Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.135
123.140.605
 
Duyên Tu-1
Trần Kiêm Ðoàn

Văn nghệ Vu Lan

 

Càng lớn tuổi, càng được nhiều tiếng tăm và danh vọng, con người càng dễ làm quen nhưng khó làm bạn.  Thời son trẻ, khi hai người làm bạn, cả hai đều mở rộng hai tay, hai mắt và tấm lòng của mình để đến với bên kia dễ dãi, vô tư, không tính toán.  Nhưng càng về già, trong mỗi nụ cười và trong từng cái bắt tay hình như có ẩn chứa vài mảnh hoài nghi và dăm ba câu hỏi.  Hoài nghi và câu hỏi làm cho tình người và tình thân đeo nhiều lăng kính.  Rồi từ đó, nhìn nhau qua những cặp kính màu nên càng khó trãi rộng giao tình thân thương và chân thật để đón lấy nhau.  Người ta tự quấn mình trong nhiều lớp vỏ lẩn quẩn từ ta đến tôi, tới mình, sang tớ… rồi cảm thấy cô đơn.  Trí Hải nhận ra sự trống vắng khi Phạm Xảo không còn nữa.  Phạm Xảo là chiếc bóng của Trí Hải.  Chiếc bóng là người bạn không nói nhưng luôn luôn có mặt bên mình.  Khi sống một mình không có chiếc bóng Phạm Xảo, Trí Hải cảm thấy như nguồn sáng lơ lửng vẫn treo đâu đó nhưng không chiếu xuống đời mình, nên bóng mình bỗng khuất. 

 

            Tình cảm nhớ thương là ý hướng đi tìm một sự thiết thân bị mất.  Trí Hải nhớ Phạm Xảo trong nỗi thèm muốn đi tìm một dáng xưa, một nguồn tình cảm quen thuộc.  Khi nhớ một người đã mất thường gặp nỗi hụt hẫng của kẻ đi tìm mà chẳng biết tìm ai.  Nỗi nhớ mịt mù, rồi bỏ cuộc, chẳng còn tha thiết đi tìm để chỉ còn đối diện với trống vắng, hư không.

 

            Tuổi trẻ lấy thương làm nhớ.  Tuổi già lấy nhớ làm thương. Từ ngày Phạm Xảo mất, đêm đêm, sau khi mọi người đi ngủ, Trí Hải vẫn còn thức một mình.  Giữa đêm khuya thanh vắng, mang chén cơm để dành trong bữa ăn chiều, đặt trên bệ đá dựng ở bồn hoa trước sân,  Trí Hải thắp một cây nhang và ngồi tưởng nhớ Phạm Xảo.  Ông ngồi nhìn đốm sáng cháy đỏ theo gió trên đầu cây nhang cho đến khi nhang cháy hết.

 

Đêm rằm tháng Bảy, trăng sáng mênh mông.  Trí Hải định quay bước trở vào thì bỗng nghe tiếng chân rón rén của ai bước lào xào trên lá.  Ba Gấm.  Tiếng nói rất nhẹ mà cũng làm chao đọng ánh trăng:

- Mới đó mà Phạm huynh đã ra đi vừa đúng 49 ngày.

Không quay lui, Trí Hải nhắc thêm:

- Và cũng vừa hết thân trung ấm.

Tiếng Ba Gấm ngập ngừng:

- Làm sao mà biết được hết hay còn, hở huynh?

Trí Hải hỏi Ba Gấm:

- Thế Ba Muội có bao giờ nghe ai nói về thân trung ấm là gì không?

- Dạ có, huynh ạ.  Hồi còn ở trong cung, muội có đọc một số sách vở nhà Phật bàn về sự sống chết.  Muội chỉ nhớ mang máng rằng, người ta gọi “Thân trung ấm” là sự sống còn tồn tại và chuyển tiếp sau khi chết.  Nhưng muội không ngờ mà cũng chẳng tin.

- Tin thì có mà không tin thì không có thôi.

- Muội nửa tin nửa ngờ là không biết có còn hay không một trạng thái sống sau khi chết.  Trong khi sách vở nói rằng, linh thức (linh hồn và tâm thức) của con người còn kéo dài đời sống đến 49 ngày, rồi tùy theo nghiệp lực mà đầu thai.  Thời đó, mỗi khi bị sai vào dọn dẹp phòng trống của một cung nữ già vừa mới chết, muội cứ mường tượng cái “thân trung ấm” là con ma mới còn lẩn quẩn đâu đó chờ tái sinh mà sợ hết hồn.  Ơ, mà tại sao lại 49 ngày hở huynh?

 

Trí Hải giải thích một cách ngập ngừng:

- Vì chẳng phải là hành giả phát nguyện tu theo đạo Phật, nên tôi chỉ có chút hiểu biết giới hạn qua sách vở về ý nghĩa của con số “linh tính”.  Số lớn nhất của dân Trung Hoa là số 9, trong khi đó số lớn nhất của dân Ấn Độ là số 7.  Theo quan niệm triết học Ấn Độ, số 7 là con số biểu trưng cho sự hoàn hảo của vũ trụ. Nó được xác lập trên 7 nguyên lý tổng hợp của thời gian 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai)  và không gian 4 hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc).  Theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, toàn thể vũ trụ nhân sinh từ vật nhỏ như vi trần đến vật to lớn như núi Tu Di, tất cả không ngoài con số 7.  Phật cũng có 7 ngôi vị (thất Phật).  Người tu theo Phật cũng có 7 hạng (thất chúng).  Bởi vậy con số lớn nhất, tròn trịa nhất và gần gũi nhất của truyền thống Ấn Độ là 7 lần của 7 tức là 49.  Muội đọc sách Phật mà có nhớ hình ảnh thái tử Tất Đạt Đa sinh ra bước 7 bước,  mỗi bước nở một hoa sen.  Hoàng hậu Ma Gia sinh thái tử Tất Đạt Đa được 7 ngày thì mất.  Hành giả Tất Đạt Đa nhập định 49 ngày dưới cội Bồ Đề hốt nhiên đại ngộ thành Phật và thuyết pháp trong 49 năm không? Có chăng con số 49 này cũng có gốc rễ từ số 7?

- Ô, phải rồi đó huynh ạ.  Muội được đọc một ít sách cổ của Phật giáo Ấn Độ và cứ bị con số 7 ám ảnh hoài trong trí. Tại sao lại là 7 mà không 6 hay 8?  Rồi phải chăng 12 nhân duyên khi sinh sôi nẩy nở tối đa đến 7 lần, nhân lên 7 lần 12 sẽ đạt tới mức 84 là cao nhất.  Và 84 thiên biến vạn hóa thành ra 84 nghìn hoàn cảnh và mỗi cảnh đều có một cách riêng, nên có đến 8 vạn 4 nghìn pháp môn để tùy cảnh và tùy duyên mà đối trị.

 

Trăng khuya càng sáng vằng vặc.  Lại có tiếng chân ai bước tới.  Một người vừa đến, nổi lên tràng cười thoải mái. Thì ra, tiếng thầy Tiều:

- Đúng hôm nay là thất tuần của tướng quân Phạm Xảo.

Vớ được thầy Tiều, Ba Gấm reo lên:

- Thật là buồn ngủ mà gặp chiếu manh!  Thầy ơi, xin Thầy giải thích cho ra con số 49 đầy ám ảnh nầy.

Thầy Tiều đằng hắng giọng như để cân nhắc về một con số chính xác nào đó rồi lên tiếng:

- Với nhà Phật, tất cả những con số chỉ có ý nghĩa tượng trưng.  Vì con số tròn đầy nhất của đạo Phật mà quý hữu thường nghe là “vô lượng vô biên”, “hằng hà sa số” không có giới hạn.  Rồi những dòng số vô tận đó cũng chỉ là không.

Ba Gấm lại thắc mắc:

- Không có số đếm thì làm sao để tính toán, thưa thầy? Vẫn còn số đếm tam quy, ngũ giới, tứ diệu đế, bát chánh đạo, mười hai nhân duyên kia mà.

- Tất cả chỉ là phương tiện tạm thời. Con thuyền cũng phải có ván đóng kín ba mặt  trong một giới hạn nào đó mới nổi được trên mặt nước để chèo qua sông chứ.

- Vậy thì thưa thầy, thời gian 49 ngày có phải là phương tiện cần thiết để cho một linh hồn mới lìa khỏi xác chuẩn bị đầu thai không?

- Quý hữu đã biết là thân trung ấm hay còn gọi là thân trung hữu. Trong tín lý nhà Phật, thời gian tồn tại của thân trung ấm cũng có nhiều lý thuyết khác nhau. Có bốn nhà luận sư được nhắc đến nhiều nhất là:  Luận sư Tỳ Bà Sư cho rằng nó chỉ có trong khoảnh khắc sau khi chết, liền sau đó đầu thai. Luận sư Thế Hữu cho rằng nó tồn tại lâu nhất được bảy ngày. Luận sư Thiết Mặc Đạt Đa cho rằng nó có thể tồn tại trong bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày. Riêng luận sư Pháp Cứu thì cho rằng thời gian tồn tại của thân trung ấm sau khi chết không nhất định.  Tùy theo nhân duyên mà thọ sanh. Do nghiệp lực rất mạnh thúc đẩy, nếu trung ấm đáng thọ sanh vào loài người thì khi hội đủ duyên liền sanh vào loài người; trung ấm đáng thọ sanh vào loài súc vật thì khi hội đủ duyên, liền sanh vào loài súc vật.  Như Hoàng thân quý hữu vừa nhắc lại đó, “Linh tại ngã, bất linh tại ngã”, có hay không là do mình tin hay không mà thôi.

Ba Gấm hỏi một cách hồn nhiên:

- Thế Phạm huynh bây giờ ở đâu? Chết là hết hay còn?

Thầy Tiều với giọng bông đùa:

- Biết làm gì cho vội.  Cứ chờ cho đến khi chết hẵng hay tín hữu à.

Nương theo lối nói đầy hài tính của thầy Tiều, Ba Gấm hỏi tiếp:

- Đúng quá!  Nếu thế thì thầy cũng phải chờ cho đến khi biết đích xác “hương linh” có hay không mới đọc kinh cầu nguyện vãng sanh nước Cực lạc chứ.

Thầy Tiều hỏi lại Ba Gấm:

- Thí chủ Ba Gấm khuyên thật chí lý về cái còn và hết.  Thí chủ nổi tiếng là người giàu có trong thiên hạ.  Vậy gia sản của thí chủ bây giờ ở đâu hết?

Bị hỏi một cách đột ngột Ba Gấm lúng túng:

- À, dạ. Ở khắp nơi thầy ạ.

- Nếu ngay bây giờ không may Ba Gấm lăn đùng ra chết thì tiền của đó có còn không?

- Dạ vẫn còn chứ.

- Còn ở đâu?

- Đâu đó giữa cuộc đời nầy.

- Không, tôi muốn nói tiền của mà Ba Gấm mang theo kìa.

- Chẳng còn gì cả ngoài hai bàn tay trắng thầy ơi.

- Không đúng, còn!  Xưa nay sách vở đời thường dạy sai cả khi cứ đua nhau “dọa” rằng, chết là hết, là chỉ còn hai bàn tay trắng, chẳng mang theo được gì.  Cái gì của riêng mình đều được mang theo hay phải mang theo.

Ba Gấm reo lên thú vị:

- Thiện tai! Thiện tai! Chết rồi mà vẫn còn mang sự giàu sang theo được.  Nào, thầy phát tâm từ bi dạy cho con cách mang tiền của theo khi đã hết thở rồi đi.  Thích quá thầy hỉ.

 

Thầy Tiều cười hỉ hả theo sự kích động trẻ thơ của Ba Gấm. Thầy nói:

- Người ta có thể giúp đỡ hay chỉ dạy cách làm ăn cho kẻ có chí, có tài trở nên giàu có khi còn sống.  Nhưng không ai dạy được cách mang theo tài sản sau khi chết được cả.

- Coi kìa! Thầy vừa nói “còn” tài sản mang theo được sau khi chết mà.

- Phải, phải.  Cái nghiệp trong tâm, trong trí, trong đời đã tạo ra khi còn sống đều phải mang theo sau khi chết.  Nghiệp lành như trí tuệ, tình thương được bồi dưỡng hay nghiệp dữ như hận thù, ngu dốt của mình trong lúc còn sống, khi chết phải mang theo.  Không ai có quyền hưởng phước lành hay chia nghiệp dữ của người khác sau khi người đó qua đời. Như tướng quân Phạm Xảo không còn nữa, nhưng những tài sản mà Phạm hữu giúp nuôi Trần Minh nên người vẫn còn mãi mãi trong dòng sống của Trần Minh hiện tại hay những Trần Minh nầy, Trần Minh nọ, Trần Minh kia… trong dòng sinh diệt và biến tướng không ngưng nghỉ về sau nầy.  Cũng vậy, tài sản mà thí chủ Ba Gấm tiêu dùng vào việc đúng hay việc sai vẫn còn mãi trong dòng sống của những người tiếp nhận nó bằng lúc nầy hay lúc khác; cách nầy hay cách nọ.  Tất cả sự sống quá khứ, hiện tại, vị lai là một vũ trụ nhỏ, tạm tách ra, rồi lại trở về vũ trụ Đại Nguồn nên gia tài của mỗi chúng ta chẳng bao giờ mất đi một mảy.

- Thầy ơi! Thầy nói nghe thì hay nhưng mơ hồ quá.  Làm sao ta biết được mình đã tạo phước; mình mắc nợ hay ban ơn cho ai đó trong chuỗi dài sinh diệt hở Thầy?

Vẫn với dáng điệu vui vui mà đầy suy tưởng, thầy Tiều cười cười giải thích:

- Mới gặp một người ta thích ngay hay ghét ngay.  Có khi gặp một người từ đâu tận chân trời góc biển lù lù hiện đến rồi kết tình, kết nghĩa sống gần gũi và san sẻ một đời.  Có những sự giúp đỡ bất ngờ mà ta gọi là “may”; hay sự phá phách làm hại mà ta gọi là “rủi”… Tất cả những sự tác động qua lại đó, thường ngỡ như xa xôi và cách trở, nhưng chỉ là chuyện “trong nhà”, là sự tương tác trong một dòng chung của Suối Nguồn Vũ Trụ.  Cảm giác ta thương ghét khi gặp một người chỉ là tác động đến sau, là kết quả của “gia tài” đã ban phát hay lấy đi; cho hay mắc nợ giữa ta và người đó.

- Như vậy thì con thấy mình còn quá nghèo Thầy ạ.

- Sự giàu nghèo tự chúng nó tính toán với nhau, tự nhiên và công bằng như nước chảy về chỗ thấp; như nồng độ mặn nhạt, nóng lạnh phải hòa nhau.  Cái “thấy” của thí chủ Ba Gấm là một ấn tượng chủ quan.  Như kẻ nghèo thì sung sướng với cảm giác giàu có khi kiếm được dăm ba đồng.  Nhưng người giàu thì thất vọng với cảm giác nghèo nàn khi có được bạc vạn mà không lên tới bạc triệu.

- Nếu đã có một sự tự điều hòa và san sẻ công bằng như thế thì cần làm việc tốt là đủ, cần gì phải đi tu nữa, phải không Thầy.

- Đi tu là phương tiện. Chiếc thuyền chưa phải là sự đảm bảo cho việc qua sông, qua biển mà cần phải có phương hướng đúng, tay chèo hay.

- Một người đi tu so với một người thường sống giữa thế gian, thì ai hơn ai kém nhau về mặt nào, thưa Thầy?

- Mặt nào là mặt nào?

 

Ba Gấm xác định:

- Như về mặt đạo cao đức trọng; mặt tiếp xúc với đời sống tâm linh; mặt giá trị làm người; mặt tu hành đắc đạo… chẳng hạn thì ai hơn ai kém?

- Không ai hơn mà cũng chẳng ai kém.

- Lạ quá.  Sao lại như thế được?

- Vì khi đánh giá hơn và kém là phải dựa vào một tiêu chuẩn hay thước đo nào đó có giá trị đúng tuyệt đối. Nhưng chẳng có một giá trị nào tuyệt đối cả.  Người đi tu và kẻ ở đời thường chỉ khác nhau về nề nếp sinh hoạt, nghĩa là khác nhau về phương tiện, hình tướng.  Dùng phương tiện, hình tướng để gột rửa vô minh, đi tìm ánh sáng.  Tu là sửa đổi, là chuyển hóa từ thấp đến cao, từ xấu sang tốt, từ tối tăm sang sáng suốt.  Bất luận người xuất gia hay kẻ tại gia hễ một khắc dừng lại và thỏa mãn với cái mình đang có là đang chìm đắm; ngược lại khi chuyển mình cải hóa là tu.

- Như thế thì với thiện tâm cầu đạo, xuất gia đi tu chẳng có lợi gì hơn là ở nhà sống cuộc đời thường để tự mình tu sao Thầy?

- Người đi tu có giới luật và hình tướng thường xuyên nhắc nhở nên biết mình đang tu và phải tu.  Còn người đời thường hoàn toàn tự do nên thường quên là mình cần phải chiến đấu với lòng ham muốn của mình từng khắc một để vươn lên; lại có khi hẹn rày, hẹn mai “sẽ tu” và thường hóa ra quá muộn.  Giữa cõi vô thường nầy, ai biết được đôi khi chỉ trong một nhấp nháy mở mắt ra là còn sống mà nhắm mắt lại là đã chết.

- Có phải đi chùa, cầu nguyện để cầu xin giải thoát là cách tu tốt nhất không?

- Cầu xin ai?  Muốn khấm khá thì phải siêng năng làm ăn.  Mình mắc nợ thì mình phải trả.  Chỉ biết nhắm mắt trông cậy vào người thương hại và tìm người tốt bụng đứng ra để rước nợ cho mình tha hồ tiêu xài thỏa thích là mơ mộng viễn vông.  Đi chùa, cầu nguyện là phương tiện thấy và nghe.  Đọc kinh để thấm hiểu lời nhắc nhở của các bậc hiền thánh cho mình chứ thật ra chẳng có ai đang đợi mình ở tượng, ở đài, ở chùa, ở tháp, ở tận đâu đâu chờ khi mình gọi, mình kêu để đến dắt mình đi về cõi hạnh phúc, giải thoát cả.

- Thế thì tại sao muốn cho thân tâm an lạc lại phải đi chùa Thầy nhỉ?

- Đôi mắt nhìn, cảm giác riêng và tác động của âm thanh, hương vị là cửa ngõ đi vào tâm.  Đặt chợ trước cửa ngõ thì tâm dao động ồn ào, náo nhiệt.  Đặt vầng trăng thanh trước ngõ thì tâm vắng lặng, thảnh thơi.  Đặt cảnh chùa, mùi trầm hương và tiếng kinh như lời thơ trước ngõ thì tâm an lạc.

- Có người đến chùa thường xuyên mà tâm vẫn loạn động là tại sao?

- Chỉ vì người đó thân thì ở chùa mà tâm thì ở chợ.  Chân bước vào chùa mà tâm hướng thiện không mang theo thì dẫu có ở cả đời trong chùa tâm vẫn là tâm loạn.

            Ba Gấm lặng lẽ nhìn thầy Tiều.  Vị tu sĩ nầy thật kỳ lạ.  Ông nói chuyện đạo mà chẳng bao giờ thuyết phục người nghe đi vào thế giới thần bí hay mầu nhiệm của tôn giáo.  Ông nói chuyện đi tu cũng thản nhiên và rạch ròi như chuyện đốn củi, làm ăn.  Chính vì đã được đọc quá nhiều sách vở tôn giáo, nên Ba Gấm có cảm tưởng như thầy Tiều vừa là một tu sĩ đơn giản chẳng có gì đáng học hỏi; vừa là một ngọn núi Linh Sơn, có một suối nguồn tâm linh phong phú, ẩn dấu phía bên kia sườn núi mà ánh nắng mặt trời không bao giờ chiếu tới.

            Ba Gấm càng hỏi tới:

            - Thưa thầy, nếu tự mình tìm đường giải thoát cho mình thì những người theo đạo Phật niệm danh hiệu Phật, cầu xin chư bồ tát và long thần hộ pháp cứu khổ, cứu nạn thì có ích gì đâu?

            - Kêu cứu để được vớt lên khi sắp bị chết đuối, chứ không phải kêu cứu để nhờ người tập bơi.  Muốn biết bơi cho khỏi bị chết đuối thì tự mình phải tập bơi trước đã.  Tôn Ngộ Không theo phò Tam Tạng để cứu nguy chứ không phải để thỉnh kinh thay cho vị Đường Tăng đó. 

            - Nói vậy thì Thầy có tin hay không tin lời cầu nguyện?

            Không do dự, thầy Tiều đáp ngay:

            - Tin lắm chứ.

            - Như vậy là Thầy cũng phải dựa vào một nhân vật khác rồi.

            - Nói đúng hơn là dựa vào sức mạnh chứ không dựa vào nhân vật.

            - Đức Quán Thế Âm là một nhân vật hay một sức mạnh?

            - Cả hai thí chủ Ba Gấm ạ.

            - Thầy trả lời khó hiểu quá, thưa Thầy.

            - Có một sức mạnh vô hình của trời đất, vũ trụ. Ta có thể gọi đó là “Năng Lực Vũ Trụ” hay gọi gì tùy thích.  Năng lực đó ẩn chứa trong Suối Nguồn Vũ Trụ.  Con người sinh ra là đã có khuynh hướng nối kết với Suối Nguồn Vũ Trụ đó rồi.  Cầu nguyện là gởi năng lực nhỏ bé và yếu ớt của cá nhân mình vào năng lực suối nguồn vũ trụ to lớn vô biên đó.  Khi nguy biến, dốc tâm nguyện cầu là mở rộng cửa để lấy lại năng lực đó.  Sự thành tâm cầu nguyện cũng ví như hình thức “giải mã” để năng lực vũ trụ bắt gặp cửa ngõ của cá nhân mà hút vào và biến tướng dưới vô số hình thức.  Quán Thế Âm là Nghe Tiếng Trần Gian.  Đó là trạm chuyển tiếp năng lực vũ trụ vào nhu cầu của hoàn cảnh con người trần gian một cách kịp thời và chính xác nhất.  Đức Quán Thế Âm là một vị đại Bồ Tát, nhưng đồng thời cũng là một Năng Lực Siêu Nhiên Tuyệt Đối nên không bao giờ suy suyển, vắng mặt hay thiếu hụt bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu có nhu cầu trong vũ trụ, càn khôn nầy.  Có thể cùng lúc biến thành vô số nhân vật khác nhau tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh: Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi. Phật giáo có đức Quán Thế Âm.  Dân gian Việt Nam có ông Trời, ông Bụt và mọi dân tộc, mọi tôn giáo xưa nay và bất cứ nơi đâu, đều có một đấng cứu khổ tương tự như ngài Quán Thế Âm.  Người tiến hóa có một hình ảnh thánh linh để cầu. Người cổ sơ cầu đá, cầu cây, cầu mưa, cầu gió… đều là một hình thức giống nhau để tiếp cận với năng lực thường hằng trong Suối Nguồn Vũ Trụ đó.

Trần Kiêm Ðoàn
Số lần đọc: 3535
Ngày đăng: 04.08.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Ẩn số cuộc đời-1 - Lê Xuân Quang
Ẩn số cuộc đời -2 và hết - Lê Xuân Quang
Ngày đùa - Nguyễn Ngọc Tư
Khúc sonate đêm trăng - Nguyễn Thành Nhân
Đá cũng cần có nhau - Đinh Lê Vũ
Chị em ruột thịt - Bích Ngân
Con đường - Nguyễn Quang Nhàn
Cảm giác khi rời biển - Tiến Đạt
Dưỡng chất trần gian - Thu Trân
Đêm của thiên thần nhạc Jazz - Vũ Ngọc Tiến
Cùng một tác giả
Cầm chầu HÁT BỘI (truyện ngắn)
Cơm Hến, (dân gian)
Bờ bên kia (truyện dài)
Duyên Tu-1 (truyện ngắn)
Duyên Tu-2 (truyện ngắn)
“Thế à ! ” (phê bình)
Nam mô A-ME-RI-CA (truyện ngắn)
Xuân trong ta (văn hóa)
Thế Hệ Kế Thừa (đối thoại)