(Đọc “Theo mùa” – thơ Thu Nguyệt – NXB Trẻ TP HCM năm 2006)
Tập thơ bìa cứng, trang nhã một màu vàng nâu, mới nhìn tưởng như một mảnh... ván ép. Trong ruột tuyền một loại giấy dày, trình bày giản dị, thậm chí cố làm như cẩu thả, sơ sài. Tên tập thơ, hai chữ: “Theo mùa” chân phương, viết tay như thể bằng bút chì, ngay dưới bức tranh thiếu nhi thu nhỏ như cũng được nguệch ngoạc bằng bút chì. Bức tranh của một cô bé tám tuổi cực kì ấn tượng. Tất nhiên không thể thiếu mấy chữ: “thơ thu nguyệt” (không viết hoa) nhỏ li ti nhìn tinh mới thấy, lại chia thành từng chữ cái mà trình bày theo hàng dọc, nom như bóng của một... cây tăm.
Thế mà bên trong lại chẳng “tăm” tí nào. Tôi phải lấy ngay câu hay nhất, trong một bài thơ vào loại tuyệt bút của tập thơ làm “tít” cho bài viết này. Câu: “Cả đời làm một cuộc rơi không thành”. Bài thơ có tên: “lá giả”. Nguyên văn như sau:
“Sống dai hơn lá ngoài trời
Cả đời làm một cuộc rơi không thành
Gió đùa không biết rung rinh
Nắng mưa không thấm, trơ mình mà xanh
Giọt sương cũng giả long lanh
Hình như chỉ bụi đeo quanh thiệt lòng!!!”
Bạn đã thấy hồn vía của lục bát chưa? nhuyễn đến mức làm người ta quên rằng mình đang đọc một bài... lục bát. Nhưng trên hết là cái tư tưởng xuất thần của tứ thơ. Té ra con người làm ra những chiếc lá giả (bằng ni lon, bằng vải...) chẳng qua là một cách mô phỏng chính... cái kiếp người. Phật dạy kiếp trần tục chỉ là tạm bợ, là giả. Thì có khác gì chiếc lá bằng ni lon, bằng vải... ấy. Tất cả đều là giả hết. Giả từ màu xanh cho đến sự long lanh... Nhưng mà cái thứ bám vào là bụi, bụi đời kia thì... có thật. Bài thơ ngắn, nhẹ nhàng mà thấm thía. Câu: “Cả đời làm một cuộc rơi không thành” có thể ám ảnh bất cứ người nào (chẳng may) đọc phải.
Cần phải nói rằng trong “phong trào” mới mẻ, cách tân, phá phách... thi ca, chữ nghĩa, văn chương sôi sục, lục bục như một nồi cháo khê vĩ đại hiện nay, Thu Nguyệt là một nhà thơ trẻ vẫn bình tĩnh giữ cho mình một giọng điệu truyền thống. Có vẻ như nữ sĩ này cho rằng hình thức, giọng điệu không quan trọng. Quan trọng là có cái gì ở trong “thơ” hay không. Không chọn trước giọng điệu, tôi biết có nhiều người làm thơ như thế. Cứ mặc cho cảm xúc nó “hạ” ta xuống “con đường” nào, ừ thì đi theo “con đường” đó. Mọi “con đường” đều dẫn tới... thi ca! Một tập thơ gồm bốn mươi tám bài, có đến ba phần tư (ba mươi sáu bài) viết dưới thể lục bát. Vậy mà đọc vẫn không nhàm. Bài “theo mùa” mở đầu tập thơ, chính là nói đến cái “tâm” ấy của nhà thơ. Một thứ “tuyên ngôn” giản dị của một tâm hồn nữ sĩ:
“Lòng người chẳng hạ chẳng đông
Lòng ta hạt nhớ đem trồng đất quên
Cây đời ta mọc mình lên
Ngả nghiêng rồi cũng làm nên bóng tròn
Lẽ thường nắng tắt mưa tuôn
Ta không có bóng vẫn còn có ta
Không cần trái, chẳng cần hoa
Xanh xanh vài chiếc lá là có cây
Lộc non chăm chút tháng ngày
Vậy rồi...
ta thả lá bay theo mùa.”
Bạn cứ đọc tiếp tập thơ đi, rồi bạn sẽ tin rằng Thu Nguyệt đã đạt tới cái “nhẽ” của một nỗi lòng tâm thế. Những bài thơ, những câu thơ không còn mang “giới tính” của người đã sáng tạo ra nó. Đây là điều khác biệt hẳn đối với đa số các nữ thi sĩ ở xứ ta hiện nay. Thơ của các “nàng” đọc một bài, thậm chí một câu cũng biết ngay đó là của một nhà thơ nữ. Nếu không xưng “em”, thì cũng có gì đó điệu đàng như được phớt qua son phấn, thậm chí có “nàng” còn không ngần ngại lôi cả “của quí” của mình vào thơ. Thơ Thu Nguyệt hoàn toàn không giống như thế. Cả tập thơ chỉ hai ba bài có chữ “em” thì hình như lại để ở ngôi... thứ hai. Ngôi thứ nhất trong mấy bài ấy vẫn là chữ: “Ta”. Cứ như thơ của một chàng trai tặng cho người tình của mình vậy. Ví dụ bài: “gió tan”:
“Luôn vòng tránh nẻo bình yên
Tình yêu, ngọn gió luôn quên bầu trời
Biết lòng gió chỉ vậy thôi
Mênh mông em vẫn bầu trời đa đoan
Vẫn thừa một ánh trăng sang
Vẫn dư một mặt trời khan ngắm mình
Rối ren ngàn ánh sao xinh
Lung tung hàng triệu thứ tình không đâu
Ta tìm hoài gió trong nhau
Gió tan lại miệt mài đau suốt đời
Ta quên có một bầu trời
Bên ngoài ngọn gió có rồi lại tan...”
Kể ra bài này vẫn có chút gì lý sự, làm dáng chữ nghĩa, phảng phất một giọng thơ học trò. Cái gì mà “ánh trăng sang”?, rồi lại “ánh sao xinh”?... Nhưng đến mấy câu trong bài “ngoái” sau đây thì các bậc mày râu thi tửu xưa nay chắc cũng viết đến thế là cùng:
“...
Kẻ ngông bày ra rượu
Người trí bày ra trà
Ta không ngông không trí
Trà rượu đều chán ta.
...”
Đã tâm thế thì không thể không triết lý. Con người trôi theo dòng chảy cuồn cuộn của cuộc đời thật khó mà nhận ra một cái gì đó của riêng mình. Thu Nguyệt viết về cái triết lý ấy rất giản dị mà rõ ràng. Bài thơ có tên: “miền không bay”:
“Ta là cái kiếp thiên di
Nương theo lực hút mà đi theo đàn
Thuận theo thời tiết mùa màng
Một chiều trở chứng rẽ ngang thình lình
Xứ xa đứng hót một mình
Thấy hoàng hôn giống bình minh lạ lùng
Quay về lực hút đàn chung
Phận non thì phải bay cùng thế thôi
Lâu lâu làm chuyện ngược đời
Tách đàn ra đứng khơi khơi...
lại vào!
Lạc đàn ta chẳng muốn đâu
Mà sao thi thoảng cứ nhào ra riêng
Gió lùa theo hướng chữ DUYÊN
Ta bay chung để đến miền không bay.”
Tôi có thói quen đọc thơ khác với đọc tiểu thuyết. Tiểu thuyết thì phải đọc lần lượt từ trang đầu đến trang cuối, hết tập nọ rồi mới đến tập kia. Thơ thì không cần phải như thế, thậm chí không nên như thế. Một tập thơ có thể đọc bắt đầu bằng bất cứ trang nào, bất cứ bài nào, thậm chí câu nào. Mở ra rồi gấp lại. Gấp lại lại mở ra... Cái kiểu đọc ấy rất thú, nó không làm ta nhàm chán đã đành, lại rất dễ “tóm” được những câu thơ hay. Chẳng hạn:
“Biển ngàn năm vẫn mênh mông
Ta ngàn năm vẫn nghe lòng cạn khô.” – Bài “cạn” trang - 18
Hoặc:
“Núi rừng cứ đẹp trơ trơ
Làm cho ta bỗng nghi ngờ chính ta...” – Bài “mỏi mòn” – trang 27
Hay là:
“Gió nương mái cũ đi nhờ
Hiên nhà dấu nước vẫn chờ giọt mưa.” – Bài “vẫn y” – trang 25
Đến những câu như thế này thì thật thích:
“Hình như núi sững sựng buồn
Mây bay trần tục như luồng khói xe.” – Bài “mốt” – trang 13
Vân vân...
Tập thơ còn có hai bài lục bát, hiện đại bởi dùng ngay những thuật ngữ vi tính, biến ngôn ngữ trên bàn phím, trên màn hình máy vi tính thành ngôn ngữ thơ rất khéo, rất tài hoa. Bài “keyboard thơ”:
“Ta cầm tinh tuổi con mèo
Vừa đì lít (delete) đã vội seo (save) nỗi buồn
Việc đời nửa nắm nửa buông
En tơ (enter) vừa mất, cuống cuồng ân đu (undo)
Cắt dán (cut paste) dữ liệu lu bu
Phai (file) tình, phai nghĩa... không lưu cũng đầy!
Muốn được an (alt) cũng bó tay
Đời như kiếp chuột (mouse) cứ xoay vòng vòng...”
Bài “không cần password”:
“Ta mong mở cổng niềm vui
Mà không biết password đời đặt ra...”
Tôi cũng đã từng đọc tạp văn của nữ thi sĩ này. Một giọng Nam Bộ tự nhiên, máu thịt. Thơ của chị cũng thế. Có những câu thơ tỏ ra hơi dễ dãi, nhưng vì âm hưởng vùng quê của nó mà vẫn không nỡ trách:
“Cái trò tát nước đầu đình
Bỏ quên áo xống linh tinh mắc cười...” - Bài “chỉ một chữ HƯ”
Đến cái tên bài thơ đôi khi cũng giản dị như một câu nói miệt vườn. Bài: “vậy cũng ngon rồi”:
“Cám ơn chiếc dép người kê
Cho ta ngồi giữa bốn bề cỏ hoa
Bàn chân nhấm dấu đường xa
Dép ngồi sát đất có mà như không!
Dẫu sao còn một chút lòng
Cho nhau tựa giữa mênh mông cuộc đời.
Đâu cần dép phải đủ đôi
Chỉ cần một chiếc kê ngồi cũng ngon!”
Chỗ ngồi này hẳn là ngồi thiền, không thì cũng ngồi bên cạnh chùa. Thiền thì không thể có đôi. Ngồi bên chùa thì chớ ngại lẻ loi. Tập thơ còn có mấy bài viết về thiền, về chùa song chưa có ấn tượng mấy. Chắc tại hồn vía thơ của những vị đại sư kiêm thi sĩ như Mãn Giác thiền sư, Trần Nhân Tông... vẫn còn văng vẳng đâu đây chăng?
5/2006