mạ, Châu Ro,.. càng thu hẹp và văn hóa của họ có nguy cơ biến mất cũng như tài nguyên thiên nhiên nếu như chúng ta không có biện pháp bảo tồn văn hóa và môi trường, hai di sản quí giá, trong sự phát triển rất nhanh hiện nay về dân số và kinh tế.

 

Tham khảo

 

(1)     Vương Liêm, Về vùng đất cổ miền Đông Nam Bộ, Nhà Xuất Bản Lao Động, 2005

(2)     Ngô Đăng Doanh, Văn hóa cổ Chămpa, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 2002

(3) Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, Nxb Thanh Niên, 2003

(4) Ngô Văn Doanh, Tháp Cổ Chămpa, huyền thoại và sự thật, Nxb Văn hóa thông tin, 1994

(5) Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Văn hoá Óc Eo, những khám phá mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995

(6) Lê Trung Hoa, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ và tiếng Việt văn học, Nxb Khoa học xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 2005.

(7) Trần Hồng Liên, Văn hoá người Hoa ở Nam bộ-tiến ngưỡng và tôn giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 2005.

(8) Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ, Nxb Trẻ, 2004.

(9) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Lê Trung Khả, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1987.

(10) Nguyền Văn Diệu, Vài nét về người Chu-Ru ở Lâm Đồng, tr. 23-31, Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1981.

Ảnh : Cây bằng lăng ở rừng Nam Cát Tiên

Nguyễn Đức Hiệp
Số lần đọc: 5476
Ngày đăng: 29.04.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử - phần một - Nguyễn Đức Hiệp
Người CHÂU ĐỐC – AN GIANG Làm ăn ở NAM VANG xưa và nay - Nguyễn Hữu Hiệp
TRIỆU ĐÀ và NƯỚC NAM VIỆT trong dòng chảy LỊCH SỬ VIỆT NAM - Trương Thái Du
Vụ thảm án tôn thất nhà Lý nay ở đâu ? - Trọng Huân
Quan hệ VIỆT NAM – ĐÔNG NAM Á trong THẾ KỶ XIX : Một vấn đề cần trao đổi. - Đinh Kim Phúc
100 năm nhìn lại DUY TÂN HỘI và phong trào ĐÔNG DU của PHAN BỘI CHÂU - Đinh Kim Phúc
Bảo tàng lăng mộ TRIỆU VĂN VƯƠNG tại QUẢNG CHÂU - Trương Thái Du
Tìm về tư tưởng HỒ CHÍ MINH - Hà văn Thùy
Bàn về nguồn gốc người Việt - Hà văn Thùy
Bài học khó thuộc - Hà văn Thùy
Cùng một tác giả
Wang-Tai là ai? (lịch sử)