SCL.Chúng tôi giới thiệu một cách nhìn của Anh Trần Kiêm Đoàn để cùng nhìn vào một vấn đề .Rất mong nhận nhiều ý kiến về chủ đề này.
Một lần nữa, giải Nobel Văn Chương lại vào tay nhà văn của một quốc gia “con cháu ngoại” – Nghĩa là không xuất thân từ giới văn bút thuộc về chiếc nôi văn hóa truyền thống Âu Châu hay thuộc nòi hiệp sĩ “gươm nóng hổi” Bắc Mỹ !
Người đoạt giải Nobel Văn Chương năm nay, 2003, là một nhà văn Nam Phi 63 tuổi, John Maxwell Coetzee. Đây là nhà văn thứ hai của Nam Phi được giải Nobel Văn Chương kể từ khi nhà văn Nam Phi đầu tiên là Nadine Gordimer được trao giải thưởng nầy vào năm 1991.
Coetzee hiện là một giáo sư tiến sĩ ngành văn chương Anh Mỹ, xuất thân từ đại học Cape Town. Từ năm 2002 sống tại Úc và hiện là giáo sư thỉnh giảng tại đại học Chicago, Hoa Kỳ.
Coetzee là một trong những tác giả thành công hàng đầu của Nam Phi với 8 tác phẩm tiểu thuyết đã xuất bản và là tác giả sáng giá của nhiều bài biên khảo và luận thuyết có ảnh hưởng rất sâu rộng tại châu Phi. Coetzee được xem là mẫu người kín đáo, xa lánh mọi hình thức quảng cáo, vinh danh, phỏng vấn, hội hè đình đám xưng tụng nhau... tới mức lập dị. Ông có một lối phân tích và lý luận cực kỳ bạo liệt (ruthless) khi đả kích sự độc đoán và tàn bạo của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và thói đạo đức hình thức hời hợt của xã hội phương Tây.
Tác phẩm mới nhất đóng vai trò “hỏa pháo” góp phần tích cực đưa Coetzee lên đài danh vọng là cuốn tiểu thuyết nhan đề “Disgrace” (Bỉ Mặt), xuất bản năm 1999 thuộc lọai “ best seller ” mà chỉ ở Mỹ không thôi cũng đã bán ra 200.000 ấn bản. Tuy nội dung tác phẩm chỉ đơn giản là câu chuyện của David Lurie, một giáo sư dạy môn ngôn ngữ học tại một trường đại học ở Cape Town. Đời đã hai lần ly dị, ở lứa tuổi năm mươi, David yêu cô học trò sinh viên của mình. Chuyện yêu đương chẳng đi đến đâu, bị kết tội xâm phạm tình dục và bị đuổi dạy. Không một lời biện minh, David về vùng quê heo hút sống hẩm hiu với Lucy, cô con gái rượu duy nhất mang chứng đồng tính luyến ái. David cam chịu một cuộc sống tẻ nhạt ở nông trại mà Lucy cho rằng: “Cuộc sống nơi đây là thế đó. Một cuộc sống chia phần với súc vật.” (This is the only life there is. Which we share with animals.) Thật ra, tác phẩm Disgrace tuy chỉ 200 trang với một nội dung đơn giản như thế, nhưng lại mang tầm cỡ Nobel vì tác giả không phải là người viết lách kể chuyện đơn thuần. Koetzee đã gởi gắm một thông điệp sâu kín mang đầy tính phản kháng và nhân bản ẩn sau hàng chữ nghĩa. Nhân vật David là hiện thân của con người bị áp bức và chấp nhận số phận tủi nhục của mình một cách thản nhiên trong xã hội kỳ thị chủng tộc Nam Phi. Sự “Bỉ Mặt” coi như tất nhiên, sự chịu đựng câm lặng của thân phận con người quá dạn dày đến nỗi không ai buồn đối kháng.
Bản chất của một nền văn nghệ lành mạnh mang tính tự do và đối kháng với áp bức bất công . Người cầm bút chân chính mang tinh thần khai phóng để cổ võ cho quyền làm người , tự do và công bằng của xã hội. Khi không có tự do và không có quyền lên tiếng bảo vệ quyền sống thiêng liêng của con người là khi người làm văn nghệ bị truất quyền sáng tạo chân chính. Khi đó, người cầm bút được gọi là “nhà văn” chỉ còn là người cầm bút xếp chữ bâng quơ và xa lạ với thực trạng của xã hội và con người mà anh ta đang sống.
Suốt 100 năm lịch sử, tuy cũng có lúc thăng trầm hay vắng bóng, nhưng tinh thần giải thưởng Nobel chưa bao giờ hạ thấp con đường lý tưởng đích thực của văn chương.
Thử nhìn lại một chặng đường rất ngắn của văn học trong vòng 5 năm qua. Giải văn chương Nobel đã chuyển mình để dấn thân một cách tích cực vào cộng đồng văn học thế giới và làm sáng danh cho lý tưởng khai phóng của văn chương.
1999: Gunter Grass
Năm 1999, Gunter Grass, một nhà văn hiện đại nổi tiếng của Đức được giải thưởng văn chương Nobel. Gunter Grass được giới văn bút quốc tế hâm mộ từ khi cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông mang tên là Cái Trống Ếch (The Tin Drum) ra đời năm 1959. Sau đó là những tác phẩm Những Năm Chó (Dog Years), Mèo Chuột (Cat and Mouse). Gần nửa thế kỷ sau, Cái Trống Ếch đó đã đưa ông lên đài danh vọng. Tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc đời và tư tưởng tác giả. Đó là cuộc đời của thằng bé đánh trống ếch Oskar Mazerath, sinh ra trong chiến tranh và áp bức của thời Đệ Tam Đức quốc xã. Ngày Sinh nhật lên ba nó khùynh tay, gồng mình tuyên bố với làng nước là nó sẽ không chịu lớn thêm nữa vì nó sợ làm người lớn. Thằng bé đánh trống ếch Oskar có thể vẫn không “lớn” nhưng rồi sẽ già đi như bạn, như tôi, như Guenter, như những người thuộc về thế hệ chiến tranh Việt Nam. Trong chinh chiến thằng bé Oskar cũng phải rời quê hương tản cư dọc đường gió bụi. Nó nhập vào đám nhạc sĩ “du ca”, đánh trống ếch cắc tùng tùng. Tiếng nó xoáy lên sắc nhọn đủ sức làm bể hàng cửa kính, tiếng trống của nó vang lên như lời van lơn, tâm sự, đay nghiến trước những buồn vui của cuộc sống. Rồi nó trở thành thủ lãnh của nhóm nổi loạn đòi tự do. Nó cũng rơi vào một cuộc tình yêu đương diễm lệ. Nó cũng trở thành nghệ sĩ được biết tên. Và sau khi chiến tranh chấm dứt, nó bị kết tội sát nhân mặc dầu nó chẳng dính líu gì tới vụ án cả. Cuối cùng nó bị bỏ tù trong nhà thương điên chỉ vì không chịu thỏa hiệp với trò đời rởm dáng trước mắt. Nó thành tội nhân oan uổng của thời đại vì nó dám nổi loạn chống lại kẻ có quyền thế đương thời, những kẻ hưởng thụ trên sự điên cuồng của chiến tranh, phè phỡn bằng sự độc tài và áp bức.
Nhận định về nghệ thuật văn chương trong tác phẩm Cái Trống Ếch, Alix Wilber viết rằng nhà văn Grass đã dùng sự cười cợt như một con dao - nó làm cho bạn cười, nhưng cũng làm cho bạn rướm máu. Tác phẩm chứa đầy tính chất tượng trưng để nói lên sự bi đát sâu thẳm về thân phận con người trong lịch sử nước Đức cũng như trên toàn thế giới.
Trong suốt 40 năm lịch sử nhà văn Grass cũng như tác phẩm của ông đã chịu không biết bao nhiêu búa rìu của dư luận. Ngay trên quê hương ông, ở Tây Đức thì Cái Trống Ếch được chọn làm sách giáo khoa mà Đông Đức thì tịch thu và cấm đoán. Thế nhưng rồi cuối cùng cuốn sách cũng vượt qua tất cả những biên giới của con người để đến một vùng trời vĩnh cửu: Đó thế giới chân tâm của con người. Thông điệp gần như sau cùng của Guenter Grass gởi cho thế hệ đàn em là: “Người văn nghệ cũng như người đi buôn, vốn trao đi thì mong có lãi trở về. Lãi của con buôn là tiền bạc, nhưng lãi của người nghệ sĩ là sự khen chê của người đời dành cho tác phẩm của mình. Điều đáng sợ hãi nhất cho người văn nghệ là sự im lặng của người đọc hay khán giả. Đừng vội hài lòng với những lời khen và buồn bã trước những lời chê, mà hãy vui vì bạn đã có sức lay động được lòng người trước đã.”
2000: Cao Hành Kiện
Giải Nobel văn chương năm 2000 đã được trao cho một nhà văn Trung Hoa là Cao Hành Kiện (Gao Xingjian).
Cao Hành Kiện (Gao Xingjian), nhà văn đầu tiên của Trung Hoa được giải thưởng Văn Chương tương đối sáng giá nhất của nhân loại trong suốt 100 năm qua – giải Văn Chương Nobel. Trong sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm nhiều thể loại, tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu nhất đã đưa Cao Hành Kiện lên hàng “Nobel văn giả” là cuốn Linh Sơn (Soul Mountain/ La Montagne de l’Âme), một tác phẩm dài trên 500 trang. Linh Sơn là một tác phẩm kết cấu tổng hợp nhiều hình thái và thể loại sáng tạo văn chương. Trong đó, hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, hoạt kê, hội thoại, đối thọai, độc thoại... quyện vào nhau như trái núi mang nhiều vẻ hiện thực và kỳ bí tùy theo thời gian và thế ngắm.
Cao Hành Kiện sinh năm 1940 tại Cống Châu (Ganzhou), Quảng Tây, Trung Hoa. Vốn là một nghệ sĩ đa tài trong các lĩnh vực văn chương, hội họa, kịch nghệ, phê bình, dịch thuật, Cao đã lận đận lớn lên giữa thời đại Mao Trạch Đông. Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa (1966-76) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình.
Trong bối cảnh xã hội và văn hóa đặt trọng tâm trên đời sống tập thể, cá nhân không còn chỗ đứng và có khi bị tan loãng trong cơn lũ ồ ạt của tâm lý quần chúng, tình cảm tập thể, và suy tưởng một chiều. Cao sống sót và cứu được mình trong cơn đại hồng thủy của tư tưởng. Ngọn núi Linh Sơn là một ngọn núi ảo ảnh nhưng cái bóng sừng sững mà vô hình của nó trở thành điểm tựa của mình và cho chính mình vì nó là ngọn núi của bản ngã.
Trung Hoa từ năm 1942 và nhất là qua biến cố “quốc hữu hóa văn chương” năm 1949 trở về sau, sứ mạng độc tôn sáng tạo văn nghệ là để phục vụ chính trị. Nhà văn muốn sống còn thì phải tự biến thành cái răng cưa của bánh xe trong guồng máy chính trị tập thể. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Hoa thời hậu Mao đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Trong tác phẩm “Tham luận khởi đầu về nghệ thuật của tiểu thuyết hiện đại” (Premier essai sur les techniques du roman moderne) năm 1981, ông đã dấy lên cuộc bút chiến đầy sóng gió về “Quan Điểm Mới” trong sáng tác văn nghệ. Năm 1985, tác phẩm “Kẻ Rừng Rú” (L’Homme sauvage) là bước phản công bão liệt nhất về guồng máy văn nghệ tập thể đã làm lu mờ tài năng nghệ sĩ. Quan điểm văn nghệ tìm lại con người chân thực của ông đã gây ra những cuộc bút chiến sôi nổi trong nước và đã lôi kéo được sự chú ý của cộng đồng văn bút thế giới. Đến năm 1986, tác phẩm “Bờ Bến Khácï” (The Other Shore) đã bị giới văn nghệ cầm quyền ở Trung Hoa cấm đoán, phê phán gắt gao.
Để giữ cho ngọn núi bản ngã được ẩn mình an trú trong cơn giông bão thời thế, Cao Hành Kiện đã làm một cuộc “hành hương” trong suốt mười tháng. Ông đã bước đi trên lộ trình dài 15.000 cây số qua những vùng núi non hiểm trở miền Tứ Xuyên; từ ngọn nguồn sông Dương Tử (còn có tên là Trường Giang) dọc tới biển khơi. Chất liệu chính của tác phẩm Linh Sơn là dòng suy tưởng, là cảnh sông núi chập chùng, là dáng trời đất bao la, là khuôn mặt thật của con người, là những mảnh đời muôn vẻ; và quan trọng nhất là sự tìm về ngọn nguồn, về bản chất của sự bình an sâu lắng và tự do thực sự trong chính mình. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh đã nhận định: “Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong.”
Trong cuộc hành trình tìm về Linh Sơn, có chăng những người cầm bút Việt Nam đang âm thầm nhập cuộc. Sẽ trễ tràng cho một sự chối từ, nhưng sẽ không bao giờ muộn màng cho một sự nhập cuộc. Nhập cuộc trên đường về Linh Sơn cũng có nghĩa là chia tay. Có can đảm chia tay với đám đông ồn ào, quyền thế, phù hoa, vọng động mới có thể trở lại bến bờ của dòng sông Tự Ngã trong chính lòng mình. Và từ đó tìm về Linh Sơn, ngọn núi của bản ngã hay chính là linh hồn còn nguyên vẹn trong mỗi con người.
2001: V. S. Naipaul
Người đoạt giải Nobel Văn chương năm 2001 là Vidiadhar Surajprasad Naipaul (V.S. Naipaul). Ông là người gốc Ấn Độ, 69 tuổi, sinh tại Trinidad, một cựu thuộc địa của Anh ở quần đảo Carribbean, vùng biển Nam Mỹ. Năm 18 tuổi, ông sang Anh, theo học trường Đại học Oxford. Tốt nghiệp và tiếp tục sống đời nhà văn tại Anh quốc cho đến hiện tại.
Đây là một nhà văn nổi tiếng từ trong suốt ba, bốn thập niên qua. Ngoài các giải thưởng văn chương dành cho ông như Booker Prizes (1971), T.S. Eliot Award (1986), tiến sĩ danh dự của các đại học St. Andrew, Cambridge, Columbia, London, Oxford, năm 1990, V.S. Naipaul được nữ hoàng Elizabeth tấn phong tước hiệu “Hiệp Sĩ”. Đây là một danh dự cao quý nhất của Hoàng gia Anh quốc dành cho những người đạt thành tích kiệt xuất trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Sự kiện nhà văn V.S. Naipaul được giải Nobel năm nay trong thời điểm toàn thế giới đang lên cơn sốt vì nạn khủng bố của lực lượng Hồi giáo quá khích đã làm dấy lên nhiều câu hỏi liên quan đến “tính chính trị và thời thượng” của giải Nobel. Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra vì trong số hơn 20 tác phẩm của V.S. Naipaul đã xuất bản từ năm 1957 đến nay có 2 tác phẩm liên quan đến Hồi giáo:
- Giữa Những Tín Đồ ( Among the Believers, 1981) và Mặt Trái Đức Tin (Beyond Belief, 1998). Đây là kết quả sự tìm hiểu, tham khảo, ghi nhận tại chỗ của tác giả trong các cuộc du hành tới những nước Hồi giáo như Indonesia, Iran, Pakistan, và Malaysia.
V.S. Naipaul đã tìm hiểu ngọn nguồn của Hồi giáo hiện đại và ý thức hệ của sự cuồng nộ trong tôn giáo nầy. Ông đã viết trong cuốn Giữa Những Tín Đồ rằng: “Hồi giáo đã thần thánh hóa sự cuồng nộ: Cuồng nộ trong đức tin và cuồng nộ về chính trị. Và hơn một lần trong chuyến đi nầy, tôi đã gặp những người đàn ông nhạy cảm, họ là những người sẵn sàng mê man lao vào những cuộc biến động lớn.”
Ông cũng đã viết trong Mặt Trái Đức Tin là: “Có lẽ không có một chủ nghĩa đế quốc nào giống như nghĩa đế quốc của Hồi giáo và các xứ Ả Rập”.
Điều thú vị là V.S. Naipaul không bị các tín đồ Hồi giáo lên án khắt khe như đối với Salman Rushdie khi xuất bản tác phẩm Lời Quỷ Sứ (The Satanic Verses) trước đây mà chỉ bị phê phán nhẹ nhàng là: “Thiếu một viễn kiến cần thiết về Hồi giáo.”
2002: Imre Kertesz
Nhà văn Hung Gia Lợi (Hungary) Imre Kertesz, 72 tuổi, thắng giải Nobel văn chương năm 2002. Là một người bị vùi dập trong các trại tập trung từ Auschwitz đến Buchenwald của Nazi, Đức Quốc Xã trong lứa tuổi thanh niên, Kertesz đã phản ánh kinh nghiệm sống thực bằng nước mắt và xương máu của chính bản thân và đồng bào mình trong sự nghiệp sáng tác văn chương. Tác phẩm văn chương đầu tay được xuất bản năm 1975, “Fateless” (Chẳng Có Gì Là Số Phận) Kertesz đã kể lại kinh nghiệm đời mình qua nhân vật George, một cậu bé 14 tuổi, bị lùa vào trại tập trung và sống sót trong hỏa lò phi nhân ấy. Với George, sống sót qua địa ngục trần gian chẳng phải là số phận an bài mà sống được là nhờ sức mạnh nội tại của chính mỗi con người biết vươn lên từ trong nhục nhằn và cô đơn; từ truyền thống của nòi giống, của văn hóa và gia tài tâm linh miên viễn. Ngày trở về, George đã kêu lên với những người thân rằng: “Tại sao mọi người không thể thấy rằng, nếu cứ đổ cho số phận thì hoá ra con người không còn có tự do nữa hay sao?” ("Why can't you see that if there is such a thing as fate, then there is no freedom?")