I-TRÍCH MỘT BÀI VIẾT CŨ
Cho đến bây giờ vẫn chưa ai biết được hai chữ Long Điền xuất xứ từ đâu. Kể cả những cụ già cao tuổi nhất trong làng cũng bảo rằng khi các cụ lớn lên thì đã nghe mảnh đất này mang tên ấy. Nhiều người hiểu về Long Điền bằng một khái niệm giản đơn theo từ Hán, tức là mảnh “đất rồng “ .
Người ta kể rằng hồi đó Long Điền chiếm toàn bộ phần đất phía Đông huyện Giá Rai có bờ biển chạy dài từ cửa sông Gành Hào lên Vĩnh Mỹ. Dân cư thưa thớt bởi hơn hai phần ba đất đai thuộc rừng rậm, nhiều thú dữ. Vùng đồng bằng tuy nhỏ nhưng rất phì nhiêu do hai tên Huyện Kệ và Phủ Mầu làm chủ. Khoảng đầu thế kỷ XX , có một người Hoa tên Sổn chuyên làm nghề lái đường từ Gia Định về Bạc Liêu , không hiểu duyên cớ vì sao , có lẽ vì tên chủ hãng đường ở Gia Định sơ ý để lộn hũ bạc xuống ghe đường của tên Sổn mà sau chuyến đi ấy , tên Sổn từ giã nghề lái đường. Hắn mua được chức quan huyện và phần đất của Phủ Mầu. Từ đó, những người nông dân thuộc tá điền của Phủ Mầu bỗng dưng “ đổi chủ “ , trở thành tá điền của huyện Sổn. Mấy năm sau, huyện Sổn qua đời, con rể của hắn là tú tài Cộc lên thừa kế cơ ngơi. Tên chúa đất trẻ tuổi này lại càng ra sức bóc lột nặng nề hơn cả cha vợ .
Dưói hai tầng áp bức của chế độ thực dân, phong kiến, thật khó mà nói hết cái cảnh cơ bần đói khổ của kiếp sống tá điền :
“ Bát cơm chan đầy nước mắt
Bây còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây- thằng chúa đất
Đứa đè cổ – đứa lột da “
Thế nhưng:
“ Xiềng xích chúng bây không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bây không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà “
Tôi có cảm tưởng như những lời thơ ấy của Nguyễn Đình Thi viết dành riêng cho cái làng ven biển nhỏ nhoi này. Là bởi trong ký ức của mỗi người dân Long Điền vẫn còn đọng lại cái khí thế sôi sục của những ngày dùng giáo, dùng gươm, dùng tầm vông vạt nhọn đi đòi lại quyền làm người. Từ mùa thu năm ấy, mảnh đất đã gắn bó với cuộc đời người nông dân bằng tình yêu, có cả nước mắt, mồ hôi và xương máu .
… Anh Năm Phú dẫn tôi băng qua cánh đồng sang nhà bác Sáu Long. Dù mùa gặt đã xong hơn bốn tháng nay nhưng cả một đống rạ khô vẫn còn đủ sức chứng minh cho một năm trúng mùa cao sản . Năm Phú say sưa giới thiệu với tôi từng mảnh đất cấy giống lúa gì, mật độ gieo cấy bao nhiêu , năng suất mấy tấn một héc ta , của hộ nào nhận khoán và vượt khoán bao nhiêu… Tôi không ngạc nhiên vì sao đồng chí phó bí thư huyện ủy lại rành rẻ về mảnh đất này như thế . Bởi một lẽ giản đơn anh là bí thư xã Long Điền Đông A trước khi về làm phó bí thư huyện ủy. Nhưng đằng sau cái lẽ giản đơn ấy là cả một bước ngoặt lịch sử của một vùng đất, cũng chính là bước ngoặt của cuộc đời anh .
Tôi nhớ rất rõ vào tháng 3 năm 1982 có một bài báo viết về công tác xây dựng Đảng ở Long Điền Đông A đăng trên báo Minh Hải. Qua bài báo ấy, trường chính trị Châu Văn Đặng lập tức gởi công văn mời đồng chí bí thư xã Long Điền Đông A – tức Năm Phú- lên báo cáo kinh nghiệm về công tác xây dựng đảng bộ cơ sở vững mạnh cho các lớp chính trị của trường .
Người ta nói Năm Phú có công xây dựng Long Điền Đông A thành một tiền đồn kinh tế vững chắc của huyện trọng điểm Giá Rai. Mà điều chính yếu để dư luận quan tâm là Long Điền Đông A đi lên từ một chi bộ bị xếp vào loại yếu .
Đó là năm 1978, Long Điền Đông A tiến quân rầm rộ vào cuộc cách mạng quan hệ sản xuất. Tưởng sẽ nắm phần thắng trong tay. Ai ngờ đâu , đưa toàn bộ lao động vào hợp tác hóa nhưng không nắm vững cung cách làm ăn, cuối cùng tan rã. Đưa toàn bộ diện tích đất nông nghiệp vào sản xuất hè thu nhưng biện pháp kỹ thuật thì quá kém cỏi. Hai yếu tố ấy cộng lại thành sự đổ vỡ. Đỗ vỡ của mùa màng, đời sống, đổ vỡ lòng tin và ý chí từ trong chi bộ đến quần chúng nhân dân. Sau đó người ta thấy những mảnh ruộng bỏ hoang vì một số nông dân bỏ đi làm ăn nơi khác .
Năm Phú sau khi tốt nghiệp trường Nguyễn Ái Quốc trở về thì huyện ủy Giá Rai lại giao cho anh “ thực hành “ những bài học được bằng hiện trạng Long Điền Đông A . Về mặt tình cảm mà nói. Năm Phú gắn bó với cái làng ven biển này bằng tiếng khóc chào đời của anh, bằng cả máu của người cha và một người anh đã hy sinh . Rồi đến lượt anh, bốn vết thương trên người cũng mang từ mảnh đất này trong những năm đánh Mỹ. Anh hiểu bà con, bạn bè, đồng chí đã từng che chở, sống chết cho nhau để cùng giữ đất. Nhưng bây giờ vì sao họ bỏ đất ra đi ? Năm Phú lần dò tìm ra đầu dây của một chùm tơ rối. Cái mảnh đất có lúa , có muối, có biển, có rừng, có hoa màu, cây trái thật trù phú làm sao. Thế mà cái đói cái nghèo quanh năm còn đeo đẳng. Phải chăng vì bao thế hệ đi qua, không ai nghĩ đến chuyện làm giàu mà chỉ làm cho có ăn để lo đánh giặc ? Anh nhìn qua mưòi bảy đảng viên trong chi bộ, hầu hết họ đều bở ngỡ vì bao năm quen với chiến trường vừa bước sang làm kinh tế. Năm Phú nói với các đồng chí của anh bằng những lời tâm huyết: “ Thưa các đồng chí , bằng mọi giá, chúng ta phải xóa sạch nghèo nàn và lạc hậu! Nhưng xóa bằng cách nào đây ? Chúng ta có ruộng lúa, phải biết làm ra lúa, có ruộng muối phải biết làm ra muối; có bờ biển, phải khai thác cá tôm; có vườn, phải biết trồng hoa màu cây trái, phải biết nuôi cá, nuôi tôm, nuôi gia súc , gia cầm. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên chúng ta bây giờ là phải tổ chức cho bà con làm những công việc đó. Tôi đề nghị mỗi đảng viên chúng ta phải là một điển hình cho quần chúng noi theo. Xem đây là một phương châm hành động. Điển hình ở đây là gì? Nghĩa là phải gương mẫu, từ tư cách đạo đức, tác phong sinh hoạt đến cung cách làm ăn, nhất là phải điển hình trên mặt trận lao động sản xuất. Chi ủy quyết định sẽ lấy hiệu quả lao động làm thước đo phẩm chất của mỗi đảng viên …
Khí thế sản xuất của làng ven biển được bật lên từ đó. Năm Phú đích thân đến Viện nghiên cứu cây lúa trường Đại học Cần Thơ, gặp giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân để tìm giống mới và học hỏi các biện pháp thâm canh . Năm ấy cũng là thời điểm phát thẻ đảng viên đợt đầu tiên. Năm Phú đổi giống mới và phát động cho mỗi đảng viên phải đi đầu phong trào thâm canh cây lúa. Anh lấy năng suất lúa làm một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đảng viên để phát thẻ đảng. Kết quả của vụ mùa ấy, 16 đảng viên trong 18 đảng viên của chi bộ đã đạt năng suất từ 5 đến 7 tấn một héc ta . Sự kiện ấy đã diễn ra ngoài sức tưởng tượng của mọi người, vì bao đời qua năng suất lúa ở đây chưa bao giờ mỗi héc ta đạt trên 3 tấn. Sự kiện ấy cũng chính là sức thuyết phục mảnh liệt nhất để bà con Long Điền Đông A bước vào con đường hợp tác hóa bằng tất cả lòng tin và đưa toàn bộ diện tích đất canh tác thành cánh đồng cao sản .
Tháng mười năm 1982 , tức là hơn nữa năm sau khi Năm Phú được trường Đảng mời lên báo cáo kinh nghiệm xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện qua một bài báo,, giáo sự tiến sĩ Võ Tòng Xuân dẫn đoàn phóng viên của Đài truyền hình Cần Thơ xuống phỏng vấn cung cách làm ăn của Năm Phú . Lúc chuẩn bị ra đồng, thấy đoàn khách bỏ dép . Năm Phú liền xua tay nói : “ Các đồng chí cứ mang dép tự nhiên. Chúng tôi còn chạy xe đạp đi thăm lúa kia mà !
Tưởng anh nói đùa, nhưng đến lúc ra đồng, chúng tôi mới hiểu đó là điều có thật.Đi qua hàng trăm héc ta , đều có những bờ mẫu bằng phẳng, sạch khô, có thể đi bằng xe đạp.Và với hàng trăm héc ta ấy, Năm Phú vẫn thuộc lòng khi nói đến giống lúa, mật độ gieo cấy, lượng bón phân,thậm chí đến tính nết của người nhận khoán …
Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân vừa cười tươi, rỉ tai anh kỹ sư đang khoan đất .
-Khác với những lần chúng ta đi lấy mẫu đất, hôm nay chúng ta lấy được một mẫu người .
Cánh đồng chìm trong ánh nắng chiều rực lên một màu vàng của lúa. Nhìn bốn phía, vườn cây xây thành một màu xanh bao quanh vựa lúa mênh mông .
Chúng tôi trở ra con đường làng từ ấp Bửu Điền II đi ngược lên Bửu Điền I. Hai ấp nằm dọc theo bờ kinh thẳng tắp chạy dài . Một bên là vườn dừa chắn ngang cánh đồng cao sản . Bên kia là ruộng muối nhưng vào mùa mưa thì đồng muối thuộc về thời vụ của cá tôm. Rải rác chỉ còn những tu muối trên bờ đê còn sót lại.
Đồng chí Châu Đông Á, chủ tịch ủy ban xã bây giờ như làm công việc thuyết trình thay cho Năm Phú.
-Nếu các anh đến đây vào những ngày sau tết sẽ thấy vui hơn bởi khí thế làm muối của các tập đoàn . Mấy năm gần đây , năm nào sản lượng muối của xã này cũng chiếm gần năm mươi phần trăm tổng sản lượng muối toàn tỉnh . Cũng bao nhiêu diện tích ấy thôi, nhưng các anh biết không, hồi trước mỗi héc ta chỉ có 5 tấn. Nhưng sau này chúng tôi chỉ đạo cho các tập đoàn đào thêm kinh dẫn nước , mở thêm sân và tăng cường các biện pháp kỹ thuật, bây giờ năng suất lên đến 25 tấn một héc ta . Và cũng chính vì đào thêm kinh dẫn nước mà đồng muối đã thêm một vụ tôm. Bình quân mỗi héc ta thu hoạch gần 500 kg tôm nguyên liệu cộng với 25 tấn muối . Các anh thử tính xem có phải tấc đất tấc vàng không ?
( Trích bút ký “ Chuyện kể ở một làng ven biển” , Tạp chí Văn nghệ Minh Hải , số đặc biệt 30-4-1985) .
II- NƠI ẤY BÂY GIỜ
Chúng tôi trở lại Long Điền Đông A sau gần ba năm đăng bài viết này. Bây giờ tất cả đã khác đi, tất cả đã đắm chìm trong một bầu không khí căng thẳng, nặng nề trùm lên làng xóm và xóa sạch dấu vết của ba năm về trước. Một cuộc biểu tình rầm rộ hồi cuối năm 1986 đã xảy ra và tới giờ vẫn còn âm ỷ làm đau đầu các nhà lãnh đạo đang thay nhau xuống giải quyết nhưng vẫn chưa có dấu hiệu tốt lành .
Rồi nạn đói tràn xuống trong năm nay, Long Điền Đông A như rơi vào vực thẳm. Mới qua Tết mà gần một ngàn gia đình không còn hạt lúa, nhiều hộ đã bán đất, bán trâu, đợ con hoặc bỏ xứ đi làm thuê ở mướn .
Muối Long Điền một thời nổi tiếng năm nay cũng đành chịu chết.Hàng chục ngàn tấn muối phơi trắng đồng nhưng những người làm muối đành ôm bụng đói vì giá cả rẻ mạt, bán một trăm ký muối chỉ mua được một ký gạo, mà có bán cũng chẳng ai mua. Trong khi đó , cách vài chục cây số ra chợ, muối bán lẻ tám mươi đồng một ký! Cuộc đời của dân làm muối là như vậy. Dường như trời đã dành cho họ một số phận hẩm hiu, qua cái thời bị Nhà nước ép giá, giờ đến lượt bọn tư thương !
Anh Phó chủ tịch xã lật quyển sổ tay, giọng ngập ngừng khi báo cho chúng tôi biết rằng Long Điền Đông A năm nay xuất hiện gần ba trăm hộ thuộc tầng lớp phú nông, họ cho vay rất nặng lãi , một trăm giạ lúa thì đến mùa phải trả một trăm tám mươi giạ. Ngoài việc cho vay, họ ứng trước lúa, gạo và tiền công lao động làm mùa rẻ mạt cho những người nghèo. Việc ứng trước tiền công cho người lao động không loại trừ một số cán bộ có chức , có quyền và có tiền ở xã . Đó mới là chuyện đáng xấu hổ .Dường như họ chẳng còn nhớ và chẳng cần nhớ hồi chống Mỹ ai đã nuôi nấng đùm bọc họ ?
Cùng xuất hiện với phú nông là những tên cường hào mới mang thẻ đảng, chuyện bắt bớ đánh đập và ức hiếp quần chúng .
Dẫu tôi không cố tình so sánh , nhưng Long Điền Đông A như cố ý gợi nhớ trong tôi cái thời còn ngồi ở ghế nhà trường với một đề bài thi phân tích những dòng thơ Tố Hữu :
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy .
Ở đây không có tiếng “ trồng dồn” nhưng có cảnh đêm đêm loa phóng thanh lảnh lót trong xóm để kêu gọi, bêu xấu, hăm dọa và truy tố những người nông dân thiếu thuế và thiếu nợ vật tư nông nghiệp của Nhà nước .
Lần theo tiếng loa thông báo khai trừ ông Bảy Thân ra khỏi Đảng với những tội danh: ông đã đồng tình với cuộc biểu tình, cho rằng biểu tình là đúng, quan hệ với một số phần tử xấu chống lại chủ trương Nhà nước, và những tội khác như : thuốc chết hai con heo của công an,không đóng thuế công thương nghiệp,bỏ họp Đảng ủy để đi đánh bài… Chúng tôi tìm đến nhà ông Bảy Thân vào một buổi tối, bà Bảy đang đau nặng nằm rên rỉ trên giường, Còn ông Bảy Thân thì ngồi thở hổn hển , có lẽ vì đang bực tức chiếc loa trên đầu xóm cứ dội vào tai ông .
-Cho tụi bây cứ phát thanh đi- ông nói , miệng chửi thề lập bập- Nhưng đố cha thằng nào dám vào đây thu hồi thẻ đảng của tao, tao chém lã đầu !
Bà bảy vừa ôm bụng rên , vừa năn nỉ :
-Thôi đi ông ! Nóng nảy làm gì .
-Không nóng sau được, bảy mươi tuổi đầu rồi , hồi tôi đi làm cách mạng tụi nó chưa đẻ, giờ nó muốn làm ông làm cha.
Nói đoạn, ông Bảy quay sang rót nước mời chúng tôi, giọng có phần dịu hơn : “ sống ở cái đảng bộ này , a dua theo tụi nó thì không được , còn đấu tranh cũng không được ,riết mình mang bịnh tức cũng chết! Mấy chú thử nghĩ, có cái nguyên tắc nào mà khai trừ một đảng viên ra khỏi đảng lại đem phát loa thông báo trong toàn xã như vậy không ? Tôi biết, tụi nó làm vậy là để gây hoang mang cho quần chúng , để họ thấy rằng tôi ủng hộ cuộc biểu tình của họ thì số phận tôi ra thế đó ! Thật là mỉa mai, thật là đầy mâu thuẫn! Nếu biểu tình là sai thì tại sao họ cách chức Chủ tịch huyện, chủ tịch xã và tổ chức mít tinh nhận lỗi với dân” ?
Ông Bảy dừng một lúc rồi tiếp:
-Tôi khẳng định cuộc biểu tình ấy đúng. Đúng là vì cuộc biểu tình ấy xảy ra không phải chỉ vì chuyện bắt bớ vợ chồng Bảy Liên Xô mà là chuyện tức nước vỡ bờ của bao nhiêu vụ việc. Một sự bùng nổ của bao nhiêu nỗi uất ức bị dồn nén, hơn nữa , dân ở đây có truyền thống biểu tình từ thời kỳ đấu tranh trực diện chống Mỹ Ngụy. Ai dạy họ biểu tình ? Vậy thì bây giờ họ biểu tình để chống đàn áp bất công thì tại sao cho họ tầm bậy? Tôi về hưu, sống ngay trước cái ủy ban xã này, làm nhân chứng cho bao nhiêu chuyện gai mắt chướng tai. Mấy chú thử nghĩ xem, bà Tám Ngân mẹ của hai liệt sĩ, nhà nghèo như ổ chuột, ông chồng đi làm mướn quanh năm, vậy mà chính quyền có lo được gì cho bả. Ngược lại , năm nào bả cũng làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước . Năm kia bả bị thất mùa, làm mười sáu công ruộng chỉ được một trăm ba mươi giạ lúa .Thu hoạch xong có vô bồ được hột nào đâu, vì đóng thuế và trả nợ phân cho Nhà nước hết một trăm mười giạ, còn hai mươi giạ để giống, coi như trắng tay, lỗ công cày, công cấy, công gặt, công làm ra lúa hột, công phơi nắng dầm mưa …Bả chở một trăm mười giạ ra nhập kho, thằng thủ kho chê lúa chưa khô, không chịu nhập. Bả năn nỉ: “Chú thông cảm cho nhập đi rồi tôi biếu chú chút đỉnh tiền cà phê “ .Nó đồng ý cho nhập , nhưng với điều kiện mỗi một trăm ký phải trừ hai ký. Trừ qua cấn lại cuối cùng mất của bà chín giạ. Vậy mà có yên đâu, bả về ngày trước thì chiều ngày sau xã ký giấy cho công an qua mời bả. Bả năn nỉ :“ Mấy chú về đi, tối nay tôi đi vay tiền, tám giờ sáng mai tôi lên trả đủ cho chớ gì. Một trăm giạ tôi còn trả được, có chín giạ không lẽ tôi giựt của Nhà nước sao? Một hai nó bảo bà phải đi, bả không đi, nó bắn ba phát súng báo động, lập tức hai thằng khác nhào vô xốc nách bả lôi đi, rách nát hai tay áo và chảy máu hai đầu gối. Đến lúc làng xóm kéo đến phản đối, can ra , chúng mới chịu thôi .sáng hôm sau bả mang hai tấm bằng Tổ quốc ghi công lên trả cho ủy ban xã, bả khóc ròng nói : “ các ông đã đối xử với tôi như vậy , thì từ đây về sau đừng kể tôi là mẹ liệt sĩ nữa, tôi tủi thân lắm !” .
Hớp một miếng nước, ông Bảy kể lại :
-Còn ông Ba Xén, cũng trạc tuổi với tôi , cũng gia đình liệt sĩ, là xã viên hợp tác xã Quyết Thắng. Ông mang vô hợp tác xã nông nghiệp mười tám công ruộng , làm ba năm không khá nổi, phần bất bình vì những kiểu làm ăn bất chính, ông xin ra, Ban chủ nhiệm đồng ý cho ông ra nhưng chỉ cho ông mang ra nửa số đất. Ông không chịu, làm đơn đi kiện lên cấp trên . Một hôm , ủy ban xã mời ông lên giải quyết, họ lập biên bản buộc ông ký bàn giao cho hợp tác xã phân nửa số đất . Ông không ký và bỏ ra về, lập tức trưởng công an xã ra lệnh “ Lực lượng đâu, trói lại !” . Chúng nhào vô trói thúc ké ông lại và lôi ngược qua cầu khỉ, giam mấy ngày .
Khi thấy chúng lôi ngược ông Ba Xén qua cầu khỉ, tôi la : “ Tụi bây là chính quyền cách mạng hay đế quốc ? Cái cầu khỉ như vậy tao bắt tụi bây đi ngược thử coi tụi bây có đi được không “? Sáu Thành , chủ tịch xã quát vào mặt tôi : “ Ông câm đi, ông biết gì mà chen vào ?”
Lại mấy ngày sau một sự việc diễn ra ngay trước cửa nhà tôi . Thằng Sáu Thành, chủ tịch xã nhậu say, gặp con Xuân con gái ông Chín Tỵ đi qua đường , hắn nhào đến ôm người ta , con nhỏ hốt hoảng bỏ chạy. Hắn ra lệnh cho du kích : “ Tụi bây rượt bằt con nhỏ tình báo ấy nhốt lại!”! Mấy thằng du kích không dám cãi lệnh, mà bắt cũng không dám bắt, nên giả vờ rượt. Con nhỏ chạy mất . Hắn nổi khùng nhào vô xã đội đánh bà già đang bị giam vì có con trốn nghĩa vụ . Hắn đánh mấy bạt tai, cũng may là có người can kịp …
Câu chuyện của ông Bảy Thân vẫn chưa kết thúc nhưng giọng ông bị lấn chìm trong tiếng loa phóng thanh thông báo khai trừ ông ra khỏi Đảng mỗi lúc một gần. Chúng tôi rời khỏi nhà ông, men theo con đường ra đê biển. Đêm xuống, làng xóm vắng tanh, chỉ có tiếng loa phóng thanh kêu gọi,bêu xấu và hăm dọa những người thiếu thuế.
III-TIN CỦA MỘT ĐÀI NƯỚC NGOÀI
Cuối năm 1986, một đài phát thanh nước ngoài đưa tin: ngày 21 tháng 12 năm 1986, tại xã Long Điền Đông A, tỉnh Minh Hải, hàng trăm nông dân đã kéo biểu tình đến tỉnh lỵ để phản đối sự đối xử bất công của chính quyền địa phương .
Bản tin của đài phát thanh nước ngoài này làm cho các nhà lãnh đạo ở đây nhận định rằng cuộc biểu tình ở Long Điền Đông A là do bàn tay kẻ địch, vì chỉ có kẻ địch nhúng tay vào nên tin tức mới đi quá nhanh như vậy . Và cũng chính vì nhận định ấy mà kẻ địch nào đó bị đỗ lỗi thay cho những người trực tiếp gây ra .
Từ ấy đến nay, Long Điền Đông A trở thành đối tượng nghiên cứu của an ninh chính trị, và dần dần nó trở thành một cái tên gọi khá hấp dẫn ; “ Sự kiện Bảy Liên Xô “ .
IV-SỰ KIỆN BẢY LIÊN XÔ LÀ GÌ ?
Người ta kể về ông Bảy Liên Xô như một tên phiến loạn đang cầm đầu nhóm nông dân chống lại chủ trương Nhà nước và có âm mưu lật đổ chính quuyền , rằng ở Long Điền Đông A hiện nay ai muốn trả nợ cho Nhà nước đều phải hỏi ý kiến ông Bảy Liên Xô, rằng tổ chức của Bảy Liên Xô hiện nay đang ráo riết trang bị vũ khí và quyên tiền để lập quỹ .
Đồng chí Tư Chuẩn, phó bí thư huyện ủy Giá Rai cũng kể với chúng tôi như vậy. Và anh nhận định thêm:
-Sau lưng Bảy Liên Xô là bàn tay kẻ địch, bên cạnh hắn là một số tên lưu manh và tề ngụy cũ, trong đó có tên Sũn là tình báo. Nhưng cái nguy hiểm nhất của tên Bảy Liên Xô là hắn tập hợp rất đông đảo gia đình liệt sĩ và nông dân nghèo để chống lại ta .
Anh Sáu Hải, trưởng công an huyện thì tỏ ra thận trọng hơn :
-Đây là một dạng hoạt động rất kỳ lạ. Chúng tôi nghiên cứu mãi mà chưa tìm ra cái tên của tổ chức này là gì !
Nghe qua,chúng tôi vừa thấy hấp dẫn, vừa thấy kỳ cục, muốn bay nhanh đến cái “ căn cứ “ ấy để xem vị thủ lĩnh của những người nông dân này ra sao .
Khi chúng tôi chuẩn bị lên đường , anh Châu Đông Á , nguyên là chủ tịch xã Long Điền Đông A , hiện là phó phòng nông nghiệp huyện có vẻ dò xét hỏi :
-Mày định vô xã làm gì ?
Tôi thành thật trả lời :
-Tôi muốn gặp ông Bảy Liên Xô 1
-Mày gặp ông làm gì? Anh có vẻ hơi sửng sốt .
-Thì cũng cần phải gặp chứ anh, nghề nghiệp mà !
Xe của huyện ủy đưa chúng tôi lên xóm Lung, từ đó chúng tôi quá giang xuồng máy vào xã chừng hơn mười cây số. Lúc ấy, trời đã tối. Chúng tôi phải lần mò từ đầu kinh qua mấy chiếc cầu khỉ mới đến nhà ông Bảy Liên Xô .
Những ấn tượng ban đầu qua báo cáo của anh Tư Chuẩn và Sáu Hải làm cho chúng tôi dè dặt và tự nhiên có một linh cảm không lành trước đêm đen đang bủa vây trên xóm nhà thưa thớt, leo lét những ngọn đèn dầu và tất cả chìm trong im lặng. Tôi bắt đầu nghe sợ, cái sợ hãi khác thường không giống bất kỳ sự sợ hãi nào mà tôi đã trải qua .
Đứng trước cửa nhà ông Bảy Liên Xô, tôi hồi hộp gõ nhẹ cánh cửa:
-Chú Bảy ơi ! Chú Bảy !
Bỗng dưng trong nhà vụt tắt đèn và im lặng . Mặc cho tôi gọi rất lâu, cũng chẳng ai lên tiếng .
Tôi bỗng nghe xương sống mình ớn lạnh và cặp giò hơi run,Tôi chợt nhớ cái vẻ sửng sốt của anh Đông Á hồi chiều. Hay là anh ta sợ mình đi vào vùng nguy hiểm chăng ?
Tôi khều nhẹ ba người bạn đồng nghiệp, đi vòng lại nhà bên cách đó chừng ba trăm mét, gặp chị chủ nhà ngồi trước cửa . Tôi tự giới thiệu :
-Chúng tôi là phóng viên báo chí , muốn gặp chú Bảy Liên Xô , nhưng gọi cửa hoài không ai lên tiếng. Nhờ chị giúp chúng tôi …
Chị chủ nhà nhìn tôi dò xét và ngập ngừng :
-Tôi … không biết, các anh chờ chồng tôi về . Rồi chị quay sang bảo con . -Con chạy ra quán gọi ba về có khách !
Thật là kỳ lạ. Tôi có cảm giác như hồi chiến tranh, hễ giặc đi càn vào vùng giải phóng, khi chúng tôi hỏi bất cứ điều gì quan trọng thì đàn bà và trẻ con đều trả lời rằng : “ Tôi không biết !” .
Chúng tôi xin miếng nước uống và ngồi đợi. Khoảng mười phút sau, anh chủ nhà về đến, nét mặt có vẻ bực bội và cau có :
-Các anh tìm dượng năm tôi có chuyện gì ? Ổng không có nhà .
Trước thái độ của anh chủ nhà, tôi bị hẩng hụt nên đâm ra ấp úng :
-Dạ, chúng tôi là phóng viên báo chí , muốn gặp chú Bảy Liên Xô để hỏi thăm chuyện lúa, phân và chuyện biểu tình năm ngoái .
-Các anh có tìm hiểu cũng không giải quyết được gì đâu, mất công lắm. Hết đoàn này tới đoàn khác, cứ tìm hiểu, tìm hiểu mà không giải quyết được cái con khỉ gì hết. Ông Sáu Kiên vô đây tìm hiểu mấy tháng rồi có giải quyết được gì đâu , giờ các anh tìm hiểu làm gì ?
Và anh bắt đầu chửi bới , lôi ra bao nhiêu chuyện phiền toái, bất công đã trút xuống làng xóm, gia đình, họ hàng thân tộc anh hơn một năm qua.
Chúng tôi chỉ ngồi im lặng, và sự im lặng ấy dường như làm anh chủ nhà ân hận về thái độ của mình.Anh bắt đầu dịu giọng :
-Các anh là nhà báo. Tức là chung cánh với ông Sáu Kiên chớ gì ?
-Không-người bạn tôi trả lời- Sáu Kiên là giám đốc Sở văn hóa, khác với chúng tôi!
-Vậy mà tôi tưởng… xin lỗi , nãy giờ tôi hơi hằn học không đúng chỗ.
-Nhưng nếu chúng tôi là cánh Sáu Kiên thì có gì làm anh hằn học dữ vậy?
-Có chứ, Sáu Kiên vô đây chỉ đạo phát loa nói xấu gia đình thân tộc tôi, xúc phạm đến ông nội tôi, làm chia rẻ bà con họ hàng tôi .
-Xin lỗi, chúng tôi chưa được biết tên anh ?
-Tôi thứ hai, tên Hiệp. Tôi kêu vợ ông Bảy Liên Xô bằng cô, kêu Năm Phú bằng cậu. Nói thật các anh thương, trong vụ tranh chấp lúa phân này, tôi khổ lắm.Bên nào cũng ruột thịt cả.Thân tộc tôi, bên nội bên ngoại, tất cả có 48 liệt sĩ, giờ chia rẻ thù ghét nhau, cũng vì chuyện phân,lúa.
Hai Hiệp kể:
Hồi cuối năm 1985, cậu Năm Phú,cậu ruột của tôi,thường trực huyện ủy Giá rai về thăm nhà, đã phổ biến với gia đình và một số bà con trong xóm rằng năm nay huện giải quyết số phân tồn kho, bán bằng tiền cho vài xã có thành tích huy động lương thực, giá mỗi ký năm đồng .
Cậu động viên bà con nên đi mua sớm,để qua tết hết số phân tồn kho,phân mới nhập về sẽ bán bằng lúa.Năm Phú còn bày thêm rằng: bà con chuẩn bị mỗi nhà nuôi một con heo, đến cuối mùa bán heo trả tiền cho Nhà nước, còn lúa để lại ăn …
Mặc dù lúc bấy giờ giá năm đồng một ký phân, tính ra cao hơn ba ký lúa, và nhận phân trước Tết , để tới mùa sẽ bị hao hụt , song người nông dân sau khi tính lời tính lỗ họ nghĩ rằng trả bằng tiền thì có nhiều cách để trả, hoặc lúc ấy lúa trên thị trường lên giá, họ bán lúa trả vẫn lời hơn. Đối với họ, một ký phân đổi ba ký lúa, một cái giá cắt cổ mà họ đã cam chịu gần chục năm qua. Những năm thất mùa họ đã phủi tay sau khi trả nợ phân và đóng thuế cho Nhà nước. Nhiều người không đủ lúa trả phải đi vay .
Thế là các tập đoàn trưởng ùn ùn đi làm thủ tục ra huyện nhận phân.Đến huyện , họ gặp ông Sáu Danh, phó phòng nông nghiệp và ông Chín Việt, phó Giám đốc Cty vật tư nông nghiệp cũng động viên và giải thích: Phân bán bằng tiền sao các anh không mua về rải cho đã tay một năm. Cứ nhận đi, khi nào được thông báo thì các anh làm thủ tục ra ngân hàng vay tiền trả cho công ty. Một ký năm đồng, lãi hai lai, tức năm đồng hai .”
Trong bảng hợp đồng ứng trước vật tư năm ấy cũng chỉ ghi rõ lượng phân còn cột “số lúa phải trả “ thì bỏ trống, kèm theo bảng hợp đồng là hóa đơn kiêm phiếu xuất kho ghi giá mỗi ký năm đồng và tổng số tiền phải trả.
Thế là họ yên chí, các tập đoàn trưởng khi chia phân cho từng hộ tập đoàn viên cũng chỉ phổ biến một câu ngắn gọn: giá mỗi ký năm đồng, tới mùa lãi hai lai, tức năm đồng hai. Có thể nói, bao nhiêu năm qua, với giá một ký phân đổi ba ký lúa, người nông dân chưa bao giờ dám bón cho một công ruộng quá hai mươi ký phân. Vậy mà năm ấy, có người bón một công từ ba mươi đến năm mươi ký. Được Nhà nước “ chơi đẹp” một năm , dại gì không bón cho đã tay !
Nhưng rồi cuối năm 1986, khi vụ mùa thu hoạch xong, lúa vô bồ, bà con thở phào nhẹ nhõm nghĩ mình sẽ ăn gọn được một vụ mùa và họ rủ nhau đi bán heo để trả nợ phân thì đùng một cái, họ nhận được giấy báo nợ đòi một ký phân bằng ba ký lúa .
-Thế này là thế nào ? mấy ông thấy lúa lên giá rồi bẻ chĩa phải không?
Người ta la ầm lên như vậy. Cuộc huy động lương thực diễn ra gặp phải sự phản ứng quyết liệt. Xã báo cáo về huyện, huyện phân công đồng chí Nguyễn Tấn Lực, chủ tịch ủy ban huyện dẫn theo một lực lượng công an hùng hậu xuống Long Điền Đông A . Họ đi đến đâu, còng số 8 treo trên đầu súng AK khua lắc cắc. Hễ ai chống đối, đòi trả một ký phân năm đồng sẽ bị còng ngay lập tức.
Chủ tịch huyện họp dân và tuyên bố:
Trong 23 xã và 3 thị trấn của huyện này, chưa ai ăn ngược nói ngạo bằng dân Long Điền Đông A . Ai bán cho các anh một ký phân năm đồng ? Tại sao Đảng nói các anh không nghe mà các anh lại nghe tin xuồng ghe ?
Một số tập đoàn trưởng cãi lại :
-Chính Năm Phú, Sáu Danh, Sáu Việt và Đông Á nói như vậy !
-Văn bản đâu? Chủ tịch huyện hỏi.
Các tập đoàn trưởng mang hợp đồng kinh tế ra :
-Đây, chứng từ ghi rõ một ký năm đồng !
Cuộc cãi vã cứ diễn ra . Chủ tịch xã Châu Đông Á thảo một công văn gởi xuống các tập đoàn sản xuất để đính chính lại rằng: Đầu năm 1986 huyện ủy và ủy ban nhân dân huyện có bàn bạc chuyện bán phân bằng tiền nhưng chưa nhất trí. Khuyết điểm này là do Công Ty vật tư nông nghiệp huyện không thông báo kịp thời từ đầu vụ để các tập đoàn đi làm lại hợp đồng . Công ty vật tư nông nghiệp đã nhận thiếu sót với ủy ban xã. Nay thông báo chính thức, yêu cầu bà con chấp hành chủ trương chung, trả một ký phân bằng ba ký lúa “ …
Sau công văn ấy, ủy ban huyện rút Châu Đông Á về huyện làm phó phòng nông nghiệp . Sáu Danh và Chín Việt lần lượt cũng được chuyển đi khỏi phòng nông nghiệp và Công Ty vật tư .
Những ngày trung tuần tháng 12-1986 , chiến dịch huy động lương thực ở Long Điền Đông A diễn ra như một trận càn phối hợp giữa ba lực lượng công an huyện, công an xã và du kích xã dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chủ tịch huyện Nguyễn Tấn Lực. Họ đi đến đâu thì cảnh bắt bớ diễn ra đến đó. Trong vòng sáu ngày đã có tám người bị bắt giam trên xã. Mỗi cuộc bắt bớ đều có xô xát xảy ra. Có chị mới sanh chưa đầy tháng cũng bị lôi kéo rách quần rách áo. Người ta để nguyên hình hài rách rưới như vậy kéo lên xã. Từ các ấp Vĩnh Điền, Bửu Đông, những đoàn người rầm rập kéo lên. Từ xã , lực lượng công an chạy xuống. Họ căng hàng ngang chĩa súng vào đoàn người. Họ cắt sẵn những bó dây chuối để thành đống dưới chân. Nhưng có lẽ họ cảm thấy không thể trói cùng một lúc bảy tám chục người nên bèn thương lượng và trả tự do cho những người bị bắt.
Trước sự xung đột càng gay gắt diễn ra, ngày 18 tháng 12 ông Bảy Liên Xô cùng vài người trong xóm rủ nhau lên ủy ban nhân dân tỉnh để phản ánh và khiếu nại vì sao huyện bán phân cho họ bằng tiền , nhưng cuối mùa lại đói lúa. Đến ủy ban tỉnh không được ai tiếp, họ kéo sang Hội đồng trọng tài kinh tế. Sau khi xem xong các văn bản hợp đồng mua bán vật tư , ông trọng tài kinh tế trả lời :
-Chuyện này có lẽ do lúa bị trượt giá nên mấy ông huyện tính lại cho hợp lý. Các anh về đi, ngày 23 tới, tôi sẽ cho người xuống xác minh rồi giải quyết sau!
Ngày 19 họ trở về và thông báo với bà con rằng ngày 23 trọng tài kinh tế xuống giải quyết .
Khoảng 8 giờ sáng ngày 21, bất ngờ ông Bảy Liên Xô thấy một lực lượng công an và bộ đội từ ba bên bốn phía kéo đến bao vây nhà ông. Họ đọc lệnh bắt ông về tội vận động quần chúng chống lại chủ trưong Nhà nước. Bà Bảy Liên Xô bước ra ngăn cản. Cuộc bắt bớ trở thành xô xát , ẩu đã lẫn nhau. Súng nổ. Hàng trăm đồng bào kéo đến giành giựt với công an. Bên này lôi đi , bên kia kéo lại . Bà Hai Giáp, chị vợ ông Bảy Liên Xô bị đánh, bị xô chết giấc. Bà Bảy Vịnh, mẹ vợ ông Bảy Liên Xô gần tám mưoi tuổi bị công an ném lên bụi bông giấy, rách áo , xước da , chảy máu. Bà Bảy Liên Xô bị lôi tuột hết quần áo và bị trói bứt một vòng da trên hai cánh tay .
Cuối cùng , công an cũng bắt được ông Bảy Liên Xô về huyện, bà con tổ chức ngay cuộc biểu tình trên tám mươi người .Họ dùng ghe chở bà Hai Giáp và bà Bảy Liên Xô lên Bạc Liêu . Đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh , họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu : “ Đả đảo chính quyền áp bức bất công! Ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam! Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm !”
Cũng lúc ấy ở Long Điền Đông A ,trạm truyền thanh thông báo rằng :” Vợ chồng tên Bảy Liên Xô can tội phản quốc, cấu kết với tình báo CIA chống lại chính quyền cách mạng” . Họ đến trường phổ thông cơ sở thông báo với học sinh và đề nghị các em phải về thông báo lại cho gia đình, vận động gia đình phải trả lại nợ phân cho nhà nước theo chủ trương chung một ký phân bằng ba ký lúa , đừng có nghe theo yêu sách của Bảy Liên Xô .
Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, bảy ngày sau ông Bảy Liên Xô được trả tự do với lệnh tha của công an huyện ghi tội danh: “ Tàng trữ vũ khí trái phép”. Đồng chí Nguyễn Văn Để , Trưởng ban dân vận mặt trận của Tỉnh ủy cùng với Ban thường vụ huyện ủy Giá Rai xuống Long Điền Đông A tổ chức mít tinh cho cán bộ tự phê trước dân. Cách chức sáu Thành chủ tịch xã, Nguyễn Tấn Lực chủ tịch huyện và bồi thường hai mươi ngàn đồng tiền chữa bệnh cho bà Hai giáp và bà Bảy Liên Xô , còn việc trả nợ phân bằng lúa hay bằng tiền, tạm thời gác lại chờ chủ trương của Tỉnh ủy .
Sau sự kiện ấy, chính quyền địa phương cho rằng họ bị xử ép. Đành rằng họ bắt ông Bảy Liên Xô như vậy là hơi vội vàng, bắt chưa đúng lúc. Nhưng đồng chí Trưởng ban dân vận mặt trận tỉnh bắt họ phải tự phê và kiểm thảo họ trước dân là điều sỉ nhục đối với chính quyền. Từ đó , họ mang trong thâm tâm một niềm cay cú và ngấm ngầm chờ cơ hội để trả đủa cho thỏa lòng tự ái .
Người dân, suốt cuộc đời theo đảng, trung thành sống chết với Đảng, nay quá đau xót vì thấy rằng tình cảm thiêng liêng ấy dầu gì cũng bị tổn thương. Họ bàn bạc nhau: Cái Tết năm ấy sẽ mang rượu thịt, bánh mứt lên xã cùng với cán bộ tổ chức vui Xuân để xóa đi chuyện cũ, cho nghĩa đảng tình dân được khắng khít, cùng nhau xây dựng xóm làng. Họ giao công việc ấy cho anh Hồ Duyên Hải, thương binh tập đoàn trưỏng tập đoàn tám đi quan hệ. Anh Hải nhờ anh Bí thư chi bộ ấp mang ý kiến lên bàn bạc với ủy ban xã, ủy ban xã nhất trí .
Nhưng đến ngày mồng tám tết, khi bà con kéo lên thì xã ủy không tiếp. Bà con vừa ngượng, vừa lỡ bộ vì đã gom góp tiền bạc mua rượu thịt bánh mứt, giờ biết mang đi đâu. Bàn đi tính lại, họ kéo qua nhà ông Bảy Thân. Ông Bảy Thân cũng không còn cách nào từ chối, đành phải tiếp. Họ uống hết bốn mươi lít rượu, rồi say sưa, lời qua tiếng lại, múa ca nhảy nhót, náo loạn một khúc xóm. Một bà mẹ liệt sĩ quá say, vừa leo qua cầu khỉ, vừa hát: “ ta thắng như chẻ tre, ta tiến như nước tràn, cùng múa như lời ca” .
Sự việc ấy được xã báo cáo lên huyện rằng cánh ông Bảy Liên Xô có ý đồ chiếm ủy ban xã để ăn mừng chiến thắng, họ khiêu khích chính quyền nên mới hát bài: “ Ta thắng như chẻ tre” . Ông Bảy Thân bị quy kết là mất quan điểm lập trường, chứa chấp những phần tử xấu. Đó là một trong những lý do để khai trừ ông ra khỏi Đảng.
Ông Bảy liên Xô từ đó trở thành cái gai nhọn của chính quyền, và tất cả những người không chịu trả nợ phân bằng lúa, có thái độ kháng cự đều được xem là “ nhóm của Bảy liên Xô” .Họ bị loại ra khỏi vị trí bình thường, trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà an ninh chính trị và trinh sát kỹ thuật ..
Bước sang vụ mùa 87, huyện chủ trương không bán vật tư nông nghiệp cho họ.Nhiều tập đoàn nhận phân về phân phối xong , ủy ban xã ra lệnh cho tập đoàn trưởng đi thu hồi lại. Nhưng cuộc biểu tình nhỏ lại diễn ra. Từng đoàn người kéo nhau đi khiếu nại. Bí thư xã tuyên bố:
-Các bà cứ đi thử xem, nếu năm nay Nhà nước bán phân cho các bà thì tôi xin từ chức.
Họ kéo nhau ra huyện nằm vạ, huyện không giải quyết. Họ lại kéo lên tỉnh. Tỉnh điện về cho huyện. Huyện hứa, họ về huyện, huyện lại nói khi nào họ chịu trả nợ phân 86 theo giá một phân ba lúa thì huyện mới bán phân cho vụ mùa 87 . Họ lại kéo nhau lên tỉnh, tỉnh điện về bảo huyện giải quyết. Họ lại về huyện. Lần này huyện giải quyết bán nhưng lại ghi kèm số nợ cũ vào bảng hợp đồng.Họ lại kéo nhau lên tỉnh lần nữa .
Cuối cùng khi nhận được phân về đến nhà thì lúa trổ, không còn bón kịp.Đành chịu thất mùa, có người thất trắng, lúa thuế còn không có để đóng, lúa đâu để trả nợ phân? Mà phân còn để nguyên trong bao đó, Nhà nước có đòi phân thì họ trả lại, chớ có bón xuống ruộng đâu mà trả lúa. Rốt cuộc, Long Điền Đông A , một xã dẫn đầu ở Minh Hải về năng suất lúa, mỗi năm gần mười ngàn tấn. Nhà nước huy động hai,ba ngàn tấn, năm 1987, sản lượng còn lại chỉ trên năm ngàn tấn, Nhà nước huy động trầy da tróc vẩy, dùng cả biện pháp hành chánh mà chỉ được hai trăm tấn.
Tất cả những hậu quả đó, người ta lại đổ lỗi cho ông Bảy Liên Xô !
Đêm ấy, trước khi chia tay, trong bầu không khí thân mật, anh Hai Hiệp nói:
Các anh muốn gặp ông Bảy Liên Xô thì chiều mai đến đây, tụi mình lai rai chơi !
Chiều hôm sau, chúng tôi trở lại nhà Hai Hiệp. Nhưng nhà đóng cửa . Chúng tôi , nằm dài ngoài đống rơm đợi anh hơn một tiếng đồng hồ. Lúc ấy, mặt trời sắp lặn. Hai Hiệp trở về với nét mặt lạnh lùng, dè dặt làm chúng tôi thất vọng . Anh Hỏi :
-Các anh có giấy tờ gì để chứng minh các anh là nhà báo không ?
Tôi giật mình hỏi lại :
-Chi vậy anh ?
Hai Hiệp nói nghiêm chỉnh :
-Các anh cảm phiền đưa giấy cho tôi và lập danh sách đoàn các anh gồm có mấy người, ở cơ quan nào và cần gặp ổng với nội dung gì.Tôi mang lên trình với ổng, nếu ổng đồng ý thì các anh mới gặp được .
Tôi hơi choáng người trước cách đặt vấn đề của Hai Hiệp. Có lẽ không còn nghi ngờ gì nữa, ông Bảy Liên Xô là một thủ lĩnh, có liên lạc và có tổng hành dinh. Thú thật, một nhà báo địa phương loại vô danh tiểu tốt như tôi, cũng chưa bao giờ gặp ai với những thủ tục rắc rối thế này .
Ngẫm nghĩ một lát, tôi đành lấy thẻ nhà báo trao cho Hai Hiệp và ghi mảnh giấy nhỏ kèm theo :
Kính gửi Chú Bảy .
Tụi cháu là phóng viên báo chí và Đài tiếng nói nhân dân Minh Hải, gồm có bốn người, cần gặp chú để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của chú và những thắc mắc của bà con nông dân .
Rất mong được gặp chú .
Người đại diện
ĐẮC DANH