2.4. Bài 4. Một cặp với “Tiêu tự thần chung” là “Giang thành dạ cổ”. Đây cũng là một bức tranh động: cảnh thành quách cặp hai bên bờ rạch Giang Thành với tiếng trống cầm canh từ những đồn thú xa xa, hay những thuyền canh vang lên trong đêm yên tĩnh. Con rạch Giang Thành nằm gần sát với đất bạn Cam pu chia, nên một thời chắc được họ Mạc xem như đường ranh giới phân định biên cương cần phải được canh phòng cẩn mật, mà tiếng trống canh là một hoạt động không thể thiếu để nói về cảnh đẹp Giang Thành. Nhà phố bên rạch Giang Thành hiện nay không còn, nhưng chứng tích thời gian cho những hoạt động của người xưa như vẫn còn thoáng hiện đâu đó theo suốt chiều dài của con rạch nối liền kinh Vĩnh Tế mang nước vào Đông hồ trước khi chảy ra biển.
Trong bài xướng “Giang thành dạ cổ”, cái đẹp mà Mạc Thiên Tích muốn nói ở đây không chỉ thuần là “Giang thành” về đêm, mà cái đẹp này phải được gắn liền với cái đẹp nghĩa vụ của người lính, cái đẹp của tiếng trống mõ vang động trong đêm “tam canh cổ giác” và cái đẹp thể hiện sự dũng mãnh của quân lính trong bộ “kim giáp”. Nói chung, đó chính là cái đẹp của ý thức tự chu toàn trách nhiệm “ủng cẩm bào”:
“Nhất phiến lâu thuyền hàn thủy nguyệt
Tam canh cổ giác định ba đào
Khách nhưng cánh dạ tỏa kim giáp
Nhân chánh can thành ủng cẩm bào.”
Ở bài họa, Mạc thiên Tích cũng nói về cái đẹp của “Giang thành dạ cổ” là cái đẹp của lòng lòng trung thành, tận tụy của ba quân tướng sĩ trên rạch Giang Thành khi làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác về đêm:
“Trống quân giang thú nổi oai phong,
Nghiêm gióng đòi canh ỏi núi sông.
Đánh phá lũ gian người biết mặt,
Vang truyền lịnh sấm chúng kiêng lòng.”
Còn ở bài khúc vịnh, ông cũng nói về ý thức trách nhiệm của quân sĩ:
“Ac vàng vừa lặn hang tây,
Liễu dinh tiếng trống vang dầy sơn xuyên. “ (câu 111-112)
Hay ở đoạn khác, ông lại ca ngợi tinh thần trách nhiệm ở họ:
“Càng khuya càng nhặt máy binh,
Giao nghe nhởm gáy, chuột rình nép hơi.
Ba bốn dùi, đêm đà quá nửa,
Chinh bóng hòe ngã dựa bờ sông.
Tan canh rồi lại rạng đông,
Phù tang một miếng chiêng đồng thả vô.” (câu 119-124)
2.5. Bài 5. “Thạch động thôn vân” là bức tranh đẹp về cảnh “núi mây”. Núi ở đây là một khối đá vôi khổng lồ nằm ở trên một trái núi, rỗng ở bên trong, khiến cho du khách có thể nhìn ngắm trời xanh, mây trắng khi vào trong hang động. Một hang động gắn với truyền thuyết Thạch Sanh cứu công chúa mà người Việt đã lưu truyền. Đứng ở lưng chừng núi nhìn qua những cánh đồng lúa xanh rì tới một vùng biên giới xa xa có những núi khác ẩn hiện trong sương mây là vùng đất bạn Cam-Pu-Chia. Gặp những ngày mưa hoặc có sương mù, mây bay thấp ôm lấy núi, quyện lấy núi, hoặc len lỏi vào trong các khe, động của núi, khiến cho Mạc Thiên Tích nhìn mà liên tưởng tới hiện tượng núi đang nuốt mây.
Đặc tả tính chất hang động này, Mạc Thiên Tích đã mở đầu hai câu “mạo” trong bài xướng “Thạch động thôn vân” như sau:
“Sơn phong tủng thúy để tinh hà
Động thất lung linh uẩn bích kha.”
Cái đẹp ở đây chính là “gió núi tung vút màu xanh lên cao đến sông trời”, còn “hang động thì lung linh có chứa ngọc bích”.
Còn ở cặp “thực, luận” thì ông lại viết:
“Bất ý yên vân do khứ vãng,
Vô ngân thảo mộc cộng bà sa.
Phong sương cửu lịch văn chương dị,
Ô thố tàn di khí sắc đa.”
Cái đẹp của “Thạch động thôn vân” là ở vùng hang động này luôn có sự quần tụ của khói mây đi về, cỏ cây tươi tốt, gió thổi sương rơi, trời trăng chuyển dịch, cộng với cái đẹp của sự từng trải tháng năm mà trở thành “văn chương dị”, “khí sắc đa”.
Ở bài họa, Mạc Thiên Tích lại viết về sự hòa hợp giữa đất trời của “Thạch Động” như sau:
“Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giới,
Chang bang một dãy chứa yên hà.”
Điểm nổi bật ở “Thạch Động” này là do thiên nhiên đã tạo nên hang động, nên nó đã trở thành điểm đến, ở, đi của gió, khói, mây. Và tất nhiên, nó cũng là nơi thưởng ngoạn lí tưởng của con người.
Còn trong bài khúc vịnh, Mạc Thiên Tích lại viết:
“Tấm lòng son đã say đòi cảnh,
Vọi giữa trời một đỉnh cao xây.
Chập chồng đá lập cao dày,
Một hang khép mở năm mây ra vào.
Tưởng Động đào đâu đây lại sót,
Đoái tư bề, ngun ngút khí linh.
Trời gần gang tấc chẳng chừng,
Kề tòa Bắc đẩu, dựa đình Tử hư.” (câu 137-144)
Thạch Động dưới cái nhìn của Mạc Thiên Tích là một nơi danh thắng độc đáo, có một không hai. Ở đây như có sự tiếp giáp giữa đất với trời: “Một hang khép mở năm mây ra vào”, “Trời gần gang tấc chẳng chừng”, nào có khác chi cảnh trời: “Tưởng Động đào đâu đây lại sót”, “Kề tòa Bắc đẩu, dựa đình Tử hư”...
2.6. Bài 6. Đi cặp với “Thạch động thôn vân” là “Châu nham lạc lộ” cũng viết “Châu nham lạc nhạn”. Đây là cảnh một trái núi nổi lên giữa một vùng đồng thấp, nằm phía sau Thạch Động về hướng Tây Bắc được gọi là núi “Đá Dựng”. Gọi “Châu nham lạc lộ” (cò về núi ngọc) vì hòn núi này có thạch nhủ lấp lánh như châu ngọc, lại có nhiều cây xanh như một khu vườn nằm giữa, có những cánh đồng hoặc những ao đầm duyên hải bao chung quanh, dễ là nơi lí tưởng cho chim, cò về trú ngụ, tìm mồi, kiếm ăn. Cảnh chim cò về trú ngụ ở một vùng núi đầm tạo nên một vẻ đẹp thanh bình và quả là cảnh trí đặc biệt, ít có, mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Có ý kiến cho “Châu nham lạc lộ” là vùng “Bãi Ớt” vì nơi đây cũng có nhiều chim cò về trú ngụ. Nhưng nếu xét trong tương quan của một cặp cảnh thì “Châu nham lạc lộ” có lẽ thích hợp với vùng núi Đá Dựng hơn. Hơn nữa, trong bài khúc vịnh “Châu nham lạc lộ”, Mạc Thiên Tích có nói về sự gần gũi địa lí của hai cảnh đẹp này: “Luôn đường trở gót đi ra. Chân còn Thạch Động, mặt là Châu Nham.”. (câu 167, 168)
Trong bài xướng “Châu nham lạc lộ”, Mạc Thiên Tích viết:
“Lục ấm u vân xuyết mộ hà
Linh nham phi xuất bạch cầm tà
Vãn bài thiên trận la phương trụ
Tình lạc bình nhai tả ngọc hoa.”
Cảnh “Châu nham lạc lộ” là cảnh “sân chim, vườn cò” thường thấy ở vùng đồng bằng sông nước. Cái đẹp ở đây không chỉ là vùng núi đẹp, huyền ảo mà còn có sự náo nhiệt của chim cò khi chiều về bay sập sận quanh khu rừng núi, trước khi tìm bãi đáp: “Linh nham phi xuất bạch cầm tà.”, đã tạo cho vùng núi này một sự sống động riêng, như một “xã hội” thu nhỏ.
Mở đầu bài họa “Châu nham lạc lộ”, Mạc Thiên Tích không trực tiếp nói về cái đẹp của “Châu Nham” mà gián tiếp nói về tập quán của loài cầm để từ tập quán của chúng mà luận suy cái khôn của ai đó hay để nhắc nhớ con người về câu ngạn ngữ người xưa “chim có tổ, người có tông”:
“Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn.”
Đến hai câu kết của bài thì quả đúng, tác giả muốn nhắc đến một điều: tập tính nhất quán trước sau của loài vật và lòng thủy chung của con người lại chính là cái đẹp tô điểm cho vườn cũ, quê xưa. Cái đẹp này đáng giá ngàn vàng không dễ gì chuyển dịch được:
“Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi ngàn cân một tấm son.”
Trong bài khúc vịnh, ông tả chi tiết về tập tính của chim cò ở vùng đất “Châu Nham”, nó là một nửa cảnh không thể thiếu được của “Châu Nham”:
“Dọc dò đá mọc cheo leo,
Đã quen quyến nhạn, lại nhiều rủ loan.
Cò đâu kể số muôn ngàn,
Tuông mây vén ngút man man bay về.
Đầy bốn bề kêu la tở mở,
Lượn rồng rồng như vỡ chòm ong.
Rơi ngân rớt phấn giữa không,
Sương ken đòi cụm, tuyết phong khắp hàng.” (câu 175-182)
Chi tiết “man man bay về”, “kêu la tở mở” đủ để ta hình dung cảnh hội tụ đông đảo của chúng. Nhưng cái náo nhiệt là ở chỗ đa dạng: có bầy thì đang “lượn rồng rồng”; có đàn thì còn bay lả tả xa xa, chỉ nhìn thấy những đốm trắng xa xôi, ẩn hiện, lên xuống: “Rơi ngân rớt phấn giữa không”; có đám thì đã yên vị theo nhóm “sương ken đòi cụm”, có loài thì xếp thành dãi “tuyết phong khắp hàng”...
2.7. Bài 7. “Đông hồ ấn nguyệt” là bài thơ nói về một khu đầm tự nhiên nằm ở phía đông thị trấn Hà Tiên, rộng khoảng 14 Km2, một phía ăn thông ra biển; còn một phía nối liền với rạch Giang Thành liền với kinh Vĩnh Tế giáp nối với sông Hậu. Nước Đông Hồ có hai mùa mặn ngọt với nhiều tôm cá. Cái đẹp của Đông Hồ là cái đẹp sơn thủy hữu tình, ngày đêm luôn in bóng hai ngọn Tô Châu: đại Tô Châu, tiểu Tô Châu. Đặc biệt là vào những ngày trăng, sóng nước Đông Hồ cảng trở nên huyền ảo, thơ mộng. Ánh trăng soi bóng xuống mặt hồ làm Mạc Thiên Tích hình ảnh hóa hiện tượng này như một chiếc ấn tròn đóng trên mặt trang giấy mà gọi là “Đông hồ ấn nguyệt” thì còn chữ dùng nào hay hơn.
Trong bài xướng “Đông hồ ấn nguyệt”, Mạc Thiên Tích cụ thể hóa nét đẹp của vùng hồ phía đông Hà Tiên như sau:
“Tình không lãng tịnh truyền song ảnh
Bích hải quang hàn tiển vạn phương
Trạm khoát ứng hàm thiên đãng dạng
Lãm linh bất quí hải thương lương.”
Cái đẹp của Đông hồ là sự hòa hợp giữa trời và nước: ở trên thì sáng trong, phía dưới thì lặng trong; bởi đó mà “truyền” được “song ảnh”, tạo được cảnh “nước mây”. Cái đẹp của Đông hồ còn là sự điều hòa tiết trời, thiên nhiên: “Bích hải quang hàn tiển vạn phương”. Và quả là không kém gì biển cả: “Lãm linh bất quí hải thương lương”.
Trong bài họa, hai câu mạo đã mô tả rõ làn nước trong xanh và yên tĩnh của mặt hồ làm tấm gương soi tiết trời mùa thu, đặc biệt là những đêm trăng thu đẹp:
“Mặt hồ rỡ rỡ tiết thu quang
Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng.”
Tác giả còn nói về sự hòa hợp của nước mây bằng cách đặc tả nét đẹp của mảnh gương hồ, mà ở đây mặt hồ và mặt trăng như sánh đôi nhau khoe sắc. Ở cặp thực, tác giả viết:
“Đáy nước chân mây in một sắc,
Ả Hằng nàng tố lố đôi phương.”
Còn hai câu kết là tâm trạng của con người trước cảnh. Cảnh là vậy, nhưng tâm trạng của con người có thể làm cho cảnh sắc nhuốm màu chủ quan, tâm cảnh:
“Cảnh một mà tình nào dễ một,
Người thì ngả ngớn, kẻ sầu thương.”
Trong bài khúc vịnh, có lẽ Mạc Thiên Tích đang đa mang nỗi ưu tư, nỗi sầu “non nước”, phải bận bịu chuyện “áo cơm, thế nước, thế trời...”, nên khi đến thưởng ngoạn “Đông hồ ấn nguyệt”, ông vẫn không trút bỏ được tâm sự ray rứt, dù cảnh nơi đây đã mang cho ông sự thanh nhàn, sự lắng lòng mà như ông bảo không dễ gì có được: “Mua nhàn một khắc giá đành nghìn cân”. Ông viết:
“Kẻ gió mây người thì non nước,
Hai phía đều chiếm được thu thanh.
Cảnh lành như đợi người lành,
Mua nhàn một khắc giá đành nghìn cân.
Thấy tinh thần tấm lòng phơi phới,
Cảnh vẽ vời xui lại nguồn tham.
Khuyên ai chưa trả áo cơm,
Đã say thế nước, lại ôm thế trời.” (câu 217-224)